Quantcast
Channel: Books-Hoi Ky.
Viewing all articles
Browse latest Browse all 674

DỰ LUẬT H.O của Ông NGUYỄN NGỌC BÍCH và Bà KHÚC MINH THƠ

$
0
0

DỰ LUẬT H.O
của Ông NGUYỄN NGỌC BÍCH và Bà KHÚC MINH THƠ     




 Đây là một số dữ kiện liên quan đến việc ra đời của chương trình HO mà một số anh em trong GĐ569KQ đã được đưa sang MỸ nhờ có chương trình này,xin mời các bạn đọc để cho ân oán phân minh về việc một số người đã kể công nhờ họ mà các cựu tù cải tạo CS mới sang Mỹ được.NHC
Lịch sử sẽ ghi nhận những hy sinh xương máu của họ và không ai đươc phép lợi dụng danh nghĩa anh hùng của họ cho những ý đồ bất chính.- Đỗ Ngọc Uyển

Lời nói đầu: Ngày 23/9/2008, trên trang báo điện tử Ánh Dương có đăng bàì của ông Huy Phương phỏng vấn ông giáo sư Nguyễn Ngọc Bích: “về hoạt động của Bà Khúc Minh Thơ và Hội Gia đình Tù Nhân Chính trị cho chương trình H.O.” Trên Người Việt Online, ngày 1/11/2008, ông Huy Phương đã viết bài “Tạp ghi Huy Phương: Chút ơn nghĩa cuối đời.”để trách cứ những người tù chính trị Việt Nam đã vô ơn đối với bà Khúc Minh Thơ. Vì nhận thấy có những điều trả lời của ông Nguyễn Ngọc Bích không đúng sự thật và lời trách cứ của ông Huy Phương là hồ đồ. Với tư cách một người lính và cựu tù chính trị, tôi viết bài này để trình bày những sự thật về sự kiện người tù chính trị Việt Nam, một sự kiện mang dấu ấn lịch sử.

1- Trong bài phỏng vấn ông Nguyễn Ngọc Bích “về hoạt động của Bà Khúc Minh Thơ và Hội Gia đình Tù Nhân Chính trị Việt Nam cho chương trình H.O.” do ông Huy Phương thực hiện và được đăng lại trên trang báo điện tử Ánh Dương ngày 23/9/2008, có một đoạn ông Nguyễn Ngọc Bích đã nói nguyên văn như sau:

“…Vào ngày 30-4-1987 chúng tôi cùng bà Khúc Minh Thơ, tức là Nghị Hội với Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam tổ chức một buổi tiếp tân ở trên Quốc Hội. Buổi tiếp tân này vừa đánh dấu ngày 30/4 đau buồn của đất nước, vừa đưa vấn đề Việt Nam cho Quốc Hội họ nghe. Dịp may trong buổi tiếp tân đó là có sự hiện diện của hai vị Thượng Nghị Sĩ quan trọng là ông Bob Dole và Edward Kennedy… Buổi tiếp tân tại Quốc Hội hôm đó, chúng tôi (NNB) làm MC, khi chúng tôi giới thiệu hai vị TNS này thì chúng tôi cũng dùng một câu rất được lòng hai ông ấy… Khi giới thiệu, chúng tôi đã giới thiệu rằng hai vị đây là hai ứng cử viên tương lai có thể làm tổng thống…. cả hai vị đều hài lòng nên có hứa rằng là họ sẽ tiếp tay với chúng tôi làm chuyện can thiệp cho các tù nhân chính trị đang bị giam giữ.
Họ giữ lời hứa, ngay ngày hôm sau 1/5/1987, họ bảo các phụ tá của họ ngồi lại với nhau viết ra cái dự luật sau này gọi là dự luật H.O. Chúng tôi đã đi theo từ giai đoạn đầu tiên, từ lúc thành dự luật, rồi nó đi qua nhiều chặng trong Quốc Hội. Chúng tôi thường xuyên lên Quốc Hội gõ cửa, không chỉ riêng hai ông Bob Dole hay Kennedy, mà còn nhiều vị Thượng Nghị Sĩ, Dân Biểu khác… ”

Ông giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đã nói không đúng sự thật. Cái mà ông Bích gọi là dự luật H.O ngày 1/5/1987 chỉ là cái Nghị Quyết số S.RES.205 TitleA resolution calling for the release of political prisoners by the government of Vietnam. (Một nghị quyết kêu gọi chính phủ cộng sản Việt Nam thả những người tù chính trị.) Nghị quyết này do 6 Thượng Nghị Sĩ đồng bảo trợ trong đó có hai Thượng Nghị Sĩ Bob Dole và Edward Kennedy.
Không chỉ riêng có Thượng Viện Hoa Kỳ ra nghị quyết kêu gọi cộng sản thả tù chính trị, vào ngày 26/5/1987, tại Hạ Viện Hoa Kỳ, Dân Biểu Bob Dornan cùng 58 Dân Biểu khác cũng đã đồng bảo trợ một Nghị Quyết yêu cầu cộng sản VN thả những tù nhân chính trị ra. Nghị Quyết này mang số H.RES.212 Title: A resolution concerning the release of political prisoners by the government of Vietnam. (Một nghị quyết liên quan đến chính quyền cộng sản thả những người tù chính trị.)

