Tông công gân môt triêu ruoi nguoi vào Nam . -- TU DO - HANH PHUC -- Tai cac khu tru mât -- Mo mang khân hoang lâp âp cac dinh diên tru phu .
Co giây chu quyên dât dai .
KHÔNG TÔN MÔT XU ... SUONG QUA !
ĐỒNG BÀO BẮC KỲ DI CƯVÀO NAM LÁNH NẠN CỘNG SẢN 1954
60 năm nhìn lại cuộc di cư 1954 Vĩnh Biệt Hải Phòng
Kính dâng hương hồn Cậu Mợ,
với lòng tri ân sâu xa.
Khi cuộc Di Cư 1954 diễn ra, tôi vừa lên 10 tuổi, đang sống với gia đình ởHải phòng, cái thành phố hải cảng đã trởthành chặng cuối cùng đối với hàng trăm ngàn người Việt miền Bắc muốn di cư vào Nam thay vìở lại sống dưới sự cai trị hà khắc phi nhân bản của Việt Minh, tên gọi của những người cộng sản hồi ấy.
Cũng cái thành phố hải cảng này đã là nơi Bác sĩ Trung úy Hải quân Mỹ, Thomas A. Dooley, và vài quân nhân Mỹđã làm việc trong suốt 11 tháng, từgiữa tháng 8 năm 1954 tới giữa tháng 5 năm 1955, đểgiúp dân tịnạn ổn định sức khỏe trước khi gửi họ lên tầu Mỹdi cư vào Nam. Kết quảcủa thời gian hoạt động này đãđược Bác sĩ Dooley ghi lại trong cuốn hồi ký“Deliver Us From Evil” (“Xin cứu chúng tôi khỏi mọi sựdữ”, trích từ một câu trong Kinh Lạy Cha của tín đồ Thiên Chúa giáo) xuất bản vào năm 1956.(*) Cuốn sách, mô tả, với sựquan tâm chân thực, xót xa của một vị lương y mới ra trường, những giao tiếp của ông với dân di cưtừcác vùng quê đổvề, phần lớn là những giáo dân thuộc đạo Thiên Chúa, đói rách và bệnh hoạn, và nghe kể về những cảnh huống tàn bạo ngoài sức tưởng tượng mà những người dân quê phải gánh chịu do những người cộng sản cuồng tín gây ra.
Cha mẹ tôi không cóýđịnh di cư vào Nam. Cha mẹtôi nguyên là con nhà nông thuộc giới điền chủ. Ông bà cùng sinh ra vào khoảng năm 1910, và lớn lên ở làng Trình Xá, huyện Thanh Oai, tỉnh HàĐông. Cha tôi là con trai duy nhất trong một gia đình gồm năm chịem. Ông học lực chỉ xong được bằng tiểu học, và với tí vốn liếng học thức đó, ông được bầu làm lý trưởng, hay xã trưởng, thời vua chúa xưa là hương mục, có trách nhiệm trông coi tài sản công và tư của làng. Hồi còn nhỏ tôi nghe mẹtôi kể chuyện là, vìông có máu mê cờ bạc, nên có cái triện đểđóng dấu trên những giấy tờsang nhượng ruộng đất bà nội tôi nắm giữluôn, còn cẩn thận cuốn trong ruột tượng quấn quanh bụng suốt ngày đêm cho chắc ăn, đểông không tự do bán ruộng đất của gia đình. Do đấy, mỗi lần có ai tới xin ông lý trưởng đóng nhận một sang nhượng bất động sản nào đó, ông lại phải nói với mẹ cho mượn cái triện. Có lẽ cái say mê nhất của ông là xe hơi và máy móc mà những lần ra tỉnh chơi ông đã thấy, và cóđểý theo giõi việc làm ăn của một ông chú của tôi, chủ một hãng xe đòở Hà Nội.
Tôi không nhớông bà quyết định dọn ra tỉnh vào năm nào, vì chỉ cóở tỉnh ông mới được thoả mãn lòng say mê máy móc xe hơi, song căn cứ vào năm và nơi sinh, là tỉnh Sơn Tây, của các anh chị kếtôi, thì có lẽ vào khoảng năm 1940 hay trước đóđôi năm. Tóm lại trong đám anh chị em 11 đứa tụi tôi thì ba người đầu sinh ở quê, năm người, trong đó có tôi là thứ bẩy, ra đời ở Sơn Tây, và ba đứa em cuối cùng sinh ởHải Phòng. Thoạt đầu cha tôi làm công cho người ta. Dần dàông tậu được một cái xe chởhành khách, dậy anh Cả và vài người cháu trai đồng lứa học lái, sửa xe và đi theo làm lơ xe. Có lần, mẹ tôi kể, chiếc xe đò của ông bị quân đội Pháp trưng dụng đi sang tận bên Miên, Lào mà mẹtôi không được tin tức gì tới hai tuần, cuối cùng ông vể kể chuyện bà mới hay. Ông làm ăn vất vả nuôi một bầy con lúc nhúc. Cũng nhờ sựchịu khó cần cù của ông mà hồi xẩy ra nạn đói năm 1945 giết chết cảtriệu người miền Bắc, gia đình tôi lớn bé không có ai bị thiếu ăn cả.
Trí nhớ của tôi bắt đầu ghi nhận được là lúc gia đình tôi đã dọn xuống Hải Phòng, có lẽvào cuối thập niên 1940. Nhỏ nên không biết gì về tình hình chiến sựsôi động hồi ấy, nhưng tôi nhớcó lần anh lơ xe hớt hải chạy về giữa ban ngay, nói không ra hơi, báo với cha tôi, vỏn vẹn, “Ông ơi, xe bị mìn lật rồi!” Cha tôi lặng người chết đứng, mẹtôi ngưng mọi việc đang làm thất thần nhìn cha tôi, trong khi lũ nhỏchúng tôi biết đã tới lúc đi chỗ khác chơi.
