Tìm về những ngôi mộ thuyền nhân
THIÊN Y
Trong suốt tuần qua, đài phát thanh Saigon ở Houston, tiểu bang Texas, đã truyền đi các bản tường trình trực tiếp về chuyến đi thăm mộ phần những thuyền nhân Việt Nam đã bỏ mình ở Biển Ðông trên đường tìm tự do. Theo đó, một phái đoàn khoảng 60 người đến từ Hoa Kỳ, Canada và Úc Châu, phần nhiều là những thuyền nhân đã sống sót sau các cuộc vượt biển đầy hiểm nguy với sóng gió và hải tặc. Chuyến đi thăm này dự định kéo dài trong ba tuần đi đến một số hải đảo trong vịnh Thái Lan, Mã Lai và Nam Dương, nơi có nhiều xác thuyền nhân bị chôn vùi dưới ba tấc đất, không quan tài, không kim tĩnh!
Theo những thuyền nhân vượt thoát trong những khoảng thời gian khác nhau các năm trước đây, nay tham gia phái đoàn cho biết, mục đích và ý nghĩa chuyến đi này là để thăm viếng, tưởng niệm và cầu nguyện theo niềm tin tôn giáo cho các thuyền nhân có số phận không may đã bỏ mình trên biển cả do sóng dữ hay bị hải tặc sát hại trên đường vượt biển.Vì vậy trong phái đoàn này có sự tham gia của một số tu sĩ như một linh mục Công Giáo và một hòa thượng ở thành phố Houston, Hoa Kỳ và một linh mục Công Giáo đến từ Ðài Loan.
Ngoài ra còn có năm nhà sư và một số tu sĩ Phật Giáo Thái Lan tình nguyện tham gia phái đoàn đến các hải đảo để cầu nguyện cho linh hồn các thuyền nhân tử nạn còn vất vưởng nơi đây được sớm siêu thoát. Ðồng thời, phái đoàn cũng mang theo khoảng 70 bảng mộ bia đề tên những người mà thân nhân họ biết đã bị vùi chôn trên các hoang đảo mà họ từng trôi dạt vào bờ, đã chết đói chết khát hay bị hải tặc hãm hiếp, sát hại…
Chuyến đi này gợi nhớ thảm cảnh của những người Việt Nam tìm đường vượt biên, khởi sự chỉ vài năm sau ngày 30 Tháng Tư 1975, ngày Cộng Sản Bắc Việt cướp được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam, thiết lập chế độ độc tài toàn trị trên cả nước, khiến nhiều người phải liều thân bỏ nước ra đi tìm tự do. Hành động cướp chính quyền này của nhà cầm quyền CSBV 42 năm trước đây (1975-2017) từng bị coi là vi phạm trắng trợn Hiệp Ðịnh Paris ngày 27 Tháng Giêng 1973 do chính họ là một trong bốn bên đã hợp soạn và ký kết. Vì theo khoản (b) điều 9 Chương IV quy định “Việc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam” đã ghi như sau:
“b) Nhân dân Miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của Miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử thực sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.”
Khoản (a) điều 11 thì ghi, “Ngay sau khi ngưng bắn, hai bên Miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính lẫn nhau để thành lập Hội Ðồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc gồm ba thành phần ngang nhau…”
Ðây là điều 15 của chương V Hiệp Ðịnh Paris quy định rất rõ ràng: “Việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào… Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam thỏa thuận…”
Thế mà thực tế đã xảy ra hoàn toàn trái ngược trước sự làm ngơ của những cam kết quốc tế bảo đảm cho việc thực thi ghi trong bản “Hiệp Ðịnh Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam.” Hệ quả là, tuy chấm dứt được thảm trạng của cuộc chiến tranh “cốt nhục tương tàn,” nhưng đã xô đẩy cả một dân tộc vào nhiều thảm trạng khác trong hòa bình (theo nghĩa không còn tiếng súng) sau cuộc chiến. Vì sau khi nắm quyền thống trị độc tôn trên cả nước, đảng và cầm quyền CSVN đã thi hành các chủ trương, chính sách cực kỳ gian ác gây nhiều khổ lụy cho nhân cả nước, nhất là với dân Miền Nam mới “giải phóng” mà họ miệt thị gọi là “dân ngụy, ngụy quân, ngụy quyền.”
Ngay những ngày tháng năm đầu sau 30 Tháng Tư 1975, Việt Cộng đã thực hiện chủ trương chính sách tập trung lao động cải tạo hàng trăm ngàn sĩ quan quân đội và các viên chức chỉ huy hành chánh các cấp chính quyền Việt Nam Cộng Hòa; đưa đến thảm cảnh ly tán gia đình, đẩy những người vợ trẻ con thơ vào cuộc sống bơ vơ, quẫn bách đến cùng cực, phải bươm trả kiếm sống bằng đủ mọi nghề. Một số đông vợ con những người tù cải tạo không biết làm gì để sống ở các thành thị, đã phải tự nguyện hay bị dụ dỗ, cưỡng ép đi lập nghiệp các vùng kinh tế xa thành thị, ở những nơi rừng thiêng, nước độc, cực khổ, thiếu thốn trăm bề.