Thực ra, không phải đợi cho đến ngày 1/5/1987 nhờ có ông Bích và bà Thơ vận động với hai ông Thượng Nghị Sĩ Bob Dole và Edward Kennedy nên mới có được cái gọi là Dự Luật H.O. tưởng tượng ra đời để can thiệp cho những người tù chính trị ra khỏi nhà tù cộng sản và đi tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa kỳ đã làm công việc này từ lâu, chậm nhất là từ năm 1982. Cao Uỷ Phủ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc và chính phủ Mỹ đã có những chuẩn bị để tiếp nhận tù chính trị Việt Nam từ tháng 7/1982. Sau đây là bản tin được đăng trên tờ New York Times số ra ngày July 1, 1982.

U.S. and U.N Said to Study Vietnam Resettlement Offer
Special to the New York Times
Published July 1, 1982

A State Department official said today that the Reagan administration was working with the United Nation High Commission for Refugees “to determine whether the Vietnamese are in fact prepared to release persons from re-education camps for resettlement abroad.”(Hôm nay, một viên chức Bộ Ngoại Giao nói rằng chính quyền Reagan đang làm việc với Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc “để xác định xem Viêt Nam có thực sự chuẩn bị thả những người bị giam cầm trong các trại cải tạo để họ đi định cư tại ngoại quốc hay không.”)
The official estimated that there were about 100,000 people in so-called re-education camps, many of them confined because of their past ties to the United States. (Viên chức này ước tính rằng có khoảng 100,000 người bị giam giữ trong những cái gọi là trại cải tạo, nhiều người trong số họ đã bị giam cầm vì có những liên hệ chặt chẽ với Hoa Kỷ.)

Nhìn lại thật kỹ những chuyển động chuẩn bị cho việc thả những người tù chính trị để họ đi định cư tỵ nạn tại Mỹ thì thấy những diễn tiến như sau: Từ đầu thập niên 1980, cộng sản đã bắt đầu di chuyển những người tù từ Bắc vào Nam, những người mà cộng sản đã quyết tâm đưa đi đầy ải để giết chết trong các “trại cải tạo” dã man tại Miền Bắc. Tiếp theo đó, cộng sản cũng bắt đầu lần lượt thả tù ra. Cũng vào khoảng thời gian này, Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan đã bắt đầu nhận đơn xin tỵ nan và cấp LOI (Letter of Introduction) cho những người tù đã được thả ra để chuẩn bị lập hồ sơ xuất cảnh. Kể từ năm 1984 trở đi – nghĩa là 3 năm trước khi có cái Dự Luật H.O. ngày 1/5/1987 tưởng tượng của ông Nguyễn Ngọc Bích và bà Khúc Minh Thơ ra đời - việc gửi đơn sang toà Đại Sứ Mỹ tại Thái Lan để xin đi tỵ nạn là công khai và chính thức; chẳng phải gửi “chui” hay giấu giếm gì cả, cứ việc gửi thẳng tại bưu điện Saigon. Vào tháng 10/1989, cộng sản ra thông báo và bắt đầu nhận đơn xin xuất cảnh và cấp phát sổ thông hành (passport) cho người cựu tù đi Hoa Kỳ theo đơn xin. Khi đó, người cựu tù đã có sẵn trong tay cái Giấy Giới Thiệu (LOI/Letter of Introduction) của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan cấp để góp vào hồ sơ xuất cảnh. Cũng vào thời gian đó, Mỹ lập văn phòng phỏng vấn tại Sàigòn. Mỗi tháng Hoa Kỳ phỏng vấn và nhận hơn một ngàn gia đình cựu tù chính trị Việt Nam vào Mỹ liên tục trong hơn 4 năm cho tới ngày 3/2/1994, khi những người cựu tù cuối cùng và gia đình bước chân lên máy bay thì tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố huỷ bỏ cấm vận cộng sản VN và chuẩn bị thiết lập bang giao. Tất cả mọi việc diễn tiến rất có lớp lang, gần như theo một lộ trình đã được thoả hiệp ngầm trước đó.