Cha tôi, như nhiều người Việt khác, là người có khảnăng sinh tồn mạnh mẽ, sẵn sàng vượt qua mọi trở ngại và bất hạnh của đời sống đểlo cho gia đình. Vào các năm trước cái gọi là Chiến thắng Điện Biên Phủ, rồi tiếp theo là việc ký kết Hiệp định Genève vào mùa hè năm 1954 giữa Pháp, chính phủ Bắc Việt của HồChí Minh, Lào, Trung Cộng, Liên Xô và Anh (Hoa Kỳ từ chối không ký, còn chính phủNam Việt Nam không nằm trong những phe ký nên không chấp nhận Hiệp định đình chiến này) được ký kết, cha tôi đã làm chủ một hãng xe chở hành khách gồm cảxe đò và xe nhỏ, hình như hiệu Citroen, không rõ tại sao gọi là xe lô-ca-xông, tôi đoán từ chữ“location”, ngược xuôi các tuyến đường Hà Nội – Hải Dương – Kiến An – Hải Phòng và Hải Phòng –Đồ Sơn, tôi nhớđại khái thế. Hãng xe của cha tôi tên là Đông Bình, nên nguời ta hay gọi cha mẹ tôi làÔng BàĐông Bình, chúng tôi là con Ông Bà Đông Bình. Tôi không bao giờ có dịp hỏi tại sao ông chọn tên đó, nhưng nghĩ có lẽđó là do khao khát được nhìn thấy hoà bình trên giải đất dọc theo bờ biển Thái Bình Dương lâu nay chiến tranh triền miên này. Hai người anh họ con mấy bà bác ruột của tôi cũng mỗi người được cha tôi nâng đỡtậu được một hay hai xe chở hành khách, tựđặt tên là Bắc Bình và Nam Bình. Tôi không rõ vì sao cha tôi không nghĩ tới việc mua bất động sản, mà suốt thời gian sống ở Hải Phòng ông thuê nhà chứkhông mua. Tôi còn nhớ ngôi nhà chúng tôi ở trước khi di cư vào Nam làởsố3 Ngõ Nghĩa Lợi, một đầu ngõ gặp đường Cát Dài, vàđầu bên kia đụng một đường rầy xe lửa nằm bên cạnh một hồsen mà hình ảnh vẫn còn in trong trí nhớtôi, mà loài sen là hoa tôi rất thích. Không mua nhà đất có lẽ vì cha tôi thấy không cần thiết vìông chắc chắn sẽ thừa hưởng nhiều ruộng đất để lại của bà Nội tôi khi bà qua đời.
Vào những ngày trước khi kết thúc cuộc chiến mà sách vở gọi là Cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứnhất (1946-1954) và nhiều người trong chúng ta cho là không cần thiết vì sau Đệ nhị Thế chiến đa sốcác nước thuộc địa đều lần lượt trước sau lấy lại được độc lập mà không cần đổ máu, tin dữ từnhà quê ra: Bà Nội tôi bịchết sau khi bị trúng một mảnh mợc chê vào đầu trong khi đang trốn dưới một cái phản gỗvào một đêm nọ. Bà tôi chết khi được 84 tuổi, tuy già nua nhưng cụcòn khá minh mẫn. Mỗi lần nhớđến Bà Nội thì tôi không thểkhông nhớ tới một lần về quêăn Tết, tôi ởmiết bên nhàông cậu ruột vìởđó có các người em họ cỡ tuổi tôi hay lớn hơn. Đến giờđi ngủ, bà tôi lụm cụm tay xách cây đèn dầu tay chống gậy sang đón về nhưng tôi không chịu về. Tôi sợnhững nét già nua nhăn nheo của bà một phần, nhưng sợ nhất là cái quan tài bằng gỗsơn đỏbà sắm sẵn để trong cái gian đầu nhà chuyên đểchứa thóc gạo và các đồ lỉnh kỉnh khác.
Hiệp định Genève được ký kết vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, chia cắt Việt Nam làm hai, miền Bắc do Việt Minh cai trị, miền Nam sau đó trở thành một quốc gia mới. Người dân hai miền có 300 ngày đểchọn nơi mình muốn sinh sống. Quê tôi là một trong những vùng được Việt Minh tiếp thu sớm nhất vào cuối năm 1954. Cha tôi quyết định gửi vợ chồng anh Cả vàđứa con gái đầu lòng mới được mấy tháng vềnhà quê sống. Cùng đi với anh chị Cả là anh Sáu, tôi và thằng em Chín. Nhưnhiều chủ gia đình Việt xưa, cha tôi ít khi giải thích lý do ông có một quyết định nào đó, hoặc có thì ông cũng chỉbàn với anh Cả, vì khi viết bài này tôi hỏi Chị Năm, người chịkếtôi, chị cũng nói không rõ tại sao cha tôi quyết định gửi một sốcon về quê ngay sau khi đình chiến. Tôi suy đoán là thứ nhất, anh Cả hồi ấy bịđộng viên, đã mặc đồlính (tôi còn nhớ, mặc dù hồi ấy chỉmới 9, 10 tuổi, đã trốmắt trước vẻđẹp trai khác thường của ông anh trong bộquân phục mầu rêu khít khao với thân hình và cái nón chào mào cùng mầu), có lẽ là bỏngũ về quê sống, có thểlà do ý muốn của cha mẹ tôi vì lo cho cậu con cả. Ngoài ra, có thểcha tôi, cũng nhưđa số người Việt ở thành thịhồi ấy chưa biết gì về hậu quả của các cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu đã vàđang diễn ra ở các làng quê nhưng chưa vềtới làng tôi, nên ông gửi một số con về quêđểtiện thểtrông nom ruộng đất chăng.