Nhiều người trong số họ đã chết vì thiếu ăn, thiếu thuốc điều trị khi bệnh hoạn. Tiếp theo sau là các cuộc đổi tiền, đánh tư sản đợt I, đợi II, hầu hết dân miền Nam dân thường cũng như những người bị ghép vào diện bị đánh tư sản đều trắng tay,… Nhưng đây mới chỉ là những thảm cảnh mà nhà cầm quyền Việt Cộng đã gây trước mắt cho những quân, dân, cán chính chế độ VNCH ở miền Nam, còn có một thảm trạng lâu dài khác sau hòa bình cho các thế hệ con cháu họ, được tóm gọn trong ba câu thơ (1)
“Hòa bình, thống nhất, tự do đâu?
Lý lịch bao đời đeo thân phận?
Con thơ cam chịu đến bạc đầu…”
Ðứng trước những thảm trạng sau chiến tranh, trong hòa bình trên, tất cả dân miền Nam như bị nhà cầm quyền chế độ mới dồn vào con đường cùng. Nhiều người đã tìm cách vượt thoát ra cảnh khốn cùng bằng cái chết hay tìm đường vượt biên bằng mọi cách và mọi giá, kể cả đánh đổi mạng sống để “tìm sự sống trong cái chết.” Chính hiền thê của tôi dã có lúc quẫn bách vì quá khổ cực kiếm sống nuôi ba con thơ dại với một mẹ chồng, đã có ý định bỏ lại tôi trong tù tìm đường vượt biên. Nếu ngày đó (1979), vợ con tôi đi vượt biển, liệu có đến được bến bờ tự do hay cùng chung số phân với hàng triệu thuyền nhân phải vùi thân trong bụng cá hay trong lòng biển cả? (2). Theo ước đoán của cơ quan tỵ nạn Liên Hiệp Quốc, thì có khoảng 5 triệu người việt Nam đã vượt biên sau ngày 30 Tháng Tư 1975, nhưng chỉ sống sót đến được các trại tỵ nạn trong vùng khoảng ba, bốn triệu; số còn lại mất mạng trong rừng sâu (một số ít vượt biên bằng đường bộ) hay bỏ xác trên biền cả hay bị nạn hải tặc sát hại (với đa số vượt biên bằng đường biển).
Thành ra, chuyến đi thăm mộ phần và cầu nguyện cho linh hồn các thuyền nhân Việt Nam bỏ mình trên Biển Ðông trên đường tìm tự do của phái đoàn 60 người lúc này, ngoài mục đích và ý nghĩa linh thiêng cao đẹp mà những người tham gia phái đoàn bày tỏ, thiết tưởng còn có ý nghĩa đặc biệt hơn. Vì nó diễn ra trong thời khoảng gần ngày 30 Tháng Tư 1975, ngày đánh dấu kết thúc cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” để lại nhiều di hại cho dân tộc. Vì sự kết thúc này, nếu đã chấm dứt được những thảm cảnh trong chiến tranh, thì lại xô đẩy nhân dân cả nước Việt Nam vào một thảm trạng trong hòa bình mà thực tế còn tệ hại hơn nhiều, do chế độ độc tài toàn trị CSVN gây ra.
Giờ đây sau 42 năm kết thúc cuộc chiến tranh Quốc-Cộng (1975-2017), thiết tưởng phe Việt Cộng (đảng và nhà cầm quyền CSVN hiện nay) đã gây ra các thảm trạng trước và sau chiến tranh, trong hòa bình, cho nhân dân và đất nước, cần cúi mặt ăn năn thống hối, thay vì tiếp tục ăn mừng như một “chiến thắng” (mà thực chất chỉ là chiến thắng giả tạo); tuy có trễ nhưng chưa muộn. Ðồng thời, phe Việt Quốc (các chính đảng quốc gia, các tổ chức, cá nhân chống cộng vì dân chủ cho đất nước) cũng cần cúi mặt ân hận thay vì nuôi dưỡng hận thù. Vì trong quá khứ đã không làm được những điều cần làm để bảo vệ chế độ dân chủ pháp trị ở miền Nam, tạo cơ hội cho phe Việt Cộng có tư thế và điều kiện thủ ác, không chỉ gây ra những thảm trạng trước mắt mà còn di hại nhiều mặt lâu dài cho nhân dân và đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.
———–
Chú thích:
(1) và (2): Là hai câu thơ trích trong một bài thơ vợ tôi là Liên Hương viết trong nhật ký khi tôi bị bắt cầm tù vì tội “phản động” (tham gia Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam 1978-1981).
__._,_.___