Như đã nói ở trên, kể từ năm 1984 trở đi, việc gửi đơn sang Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan để xin đi tỵ nạn là công khai và chính thức; nhưng cũng có một số người tù chính trị khi được thả ra đã e ngại, hoặc vì lý do nào đó đã không gửi đơn qua bưu điện mà tìm cách gửi qua Hoa Kỳ nhờ bạn bè, người thân hay bà Khúc Minh Thơ chuyển tiếp đến toà Đại Sứ Mỹ tại Thái Lan. Đó là “công ơn” của bà Khúc Minh Thơ đối với một số anh em cựu tù nhân chính trị mà ông Nguyễn Thanh Ty đã coi đó là “bát cơm phiếu mẫu.”

Đúng là bà Khúc Minh Thơ và ông Nguyễn Ngọc Bích đã có công đi vận đông vất vả từ Quốc Hội sang Bộ Ngoại Giao đến chính giới nên mới có cái dự luật “H O.” tưởng tượng ngày 1/5/1987. Không ai phủ nhận công lao to lớn đó của hai vị này; nhưng khi tra cứu và tìm hiểu kỹ thì thấy rằng ông Bích và bà Thơ đã vất vả đi gõ những cánh cửa đã mở toang ra sẵn từ trước để mời quý vị vào dùng coca cola ướp lạnh, nghỉ mệt, chụp hình kỷ niệm để sau này trưng bày và nhận những lời cảm ơn rất lịch sự kiểu Mỹ…; có nghĩa là chính phủ Hoa Kỳ đã đi tìm cách trả món nợ quốc gia đối với đồng minh trong cuôc chiến “closing out this nation’s debt to its Indochinese wartime allies” từ rất lâu, trước khi ông Nguyễn Ngọc Bích và bà Khúc Minh Thơ đến gõ cửa văn phòng họ.
Như đã trình bày ở trên, không có cái gọi là dự luật H.O. ngày 1-5-1987 nào cả, mà chỉ là cái Nghị Quyết số S.RES.205 yêu cầu cộng sản thả tù chính tri. Cái gọi là dự luật H.O. chỉ là một món hàng giả do ông Bích và bà Thơ vẽ ra để đánh tráo một sự kiện lịch sử.

Viêc người tù chính trị ra đi muộn là do cộng sản gây khó khăn kể từ năm 1982 như ông Funseth đã nói trong cuộc phỏng vấn của phóng viên Nguyễn Khanh của RFA nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày 30/4/75. Ông Robert Funseth đã nói nguyên văn như sau: “…và ngay trong buổi đầu gặp gỡ với họ, (vào năm 1982) tôi được thông báo là trong số những người Hoa Kỳ muốn đón sang Mỹ định cư, thành phần tù nhân chính trị là diện khó nhất.”
Hoa kỳ là một quốc gia gồm những di dân và người tỵ nạn. Từ rất lâu, Hoa Kỳ đã có những đạo luật về di dân và tỵ nạn; nhưng sau ngày 30/4/1975, để đáp ứng với làn sóng hàng triệu người tỵ nạn Đông Dương, đặc biệt là người Việt Nam, Quốc Hội và Chính Phủ Hoa Kỳ đã ban hành 3 đạo luật về Đinh Cư và Tỵ Nan (Three Acts have facilitated the immigration and resettlement of Southeast Asian refugees) sau đây:
Đạo luật thứ nhất – Indochina Migration and Refugee Act of 1975 – University of California Irvine Southeast Asian Archive đã ghi lại trường hợp ban hành đạo luật này như sau:
“…In fact, one public opinion poll taken when Saigon fell in 1975 showed only 36% of the respondents in favor of Vietnamese immigration, fearing loss of job and increase public spending. However, President Gerald Ford and other public figures, including people who had been opposed to the war in Vietnam, strongly supported the refugees. Congress allocated resettlement aid and passed the 1975 Indochina Migration and Refugee Act, which allowed the refugees to enter the United States under a special migration and “parole” status...” (Thực vây, một cuộc thăm dò dân ý khi Saigon sụp đổ vào năm 1975 đã chỉ có 36% người được hỏi đã đồng ý nhận người di dân Việt Nam, vì họ sợ mất việc làm và tăng chi tiêu của công. Tuy nhiên, tổng thống Gerald Ford và những nhân vật quan trong của Hoa Kỳ kể cả những người đã chống đối cuộc chiến Việt Nam cũng mạnh mẽ ủng hộ những người tỵ nạn. Quốc Hội đã phân phối ngân khoản tái định cư và thông qua Đạo Luật Đinh Cư và Tỵ Nạn Động Dương năm 1975, nó cho phép người ty nạn nhập vào Hoa Kỳ theo một quy chế nhập cư đặc biệt.)
Đạo luật thứ hai – Indochina Migration and Refugee Assistance Act of May 23, 1975. This Act established a program of domestic resettlement assistance for refugees who fled from Cambodia and Vietnam. (Đạo Luât Trợ Giúp Di Dân và Tỵ Nạn ngày 23 tháng 5 năm 1975. Đạo luật này thành lập một chương trình trong nội địa để trợ giúp cho người tỵ Nạn đến từ Cambodia và Việt Nam.)
Đạo luật thứ ba – The Refugee Act of 1980 – This Act created The office of Refugee Resettlement, which administers programs and services for refugees within the U.S. Individual states play a central role in the resettlement process and are required to have plan for refugee assistance in order to receive federal funding… The Refugee Act of 1980 was passed to set up systems to deal with increasing number of refugees from Vietnam and other countries of the world. (Đạo Luật Tỵ Nạn năm 1980 - Đạo luật này thành lập Văn Phòng Tái Định Cư Tỵ nạn để quản trị các chương trình và dịch vụ cho người tỵ nạn trong nội địa nước Mỹ. Các Tiểu Bang của Hoa Kỳ giữ vai trò trung tâm trong phương cách tái nhập cư và đòi hỏi phải có kế hoạch trợ giúp tỵ nan để được nhận ngân khoản trợ cấp từ Liên Bang…Đạo Luật Tỵ Nạn năm 1980 được thông qua để thiết lập một hệ thống nhằm đối phó với sự gia tăng số người tỵ nạn từ Việt Nam và các nước khác trên thế giới.)