Chúng tôi về quê sống được vài tháng vào cuối hè vàđầu thu, thì một bữa chịNăm, hồi ấy mới 14 tuổi song tính nhanh nhẹn nên được cha tôi tin cậy giao phó việc đi đi về vềđem tiền bạc và thông tin, được cha tôi gửi về bảo thu xếp về Hải Phòng đểđi Nam. Để tránh nghi ngờlà cóýđịnh đi Nam và có thểbịbao vây giữ lại, khi ra tới Hànội, lúc ấy cũng đã được tiếp thu, chúng tôi phải giả bộ như sẽ sinh sống ởđó, bằng cách thuê một căn phòng nguyên là lớp học ởtrong một nữ tu viện và trường học mà hầu hết nhân sựđã di cư, nằm trên đường Hai Bà Trưng, đểởít tuần. Anh Sáu và thằng Chín thìđã theo chị Năm về Hải Phòng trước, còn tôi ở lại với gia đình anh chịCảđểgiúp trông con cho chị. Đểcho màn trình diễn có vẻ thực hơn, tôi còn được ghi danh đi học lớp ba hay tưở một trường công tại đây. Tất nhiên vì là con nít nên tôi không được cho biết các mưu tính đó của các người lớn.
Khi chúng tôi chuẩn bịđi Hải Phòng thì tôi được người lớn dặn dò là nếu có ai hỏi đi Hải Phòng làm gì thì nói làđi thăm người nhà sắp đi Nam để khuyên họởlại, đừng đi Nam nữa vì nước nhàđãđộc lập tựdo. Ngoài ra, riêng tôi còn được giao thêm một việc nữa, đó là khi các cán bộ Việt Minh sắp khám đến chị Cảđang bếcháu bé thì tôi phải tìm cách… cấu vào đùi con bé thật mạnh đểnó phải khóc ré lên và chị Cả sẽđưa nó cho tôi bảo bế ra ngoài. Thếnhưng chính việc đó lại làm cho người nữcán bộ khám chị Cảcàng sinh nghi, túm tôi lại và lột lấy hai chiếc giầy trên chân con cháu, lôi ra và tịch thu hai cọc giấy bạc tiền Đông Dương còn mới tinh. Tuy thế, chúng tôi sau đó cũng được phép lên xe đi Hải Phòng, chỉ có mớtiền ởlại. Của đi thay người, chịtôi ứa nước mắt suýt xoa tiếc của song tự an ủi. Lúc ấy chúng tôi hoàn toàn không biết tới những cảnh tìm đường vượt thoát vô cùng thương tâm của bao nhiêu ngàn con người muốn tìm đường tới Hải Phòng, một thành phốđang hấp hối song vẫn còn là nơi còn cho họ cái hy vọng tới được Đường tới TựDo – Passage to Freedom – như tên Chiến dịch Đường Tới Tự Do do Hải Quân Hoa Kỳđảm trách, bên cạnh Pháp và Anh lo phần chuyên chở người vào Nam bằng máy bay.(**)
Nếu trong cuộc Di cư 1975 và sau đó, câu hỏi của hầu hết người Việt ởMiền Nam, trong một cái xã hội vô vọng mà“đến cả cái cột đèn nếu biết đi thì cũng tìm cách đi”, là làm sao đểđi; thìởthời điểm 1954 tình thếphức tạp hơn, và câu hỏi lớn nhất của họlà nên đi hay ở. Trước hết, một trong những điều khoản của Hiệp định Genève là hai năm nữa, vào năm 1956, sẽcó một cuộc tổng tuyển cửđể thống nhất đất nước và người dân hai miền Nam Bắc tựđịnh đọat lấy thểchếchính trị thích hợp. Đây chính là điều đã, theo tôi, khiến nhiều người dân miền Bắc quyết định ở lại để chờ cái ngày không bao giờđến đó, một phần cũng vì quá mệt mỏi với chiến tranh và muốn thấy hoà bình bằng mọi giá, và cũng vì tiếc của, bên cạnh ảnh hưởng bởi một chiến dịch tuyên truyền ráo riết của Việt Minh. Tuyên truyền và cả dọa nạt, nhất làđối với dân quê, rằng tầu “há mồm” của Mỹ sẽđưa họ ra biển rồi mở cái cổng mồm đó và trút họ xuống biển, hoặc thủy thủ Mỹ sẽ nướng con nít ăn thịt nếu đến với họ, vv. Và thứhai là dạo ấy chỉ có một sốít nghe biết, chứng nhân thì lại càng ít hơn, được những cuộc tàn sát giết hại vàđầy đọa những người không cùng chính kiến của người cộng sản.
Cha tôi, tôi nghĩ, thuộc loại người đã quá mệt mỏi với chiến tranh, muốn tin vào cái viễn ảnh tổng tuyển cử năm 1956, và nhất là tiếc của, của do ông đã tốn bao mồ hôi nước mắt tạo dựng nên vàđất đai màông tưởng là sẽđược thừa hưởng của bà tôi. Tuy vậy, ông cũng còn bán tín bán nghi, chưa quyết sẽ có di cưhay không. Và có lẽđể cho dễ dàng quyết định vào phút chót, cha tôi bảo anh Cảđem gia đình anh và một sốcác em vào Nam, trong đó có chị Ba, chịNăm, anh Sáu và tôi.
Nghe biết sẽ phải đi Nam với chúng tôi, chịBa khóc lóc thú nhận đang yêu anh Tuấn và muốn được cha tôi chấp thuận cho lấy anh, mà gia đình anh Tuấn thìđã nhất định ởlại. ChịBa là người đẹp nhất trong đám sáu chị em gái chúng tôi, và khá tân tiến: chị là người đầu tiên trong gia đình tôi đi uốn tóc, và chịcòn học chơi đàn guitar nữa. Tôi hay ngồi xem chịgẩy đàn và hát bài “Dưâm”, có lẽlà bài chịchọn đểhọc đánh đàn, nên tôi rất nhớbài đó vì nghe tới nghe lui. Cha tôi tất nhiên là rất tức giận vì bịđẩy vào một trường hợp khó xử: trước khi chấp thuận cho chị Ba lấy anh Tuấn, ông lại còn phải xin từ hôn với gia đình anh Nhân, là người đã làm đám hỏi với chị Ba, chỉ chờ ngày cưới. Việc chịBa từ hôn vậy mà cũng thành một tin trên một tờbáo địa phương, tôi còn nhớđãđọc được. Dù vậy, chị Ba cuối cùng cũng được toại nguyện: lấy chồng trong một đám cưới chạy tang rất đơn sơ, vì bên gia đình chồng đang có tang. Nghe nói chị bịmẹchồng đối xửkhông tốt. Nhiều năm tháng sau đó, tôi được đọc mấy cái bưu thiếp chị gửi vào xin một chiếc xe đạp. Tôi không nhớ lời yêu cầu của chịcóđược đáp ứng. Chịđã qua đời vì bệnh tiểu đường cách đây gần hai thập niên.
Khác với đa sốngười di cư 1954 đáp tầu Mỹ, chúng tôi được di tản bằng máy bay do Pháp cung cấp. Đó là vào một ngày tháng 3 năm 1955, vàđấy là lần đầu tiên tôi được đi máy bay, nên bụng dạlàm reo, ói lên ói xuống, ngồi trên xe GMC chở từphi trường Tân Sơn Nhất đến nhàông chúởđường Phan Đình Phùng để tá túc tạm, tôi vẫn còn ói. Chúng tôi vừa mới ổn định chỗởở một căn nhà gỗ, không có cầu tiêu riêng, thuêđược ởbên Khánh Hội chưa được bao lâu thì có thư của cha tôi nói ông đã quyết định ở lại, bảo mấy anh em ở trong Nam tựlo liệu lấy. Tôi khóc xưng cả mắt, nghĩ từđây sẽ không còn gặp lại cha mẹ và các em, nhất là Tám, cô em thua tôi hai tuổi song hai đứa rất gần nhau từ hồi nhỏ. Chị Năm mới 15 tuổi, phải khai gian lên hai tuổi đểxin đi làm sau khi học lấy được cái bằng đánh máy, rồi sau đó vừa đi làm vừa đi học thêm tiếng Anh. Anh Cả thì mướn xe taxi chở khách, trong khi chị Cảđi buôn quần áo từ trong Chợ Lớn rồi thuê sạp ở chợ bán lại. Anh Sáu và tôi còn nhỏ, 12 và 10 tuổi, nên được đi học.
Tôi làm quen với đời sống của vùng đất mới có tên là Sàigòn, thấy cái gì cũng lạ. Một vài chi tiết mà tôi thấy ngộnghĩnh, nói lên đặc tính dễdãi và sởi lởi của người Miền Nam: Đi mua đồgiá năm cắc, tức 50 xu, đưa tờgiấy một đồng, người bán hàng thản nhiên xé tờgiấy bạc làm đôi cái rẹt, đưa trả lại mình một nửa. Tôi thích lối làm bánh mì của miền Nam, đầy tính sáng tạo: ngoài thịt nguội hay ba tê còn cóđồchua, ngò và dưa leo, mà ở bên Mỹbây giờ chúng ta gọi là Vietnamese sandwich.
Nhưng cái tôi thích nhất của Miền Nam là vô số truyện bằng tranh, một loại sách không thấy ởmiền Bắc, và những nhà cho thuê truyện, thay thế cho những thư viện công cộng không hiện hữu ở Sàigòn nói riêng và Việt Nam nói chung. Miền Nam, từđấy, mởra không biết bao nhiêu là cơ hội, so với Miền Bắc sau ngày bức màn tre buông xuống. Kểtừngày bắt đầu cầm bút sáng tác, đặc biệt sau khi đọc cuốn sách “Trăm Hoa Đua NởTrên Đất Bắc” của Hoàng Văn Chí (***), tôi thường cốthửhình dung mình sẽra thể nào nếu lớn lên ởMiền Bắc. Có lẽ, giống như một nhà phê bình Miền Bắc nói vài năm trở lại đây, rằng nếu họđược sống ởMiền Nam thì họ cũng sáng tác nên những tác phẩm đâu thua của văn nghệ sĩ của Miền Nam, và ngược lại.
Thếrồi đùng một cái, lại có thư của cha tôi nói quyết định đi Nam. Lúc bấy giờđã gần tới ngày Việt Minh tiếp thu Hải Phòng. Nhà của cha mẹ tôi cũng là nơi các người thân trong họtừlàng quê, mượn lý do “đi Hải Phòng khuyên người thân ởlại vì nước nhàđãđộc lập tự do”đểxin giấy thông hành di chuyển, tới ởtạm trong khi chờ ngày lên tầu đi Nam. Cha mẹtôi chắc đã nghe không thiếu các thảm cảnh cải cách ruộng đất và địa chủ bịđấu tố và xửtửởcác vùng quê, bên cạnh các chuyện cấm đạo, giáo dân bịbuộc đi học tập chính trịvào đúng lúc có Thánh Lễ, các giáo sĩ bịtra tấn, hành hung. Một trong những chuyện kinh hoàng nhất là việc một ông linh mục bịViệt Minh đóng bẩy cây đinh xung quanh đầu giả làm mão gai, được vài giáo dân chở tới trại tạm chúởHải Phòng dưới sựđiều động của Bác sĩ Dooley đểnhờông cứu chữa.(****)
Thấy không thểở lại được nữa, cha mẹ tôi bán tống bán tháo tài sản đểđi Nam, bằng lòng nhận vàng thay vì tiền mặt, hồi ấy là tiền Đông Dương có in hình ông Bảo Đại. Những gì không bán được hay muốn giữ lại thì giao cho chịTý, đãởvới gia đình tôi được vài năm đểnuôi em gái út của tôi, đi theo tầu Mỹchởvào Nam, cùng với anh Tư vàÚt, cận ngày Hải Phòng đóng cửa. Tóm lại, gia đình tôi tổng cộng gần hai chục người thì chia nhau đi Nam thành bốn đợt, kểcảđợt chịHai theo chồng lúc ấy có quốc tịch Pháp di cưvào Đà Nẵng trước mọi người trong gia đình.