Trên đây là 3 đạo luật chính của Hoa Kỳ áp dụng cho tất cả các trường hợp đến tỵ nạn tại Hoa Kỳ sau ngày 30/4/1975 kể cả những người cựu tù chính trị Việt Nam, và không có cái gọi là Dự Luật H.O do ông Nguyễn Ngọc Bích và bà Khúc Minh Thơ vận động để áp dụng riêng cho những người tù chính trị Việt Nam. Ngoài 3 đạo luật trên đây, vào năm 1987, Quốc Hội Hoa Kỳ còn thông qua đạo luật Amerasian coming Home Act để đón nhận các trẻ em lai Việt Mỹ trở về nhà.
Người tù chính trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn tại Mỹ là do Một Thoả Thuận (An Agreement) được ký kết giữa Hoa Kỳ và Việt cộng vào ngày 29/7/1987 tại Hà Nội. Cái bút mà ông Robert Funset dùng để ký cái thoả thuân đó với thứ trưởng Việt cộng Vũ Khoan đã được ông Funseth, vì lịch sự kiểu Mỹ, tặng cho bà Khúc Minh Thơ để trưng bày (display) và làm kỷ niệm vì bà Thơ và Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị đã nhận và chuyển giúp nhiền ngàn hồ sơ xin tỵ nạn chính trị của các cựu tù nhân tới Toà Đại Sứ Mỹ tại Thái Lan.

Sự kiện tù chính trị Việt Nam là một sự kiện mang Dấu Ấn Lịch Sử. Do đó, mọi việc phải được trình bày một cách nghiêm túc và trung thực. Chúng tôi ghi nhận bà Khúc Minh Thơ đã có những quan tâm đặc biệt đến những người tù chính trị trong đó có Đại Tá Nguyễn Bê, phu quân của bà, và làm trung gian chuyển tiếp hồ sơ xuất cảnh - có thể lên đến nhiều ngàn - của một số anh em cựu tù nhân tới Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan. Và chỉ có vậy mà thôi. Ơn nghĩa phải minh bạch và sòng phẳng.

Trong một đoạn khác của bài phỏng vấn, ông Nguyễn Ngọc Bích có nói nguyên văn như sau: “…nếu không có cái hội của bà Khúc Minh Thơ thì chương trình H.O. không biết ở cái quy mô nào, có thể nó cũng xảy ra, nhưng ở quy mô rất nhỏ …”