Khi cha mẹ tôi đem vàng đi bán, định đểmua một căn nhàđể gia đình an cưvà lo chuyện xây dựng lại cuộc đời thì khám phá ra là toàn vàng giả. Tôi có thể hình dung ra nỗi đau đớn của ông bà khi ở tuổi ngoài 40, chợt thấy hai bàn tay trắng, với một lũ con mà phần lớn còn nhỏ, tại một vùng đất lạhoắc.
Dù vậy, tôi không hề nghe ông bà than phiền hay nuối tiếc đã bỏ mọi thứđểđem anh chịem tôi đi Nam. Tôi sẽ mãi mãi ghi ơn ông bàđã chọn lựa Miền Nam làm nơi cho anh chị em tôi lớn lên, trong một không khí tựdo dù là tương đối. Chỉ tiếc là 20 năm sau, chúng tôi lại phải đối đầu với thêm một lần bỏ cửa bỏ nhà ra đi tới những nơi còn xa hơn từBắc vào Nam, tuốt tận bên kia đại dương nghìn trùng. Và không đứa nào trong vài anh chị em chúng tôi đi thoát được khỏi Việt Nam vào những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975 đã đem theo đuợc cha mẹgià. Cha tôi không muốn đi, nói đã lớn tuổi, rằng ông không dính dáng gì tới chính quyền Cộng Hoà hay Mỹ, nên chẳng lo, và có lẽcũng không muốn nhờvà con cái. Mẹtôi thì rất muốn đi khỏi Việt Nam, nhưng thấy cha tôi không muốn đi nên cũng lặng lẽgạt nước mắt nhìn chúng tôi lần lượt biến mất khỏi cuộc đời bà.
Mẹtôi mất khoảng một năm sau ngày Sàigòn thất thủ, có lẽvì bị tim. Cha tôi nể lời con cái bằng lòng đi Mỹđoàn tụ vào đầu năm 1983, nhưng cũng chỉ sống được tám tháng thì qua đời, vì bệnh một phần, song có lẽvì cảm thấy quá cô quạnh.
Trí nhớ của tôi bắt đầu ghi nhận được là lúc gia đình tôi đã dọn xuống Hải Phòng, có lẽvào cuối thập niên 1940. Nhỏ nên không biết gì về tình hình chiến sựsôi động hồi ấy, nhưng tôi nhớcó lần anh lơ xe hớt hải chạy về giữa ban ngay, nói không ra hơi, báo với cha tôi, vỏn vẹn, “Ông ơi, xe bị mìn lật rồi!” Cha tôi lặng người chết đứng, mẹtôi ngưng mọi việc đang làm thất thần nhìn cha tôi, trong khi lũ nhỏchúng tôi biết đã tới lúc đi chỗ khác chơi.
Cha tôi, như nhiều người Việt khác, là người có khảnăng sinh tồn mạnh mẽ, sẵn sàng vượt qua mọi trở ngại và bất hạnh của đời sống đểlo cho gia đình. Vào các năm trước cái gọi là Chiến thắng Điện Biên Phủ, rồi tiếp theo là việc ký kết Hiệp định Genève vào mùa hè năm 1954 giữa Pháp, chính phủ Bắc Việt của HồChí Minh, Lào, Trung Cộng, Liên Xô và Anh (Hoa Kỳ từ chối không ký, còn chính phủNam Việt Nam không nằm trong những phe ký nên không chấp nhận Hiệp định đình chiến này) được ký kết, cha tôi đã làm chủ một hãng xe chở hành khách gồm cảxe đò và xe nhỏ, hình như hiệu Citroen, không rõ tại sao gọi là xe lô-ca-xông, tôi đoán từ chữ“location”, ngược xuôi các tuyến đường Hà Nội – Hải Dương – Kiến An – Hải Phòng và Hải Phòng –Đồ Sơn, tôi nhớđại khái thế. Hãng xe của cha tôi tên là Đông Bình, nên nguời ta hay gọi cha mẹ tôi làÔng BàĐông Bình, chúng tôi là con Ông Bà Đông Bình. Tôi không bao giờ có dịp hỏi tại sao ông chọn tên đó, nhưng nghĩ có lẽđó là do khao khát được nhìn thấy hoà bình trên giải đất dọc theo bờ biển Thái Bình Dương lâu nay chiến tranh triền miên này. Hai người anh họ con mấy bà bác ruột của tôi cũng mỗi người được cha tôi nâng đỡtậu được một hay hai xe chở hành khách, tựđặt tên là Bắc Bình và Nam Bình. Tôi không rõ vì sao cha tôi không nghĩ tới việc mua bất động sản, mà suốt thời gian sống ở Hải Phòng ông thuê nhà chứkhông mua. Tôi còn nhớ ngôi nhà chúng tôi ở trước khi di cư vào Nam làởsố3 Ngõ Nghĩa Lợi, một đầu ngõ gặp đường Cát Dài, vàđầu bên kia đụng một đường rầy xe lửa nằm bên cạnh một hồsen mà hình ảnh vẫn còn in trong trí nhớtôi, mà loài sen là hoa tôi rất thích. Không mua nhà đất có lẽ vì cha tôi thấy không cần thiết vìông chắc chắn sẽ thừa hưởng nhiều ruộng đất để lại của bà Nội tôi khi bà qua đời.