Đọc câu này thì phải hiểu rằng chính là nhờ bà Khúc Minh Thơ và cả ông Nguyễn Ngọc Bích nên mới có chương trình H.O. quy mô lớn như thế và nếu không có bà Thơ và ông Bích thì không có chương trình H.O. và nếu có thì nó cũng sẽ ở quy mô rất nhỏ. Đây chỉ là lời suy đoán mơ hồ, không dẫn chứng cụ thể. Một giáo sư đại học Mỹ không làm chuyện suy đoán như thế.
Chúng tôi tin chắc rằng dù bà Khúc Minh Thơ và ông Nguyễn Ngọc Bích có vất vả đi vận động hay không thì việc những người cựu tù chính trị ra khỏi nhà tù cộng sản và sang cư ngụ tại Mỹ vẫn diễn ra theo đúng quy mô như nó đã diễn ra, bởi vì việc này phù hợp với quyền lợi lâu dài của Mỹ. Sớm hay muộn, Mỹ phải trở lại Việt Nam, một vị trí chiến lược, để bảo vệ quyền lợi chính trị và kinh tế lâu dài của Mỹ trong vùng Đông Nam Á. Trong tập Hồi Ức và Suy Tư của Trần Quang Cơ, thứ Trưởng Ngoai Giao cộng sản, đã viết đại khái rằng ngay trong tháng 5-1975, hai cơ quan ngoại giao của Việt cộng và Hoa Kỳ tại Paris đã trao đổi thư từ bàn về việc thiết lập bang giao giữa hai bên, nhưng không thực hiện được ngay lúc đó và phải đợi cho tới hơn 20 năm sau mới thiết lập được bang giao bởi vì Việt Cộng “đang thừa thắng xông lên,” đòi Mỹ phải bồi thường 3 tỷ mỹ kim. Và như tôi đã nói ở trên, khi những người cựu tù cuối cùng bước chân lên máy bay để rời khỏi Việt Nam thì ngay lập tức vào ngày 3-2-1994, tổng thống Bill Clinton đã tuyên bố huỷ bỏ cấm vận cho cộng sản và chuẩn bị thiết lập bang giao giữa hai bên. Cũng nên nhớ rằng ngay từ năm 1977, tổng thống Gerald Ford đã không phủ quyết mà còn ngầm ủng hộ để cho cộng sản Việt Nam ra nhập làm thành viên Liên Hiệp Quốc; nghĩa là ngay sau khi tháo chạy khỏi Việt Nam, Mỹ đã chuẩn bị trở lại Việt Nam, một vị trí chiến lược để bảo vệ quyền lợi lâu dài của Mỹ tai vùng Đông Nam Á.
Mỹ đã chạy khỏi Việt Nam, nhưng Mỹ vẫn không thể thoát ra khỏi Việt Nam. Do đó, vấn đề tù chính trị Việt Nam là vấn đề nằm trong tâm can cuả Mỹ. Dù có là đệ tử trung kiên của chủ nghĩa thực dụng, người Mỹ cũng không thể vác cái mặt mo đến Hà Nội lập Toà Đại Sứ khi những người từng là đồng minh thân thiết của họ còn nằm trong nhà tù cộng sản.
Ngoài yếu tố thực dụng trên đây, còn một yếu tố tâm lý cũng quan trọng. Đó là tâm thức tập thể của Hoa Kỳ đã nhận thấy rằng những người làm chính sách cao cấp của Hoa Kỳ như Kissinger và Nixon đã phản bội một cách vô đạo đức những cam kết của Hoa Kỳ đối với đồng minh VNCH.
Đây là một lỗ đen trong lịch sử Hoa Kỳ (a black hole in the American history) không thể tẩy xoá được. Không một người Mỹ nào có lương tri và tự trọng có thể hãnh diện mình là người Mỹ trong ngày 30-4-1975. Lương tâm tập thể của Hoa Kỳ đã bị day dứt. Do đó, ngay trong tháng 5/1975, những khuôn mặt quan trọng của Mỹ đã từng chống đối cuộc chiến Việt Nam cũng đã ủng hộ manh mẽ người tỵ nạn Việt Nam. Quốc Hội và Chính phủ Hoa Kỳ đã nhanh chóng ban hành Đạo Luât Định Cư và Tỵ Nạn Đông Dương (The 1975 Indochina Migration and Refugee Act) cho phép người tỵ nạn Việt Nam vào Hoa Kỳ theo một quy chế nhập cư đặc biệt.
Do đó việc đưa những người tù chính tri VN sang định cư tại Mỹ là để trả một món nợ lương tâm và đạo đức của Hoa Kỳ đối với những người đã một thời là đồng minh sát cánh chiến đấu trên cùng một chiến trường. Trả xong món nợ đạo đức và lương tâm này, người Mỹ mới có được những giấc ngủ yên hàng đêm. “This has helped us American sleep better at night.”
Mục đích trước hết và trên hết của cuộc phỏng vấn do ông Huy Phương thực hiện là để cầu cứu ông giáo sư Nguyễn Ngọc Bích biện hộ cái tính chính danh cho bà Khúc Minh Thơ - đã bị Tổng Hôi Cựu Tù Nhân Chính Tri Việt Nam chính thức phủ nhận bằng một tuyên cáo - để bà này đứng ra tổ chức cái gọi là: “Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam.” Ông giáo sư càng cố gắng biện hộ thì càng lòi ra những điều không đúng sự thật. như đã trình bày ở trên.
2- Trong bài “Tạp ghi Huy Phương: Chút ơn nghĩa cuối đời,” đăng trên Người Việt Online, ngày 1//11/008, có một đoạn ông Huy Phương đã viết nguyên văn như sau:
“…Gần đây, luận về một sự giúp đỡ trong quá khứ cho mgười tù chính trị, người ta đã phân tích, đem chẻ sợi tóc ra làm tư để phủ nhận công ơn những ai đã giúp đỡ mình, dù nhiều, dù ít, bằng cách này, hay bằng cách khác. Để khỏi mang ơn hay tránh mặc cảm là kẻ vô ơn, người ta phải tự lừa dối với cả chính mình bằng cách vẽ lại hình ảnh người ơn một cách xấu xa đến mức tàn tệ. Khi xúc động với lòng biết ơn người ta vẽ nên hình ảnh bà Tiên nhiệm mầu chan chứa lòng bác ái, khi bất bình người ta sẵn sàng tô vẽ hình ảnh ấy thành một mụ phù thuỷ quái ác. Thật ra, chúng ta không phải nhất thiết làm những chuyện như vậy, vì vào những ngày xa xưa ấy, những người bỏ công sức, bằng cách này hay cách khác để tìm cách cứu vớt người lâm nạn, không có ai mong mỏi sẽ có một ngày nào đó được đền đáp lại, dù chỉ là một câu cám ơn đầu lưỡi."