Vào những ngày trước khi kết thúc cuộc chiến mà sách vở gọi là Cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứnhất (1946-1954) và nhiều người trong chúng ta cho là không cần thiết vì sau Đệ nhị Thế chiến đa sốcác nước thuộc địa đều lần lượt trước sau lấy lại được độc lập mà không cần đổ máu, tin dữ từnhà quê ra: Bà Nội tôi bịchết sau khi bị trúng một mảnh mợc chê vào đầu trong khi đang trốn dưới một cái phản gỗvào một đêm nọ. Bà tôi chết khi được 84 tuổi, tuy già nua nhưng cụcòn khá minh mẫn. Mỗi lần nhớđến Bà Nội thì tôi không thểkhông nhớ tới một lần về quêăn Tết, tôi ởmiết bên nhàông cậu ruột vìởđó có các người em họ cỡ tuổi tôi hay lớn hơn. Đến giờđi ngủ, bà tôi lụm cụm tay xách cây đèn dầu tay chống gậy sang đón về nhưng tôi không chịu về. Tôi sợnhững nét già nua nhăn nheo của bà một phần, nhưng sợ nhất là cái quan tài bằng gỗsơn đỏbà sắm sẵn để trong cái gian đầu nhà chuyên đểchứa thóc gạo và các đồ lỉnh kỉnh khác.
Hiệp định Genève được ký kết vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, chia cắt Việt Nam làm hai, miền Bắc do Việt Minh cai trị, miền Nam sau đó trở thành một quốc gia mới. Người dân hai miền có 300 ngày đểchọn nơi mình muốn sinh sống. Quê tôi là một trong những vùng được Việt Minh tiếp thu sớm nhất vào cuối năm 1954. Cha tôi quyết định gửi vợ chồng anh Cả vàđứa con gái đầu lòng mới được mấy tháng vềnhà quê sống. Cùng đi với anh chị Cả là anh Sáu, tôi và thằng em Chín. Nhưnhiều chủ gia đình Việt xưa, cha tôi ít khi giải thích lý do ông có một quyết định nào đó, hoặc có thì ông cũng chỉbàn với anh Cả, vì khi viết bài này tôi hỏi Chị Năm, người chịkếtôi, chị cũng nói không rõ tại sao cha tôi quyết định gửi một sốcon về quê ngay sau khi đình chiến. Tôi suy đoán là thứ nhất, anh Cả hồi ấy bịđộng viên, đã mặc đồlính (tôi còn nhớ, mặc dù hồi ấy chỉmới 9, 10 tuổi, đã trốmắt trước vẻđẹp trai khác thường của ông anh trong bộquân phục mầu rêu khít khao với thân hình và cái nón chào mào cùng mầu), có lẽ là bỏngũ về quê sống, có thểlà do ý muốn của cha mẹ tôi vì lo cho cậu con cả. Ngoài ra, có thểcha tôi, cũng nhưđa số người Việt ở thành thịhồi ấy chưa biết gì về hậu quả của các cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu đã vàđang diễn ra ở các làng quê nhưng chưa vềtới làng tôi, nên ông gửi một số con về quêđểtiện thểtrông nom ruộng đất chăng.
Chúng tôi về quê sống được vài tháng vào cuối hè vàđầu thu, thì một bữa chịNăm, hồi ấy mới 14 tuổi song tính nhanh nhẹn nên được cha tôi tin cậy giao phó việc đi đi về vềđem tiền bạc và thông tin, được cha tôi gửi về bảo thu xếp về Hải Phòng đểđi Nam. Để tránh nghi ngờlà cóýđịnh đi Nam và có thểbịbao vây giữ lại, khi ra tới Hànội, lúc ấy cũng đã được tiếp thu, chúng tôi phải giả bộ như sẽ sinh sống ởđó, bằng cách thuê một căn phòng nguyên là lớp học ởtrong một nữ tu viện và trường học mà hầu hết nhân sựđã di cư, nằm trên đường Hai Bà Trưng, đểởít tuần. Anh Sáu và thằng Chín thìđã theo chị Năm về Hải Phòng trước, còn tôi ở lại với gia đình anh chịCảđểgiúp trông con cho chị. Đểcho màn trình diễn có vẻ thực hơn, tôi còn được ghi danh đi học lớp ba hay tưở một trường công tại đây. Tất nhiên vì là con nít nên tôi không được cho biết các mưu tính đó của các người lớn.