Trong toàn bài viết cũng như trong đoạn văn trên đây, ông Huy Phương đã vận dụng một thứ tình cảm lê thê để trách móc một cách hồ đồ và gọi những người tù chính trị là kẻ vô ơn đối với bà Khúc Minh Thơ, đại ân nhân của ông Huy Phương.
Bằng một giọng văn nỉ non, bi thảm, ông Huy Phương đã tô vẽ hình ảnh những ngượi tù chính trị thành những hình nhân đau khổ, tuyệt vọng, mất hết niềm tin, chỉ còn biết ngồi chờ bà Tiên nhiệm mầu chan chứa lòng bác ái của ông Huy Phương đến cứu. Ngòi bút của ông Huy Phương đã phản ánh ngược lại bản chất hiên ngang của các chiến binh anh hùng của QLVNCH mà tôi đã chứng kiến qua 9 trại tù cộng sản từ Nam ra Bắc. Chính bọn cai tù ác ôn cộng sản cũng phải thú nhận rằng: “bọn nguỵ quân cứng đầu này không thể cải tạo được. Bọn tù binh Pháp, tù binh Mỹ còn biệt sợ chứ bọn lính nguỵ này không biết sợ là gì.” Chính vì cái bản chất hiên ngang, không chịu khuất phục mà người chiến binh sa cơ đã bị lũ cai tù vô nhân tính cộng sản trả thù một cách rất dã man và đê tiện. Đã có biết bao nhiêu anh em đã chết dưới đòn thù của cộng sản và trước khi chết anh em vẫn giữ được hào khí anh hùng của người chiến binh QLVNCH.
Ở trên, tôi đã trình bày một cách minh bạch và sòng phẳng về “công ơn” của bà Thơ trong việc chuyển giúp nhiều ngàn hồ sơ xin xuất cảnh cho một số anh em cựu tù chính trị; cũng như tôi đã chứng mình rằng cái Dự Luật H.O. chỉ là sản phẩm do ông Bích và bà Thơ vẽ ra; và tôi cũng chứng mình bằng những văn bản và các sự kiện cụ thể rằng việc vận động để người tù chính trị ra khỏi nhà tù và đi định cư tại Mỹ là do chính phủ Mỹ chủ động từ đầu đến cưối để trả một món nợ quốc gia (this nation’s debt) đối với đồng minh trong cuộc chiến (to its Indochina wartime allies.) Bà Khúc Minh Thơ không có công đầu trong vụ này, tức là không phải vì có bà Thơ hô hoán: “Có người rơi xuống giếng,” nên người Mỹ mới đem thang, đem dây tới cứu như ông Huy Phương đã so sánh một cách ngớ ngẩn và gọi những người tù chính trị là kẻ vô ơn một cách hàm hồ.
Người Mỹ đã tìm cách trả món nợ quốc gia của họ (a nation’s debt” chậm nhất là từ năm 1982, nghĩa là từ rất lâu trước khi bà Thơ hô hoán: “Có người rơi xuống giếng.” bằng cái dự luật H.O. tưởng tượng ngày 1/5/1987. Bà Thơ đã đến sau, chạy chung quanh cái giếng để hô hoán và cổ võ trong khi người ta đã bắt tay vào việc và đang cứu.nạn. Dù sao thì cũng phải cám ơn bà Thơ vì những lời hô hoán này.
Bà Khúc Minh Thơ hiện là Sáng Lập Viên và Thành Viên Hội Đồng Tư Vấn của “Hội Bảo Tồn Lịch Sử & Văn Hoá Người Mỹ Gốc Việt” mà chủ tịch là bà Nancy Bùi, người đang có cơ sở làm ăn với cộng sản tại Việt Nam và phó chủ tịch là luật sư Trần Mộng Vinh, ông này đã ca tụng bọn lính cộng sản, quân đánh thuê cho Đệ Tam Quốc Tế, là ái quốc và có những lời lẽ súc phạm người lính VNCH. Với chức vụ quan trọng của môt tổ chức gồm những người hai mang như trên và thường đi về Việt Nam và đã được cộng sản cho mua nhà tại Vũng Tàu, chúng tôi có quyền nghi ngờ lập trường chính trị của bà Khúc Minh Thơ.
Tôi đã đọc được trên diễn đàn Internet một câu nói được coi là của bà Khúc Minh Thơ, xin ghi lại nguyên văn như sau: “Tôi đem các anh qua đây, mà các anh quậy phá quá, biểu tình tranh đấu tùm lum.”
Đây là câu nói xúc phạm đến danh dự người tù chính trị và người lính Việt Nam Cộng Hoà mà cộng sản rất thích nghe. Nếu đúng là bà Thơ đã nói câu này, bà phải có một lời xin lỗi anh em cựu tù chính trị và người lính VNCH nếu bà còn mang danh nghĩa người Việt quốc gia chống cộng.
Chúng tôi phải cân nhắc cẩn thận những lời cám ơn dù là lời cám ơn đầu lưỡi như ông Huy Phương nói, bởi vì đây là vấn đề Danh Dự và Tự Trọng. Không thể vì không nhịn nổi một cơn thèm khát nhỏ – dù là ở hoàn cảnh đói khát trong nhà tù cộng sản - để đưa tay ra nhận một cái kẹo to bằng đầu ngón tay út để rồi phải mang ơn suốt đời như ông Huy Phương, và coi “người ơn” đã cho mình cái kẹo là “bà Tiên nhiệm mầu chan chứa lòng bác ái.” Dù bất cứ trong hoàn cảnh nào, người lính có danh dự và tự trọng không làm chuyện đó.
Sự kiện tù chính trị Việt Nam là một sự kiện mang dấu ấn lịch sử, phải được trình bày một cách nghiêm chỉnh và trung thực. Mọi chuyện, kể cả ơn nghĩa, phải minh bạch và sòng phẳng.
Đánh tráo một sự kiện lịch sử là có tội đối với lịch sử. Những người lính VNCH đã hy sinh, đã chiến đấu và cầm súng chiến đấu đến phút cuối cùng trong ngày 30-4-1975 và sa cơ rơi vào tay địch trong trận cuồng phong của lịch sử là những anh hùng đã bảo vệ quê hương thân yêu Miền Nam suốt 20 năm.
Không ai lấy thành bại để luận anh hùng. Lịch sử sẽ ghi nhận những hy sinh xương máu của họ và không ai đươc phép lợi dụng danh nghĩa anh hùng của họ cho những ý đồ bất chính.

Đỗ Ngọc Uyển
Morgan Hill, California
Ngày 9 tháng 11 năm 2008

Mời các bạn xem khúc phim tài liệu v/v Nhật đầu hàng Đồng Minh sau WW2.

This is an actual film made of the surrender ceremony of the Japanese to McArthur in Tokyo Bay in September 1945. Actual voice of the General. Never been shown to the general public before. We always saw the "stills" but never the film itself.
Historical Footage: Japanese Surrender Signing Aboard Battleship Missouri Sunday Sept. 2, 1945.


Click here: Japanese Surrender <http://www.youtube.com/watch_popup?v=vcnH_kF1zXc&feature=player_embedded%3E;



S.RES.205 
Latest Title: A resolution calling for the release of political prisoners by the Government of Vietnam. 
Sponsor: 
Sen Kennedy, Edward M. [MA] (introduced 5/1/1987)      Cosponsors (6) 
Latest Major Action: 5/1/1987 Passed/agreed to in Senate. Status: Submitted in the Senate, considered, and agreed to without amendment and an amended preamble by Voice Vote.


SUMMARY AS OF: 
5/1/1987--Introduced.

Declares that the Government of the Socialist Republic of Vietnam should: (1) immediately release all political prisoners held as a result of their previous association with the Government of South Vietnam prior to 1975; (2) fulfill its commitment to negotiate their humane resettlement abroad or to rejoin family members outside of Vietnam; and (3) immediately resume processing of family reunification cases under the United Nations High Commissioner for Refugees' Orderly Departure Program.