Khi chúng tôi chuẩn bịđi Hải Phòng thì tôi được người lớn dặn dò là nếu có ai hỏi đi Hải Phòng làm gì thì nói làđi thăm người nhà sắp đi Nam để khuyên họởlại, đừng đi Nam nữa vì nước nhàđãđộc lập tựdo. Ngoài ra, riêng tôi còn được giao thêm một việc nữa, đó là khi các cán bộ Việt Minh sắp khám đến chị Cảđang bếcháu bé thì tôi phải tìm cách… cấu vào đùi con bé thật mạnh đểnó phải khóc ré lên và chị Cả sẽđưa nó cho tôi bảo bế ra ngoài. Thếnhưng chính việc đó lại làm cho người nữcán bộ khám chị Cảcàng sinh nghi, túm tôi lại và lột lấy hai chiếc giầy trên chân con cháu, lôi ra và tịch thu hai cọc giấy bạc tiền Đông Dương còn mới tinh. Tuy thế, chúng tôi sau đó cũng được phép lên xe đi Hải Phòng, chỉ có mớtiền ởlại. Của đi thay người, chịtôi ứa nước mắt suýt xoa tiếc của song tự an ủi. Lúc ấy chúng tôi hoàn toàn không biết tới những cảnh tìm đường vượt thoát vô cùng thương tâm của bao nhiêu ngàn con người muốn tìm đường tới Hải Phòng, một thành phốđang hấp hối song vẫn còn là nơi còn cho họ cái hy vọng tới được Đường tới TựDo – Passage to Freedom – như tên Chiến dịch Đường Tới Tự Do do Hải Quân Hoa Kỳđảm trách, bên cạnh Pháp và Anh lo phần chuyên chở người vào Nam bằng máy bay.(**)
Nếu trong cuộc Di cư 1975 và sau đó, câu hỏi của hầu hết người Việt ởMiền Nam, trong một cái xã hội vô vọng mà“đến cả cái cột đèn nếu biết đi thì cũng tìm cách đi”, là làm sao đểđi; thìởthời điểm 1954 tình thếphức tạp hơn, và câu hỏi lớn nhất của họlà nên đi hay ở. Trước hết, một trong những điều khoản của Hiệp định Genève là hai năm nữa, vào năm 1956, sẽcó một cuộc tổng tuyển cửđể thống nhất đất nước và người dân hai miền Nam Bắc tựđịnh đọat lấy thểchếchính trị thích hợp. Đây chính là điều đã, theo tôi, khiến nhiều người dân miền Bắc quyết định ở lại để chờ cái ngày không bao giờđến đó, một phần cũng vì quá mệt mỏi với chiến tranh và muốn thấy hoà bình bằng mọi giá, và cũng vì tiếc của, bên cạnh ảnh hưởng bởi một chiến dịch tuyên truyền ráo riết của Việt Minh. Tuyên truyền và cả dọa nạt, nhất làđối với dân quê, rằng tầu “há mồm” của Mỹ sẽđưa họ ra biển rồi mở cái cổng mồm đó và trút họ xuống biển, hoặc thủy thủ Mỹ sẽ nướng con nít ăn thịt nếu đến với họ, vv. Và thứhai là dạo ấy chỉ có một sốít nghe biết, chứng nhân thì lại càng ít hơn, được những cuộc tàn sát giết hại vàđầy đọa những người không cùng chính kiến của người cộng sản.
Cha tôi, tôi nghĩ, thuộc loại người đã quá mệt mỏi với chiến tranh, muốn tin vào cái viễn ảnh tổng tuyển cử năm 1956, và nhất là tiếc của, của do ông đã tốn bao mồ hôi nước mắt tạo dựng nên vàđất đai màông tưởng là sẽđược thừa hưởng của bà tôi. Tuy vậy, ông cũng còn bán tín bán nghi, chưa quyết sẽ có di cưhay không. Và có lẽđể cho dễ dàng quyết định vào phút chót, cha tôi bảo anh Cảđem gia đình anh và một sốcác em vào Nam, trong đó có chị Ba, chịNăm, anh Sáu và tôi.
Nghe biết sẽ phải đi Nam với chúng tôi, chịBa khóc lóc thú nhận đang yêu anh Tuấn và muốn được cha tôi chấp thuận cho lấy anh, mà gia đình anh Tuấn thìđã nhất định ởlại. ChịBa là người đẹp nhất trong đám sáu chị em gái chúng tôi, và khá tân tiến: chị là người đầu tiên trong gia đình tôi đi uốn tóc, và chịcòn học chơi đàn guitar nữa. Tôi hay ngồi xem chịgẩy đàn và hát bài “Dưâm”, có lẽlà bài chịchọn đểhọc đánh đàn, nên tôi rất nhớbài đó vì nghe tới nghe lui. Cha tôi tất nhiên là rất tức giận vì bịđẩy vào một trường hợp khó xử: trước khi chấp thuận cho chị Ba lấy anh Tuấn, ông lại còn phải xin từ hôn với gia đình anh Nhân, là người đã làm đám hỏi với chị Ba, chỉ chờ ngày cưới. Việc chịBa từ hôn vậy mà cũng thành một tin trên một tờbáo địa phương, tôi còn nhớđãđọc được. Dù vậy, chị Ba cuối cùng cũng được toại nguyện: lấy chồng trong một đám cưới chạy tang rất đơn sơ, vì bên gia đình chồng đang có tang. Nghe nói chị bịmẹchồng đối xửkhông tốt. Nhiều năm tháng sau đó, tôi được đọc mấy cái bưu thiếp chị gửi vào xin một chiếc xe đạp. Tôi không nhớ lời yêu cầu của chịcóđược đáp ứng. Chịđã qua đời vì bệnh tiểu đường cách đây gần hai thập niên.
Khác với đa sốngười di cư 1954 đáp tầu Mỹ, chúng tôi được di tản bằng máy bay do Pháp cung cấp. Đó là vào một ngày tháng 3 năm 1955, vàđấy là lần đầu tiên tôi được đi máy bay, nên bụng dạlàm reo, ói lên ói xuống, ngồi trên xe GMC chở từphi trường Tân Sơn Nhất đến nhàông chúởđường Phan Đình Phùng để tá túc tạm, tôi vẫn còn ói. Chúng tôi vừa mới ổn định chỗởở một căn nhà gỗ, không có cầu tiêu riêng, thuêđược ởbên Khánh Hội chưa được bao lâu thì có thư của cha tôi nói ông đã quyết định ở lại, bảo mấy anh em ở trong Nam tựlo liệu lấy. Tôi khóc xưng cả mắt, nghĩ từđây sẽ không còn gặp lại cha mẹ và các em, nhất là Tám, cô em thua tôi hai tuổi song hai đứa rất gần nhau từ hồi nhỏ. Chị Năm mới 15 tuổi, phải khai gian lên hai tuổi đểxin đi làm sau khi học lấy được cái bằng đánh máy, rồi sau đó vừa đi làm vừa đi học thêm tiếng Anh. Anh Cả thì mướn xe taxi chở khách, trong khi chị Cảđi buôn quần áo từ trong Chợ Lớn rồi thuê sạp ở chợ bán lại. Anh Sáu và tôi còn nhỏ, 12 và 10 tuổi, nên được đi học.
Tôi làm quen với đời sống của vùng đất mới có tên là Sàigòn, thấy cái gì cũng lạ. Một vài chi tiết mà tôi thấy ngộnghĩnh, nói lên đặc tính dễdãi và sởi lởi của người Miền Nam: Đi mua đồgiá năm cắc, tức 50 xu, đưa tờgiấy một đồng, người bán hàng thản nhiên xé tờgiấy bạc làm đôi cái rẹt, đưa trả lại mình một nửa. Tôi thích lối làm bánh mì của miền Nam, đầy tính sáng tạo: ngoài thịt nguội hay ba tê còn cóđồchua, ngò và dưa leo, mà ở bên Mỹbây giờ chúng ta gọi là Vietnamese sandwich.
Nhưng cái tôi thích nhất của Miền Nam là vô số truyện bằng tranh, một loại sách không thấy ởmiền Bắc, và những nhà cho thuê truyện, thay thế cho những thư viện công cộng không hiện hữu ở Sàigòn nói riêng và Việt Nam nói chung. Miền Nam, từđấy, mởra không biết bao nhiêu là cơ hội, so với Miền Bắc sau ngày bức màn tre buông xuống. Kểtừngày bắt đầu cầm bút sáng tác, đặc biệt sau khi đọc cuốn sách “Trăm Hoa Đua NởTrên Đất Bắc” của Hoàng Văn Chí (***), tôi thường cốthửhình dung mình sẽra thể nào nếu lớn lên ởMiền Bắc. Có lẽ, giống như một nhà phê bình Miền Bắc nói vài năm trở lại đây, rằng nếu họđược sống ởMiền Nam thì họ cũng sáng tác nên những tác phẩm đâu thua của văn nghệ sĩ của Miền Nam, và ngược lại.
Thếrồi đùng một cái, lại có thư của cha tôi nói quyết định đi Nam. Lúc bấy giờđã gần tới ngày Việt Minh tiếp thu Hải Phòng. Nhà của cha mẹ tôi cũng là nơi các người thân trong họtừlàng quê, mượn lý do “đi Hải Phòng khuyên người thân ởlại vì nước nhàđãđộc lập tự do”đểxin giấy thông hành di chuyển, tới ởtạm trong khi chờ ngày lên tầu đi Nam. Cha mẹtôi chắc đã nghe không thiếu các thảm cảnh cải cách ruộng đất và địa chủ bịđấu tố và xửtửởcác vùng quê, bên cạnh các chuyện cấm đạo, giáo dân bịbuộc đi học tập chính trịvào đúng lúc có Thánh Lễ, các giáo sĩ bịtra tấn, hành hung. Một trong những chuyện kinh hoàng nhất là việc một ông linh mục bịViệt Minh đóng bẩy cây đinh xung quanh đầu giả làm mão gai, được vài giáo dân chở tới trại tạm chúởHải Phòng dưới sựđiều động của Bác sĩ Dooley đểnhờông cứu chữa.(****)
Thấy không thểở lại được nữa, cha mẹ tôi bán tống bán tháo tài sản đểđi Nam, bằng lòng nhận vàng thay vì tiền mặt, hồi ấy là tiền Đông Dương có in hình ông Bảo Đại. Những gì không bán được hay muốn giữ lại thì giao cho chịTý, đãởvới gia đình tôi được vài năm đểnuôi em gái út của tôi, đi theo tầu Mỹchởvào Nam, cùng với anh Tư vàÚt, cận ngày Hải Phòng đóng cửa. Tóm lại, gia đình tôi tổng cộng gần hai chục người thì chia nhau đi Nam thành bốn đợt, kểcảđợt chịHai theo chồng lúc ấy có quốc tịch Pháp di cưvào Đà Nẵng trước mọi người trong gia đình.
Khi cha mẹ tôi đem vàng đi bán, định đểmua một căn nhàđể gia đình an cưvà lo chuyện xây dựng lại cuộc đời thì khám phá ra là toàn vàng giả. Tôi có thể hình dung ra nỗi đau đớn của ông bà khi ở tuổi ngoài 40, chợt thấy hai bàn tay trắng, với một lũ con mà phần lớn còn nhỏ, tại một vùng đất lạhoắc.
Dù vậy, tôi không hề nghe ông bà than phiền hay nuối tiếc đã bỏ mọi thứđểđem anh chịem tôi đi Nam. Tôi sẽ mãi mãi ghi ơn ông bàđã chọn lựa Miền Nam làm nơi cho anh chị em tôi lớn lên, trong một không khí tựdo dù là tương đối. Chỉ tiếc là 20 năm sau, chúng tôi lại phải đối đầu với thêm một lần bỏ cửa bỏ nhà ra đi tới những nơi còn xa hơn từBắc vào Nam, tuốt tận bên kia đại dương nghìn trùng. Và không đứa nào trong vài anh chị em chúng tôi đi thoát được khỏi Việt Nam vào những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975 đã đem theo đuợc cha mẹgià. Cha tôi không muốn đi, nói đã lớn tuổi, rằng ông không dính dáng gì tới chính quyền Cộng Hoà hay Mỹ, nên chẳng lo, và có lẽcũng không muốn nhờvà con cái. Mẹtôi thì rất muốn đi khỏi Việt Nam, nhưng thấy cha tôi không muốn đi nên cũng lặng lẽgạt nước mắt nhìn chúng tôi lần lượt biến mất khỏi cuộc đời bà.
Mẹtôi mất khoảng một năm sau ngày Sàigòn thất thủ, có lẽvì bị tim. Cha tôi nể lời con cái bằng lòng đi Mỹđoàn tụ vào đầu năm 1983, nhưng cũng chỉ sống được tám tháng thì qua đời, vì bệnh một phần, song có lẽvì cảm thấy quá cô quạnh.
Trùng Dương
__._,_.___