MAJOR ACTIONS:

5/1/1987
Introduced in Senate
5/1/1987
Passed/agreed to in Senate: Submitted in the Senate, considered, and agreed to without amendment and an amended preamble by Voice Vote.

5/1/1987:
Submitted in the Senate, considered, and agreed to without amendment and an amended preamble by Voice Vote.

TITLE(S):  (italics indicate a title for a portion of a bill)

  • OFFICIAL TITLE AS INTRODUCED: 
    A resolution calling for the release of political prisoners by the Government of Vietnam.

COSPONSORS(6), ALPHABETICAL [followed by Cosponsors withdrawn]:     (Sort: by date)
Sen Byrd, Robert C. [WV] - 5/1/1987 
Sen Dole, Robert J. [KS] - 5/1/1987 
Sen Durenberger, Dave [MN] - 5/1/1987 
Sen Hatfield, Mark O. [OR] - 5/1/1987 
Sen Helms, Jesse [NC] - 5/1/1987 
Sen Pell, Claiborne [RI] - 5/1/1987



Đỗ Ngọc Uyển
(Khoá 4 Thủ Đức)
Tháng 4 năm 2010
Morgan Hill, California        






H.O.: Một Sự Lộng Giả Thành Chân

Đỗ Ngọc Uyển



Ngày 25-2-2010, trên báo Người Việt Online có một bài báo với tựa đề “20 Năm Chương Trình H.O.: Mọi Người Viết Về Hát Ô”. Nguyên văn đoạn mở đầu của bài báo như sau: “Kể từ số báo hôm nay, Người Việt bắt đầu đăng các tác phẩm liên quan đến đề tài Hát Ô. Chương trình này sẽ kéo dài ba tháng từ nay đến ngày 1 tháng 6, 2010.”
Hưởng ứng chương trình nói trên,  ngày 26-2-2010, Ông Vũ Quý Hạo Nhiên đã viết một bài báo có tựa đề “Cha đẻ chương trình H.O. không dùng chữ H.O.” được phổ biến  trên Người Việt Online có đoạn mở đầu như sau:
“Ông Robert Funseth, nhà ngoại giao Hoa Kỳ được coi là cha đẻ của chương trình định cư cho cựu tù nhân chính trị Việt Nam, giật mình ngạc nhiên khi được hỏi, Ông có biết người Việt chúng tôi gọi chương trình đó là H.O. không?”
Ông Robert Funseth giật mình ngạc nhiên là đúng bởi vì:
a/ Tại sao người Việt lại đặt tên là H.O. cho một chương trình do người Mỹ chủ trương, vận động và thực hiện? Người Mỹ đã đặt tên cho chương trình của họ là Tái Định Cư Những Người Tù Chính Trị qua câu nói khẳng định sau đây của Ông Robert Funseth được trích trong bài báo trên tờ New York Times ngày 15/10/1989 của ký giả Seth Mydans có tựa đề: “The Nation; The Next Wave from Vietnam: A New Disability.”
“…Resettling this group will be a step toward closing out this nation’s debt to its Indochinese wartime allies. These people have been detained because of their close association with us during the war, said Robert Funseth, the senior deputy assistant secretary of state, who has spent most of this decade negotiating their resettlement…”  (…Tái định cư nhóm người này, (những người tù chính trị), là một bước tiến tới việc khép lại món nợ của quốc gia Hoa Kỳ đối với những đồng minh trong cuộc chiến Đông Dương. Những người này đã bị giam cầm vì đã cộng tác mật thiết với chúng ta trong cuộc chiến, trên đây là lời phát biểu của ông Robert Funseth, phụ tá cao cấp của bộ trưởng ngoại  giao, người đã bỏ ra gần một thập kỷ để điều đình về việc tái định cư những người tù chính trị...)
b/ Ông Robert Funseth không phải là cha đẻ của chương trình H.O. như Ông Vũ Quý Hạo Nhiên viết. Ông Funseth chỉ là người được Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trao trách nhiệm điều đình với Việt Cộng để mang những người tù chính trị, cựu đồng minh của Hoa Kỳ, sang định cư tại Mỹ.

Ngày 30/4/05, đúng 30 năm sau ngày 30/4/1975, trả lời cuộc phỏng vấn của RFA do phóng viên Nguyễn Khanh thực hiện, Ông Funseth đã nói những câu nguyên văn như sau:
“Khi tôi được cử về làm việc cho Văn Phòng Đặc Trách Tỵ Nạn của Bộ Ngoại Giao (năm 1982), kế hoạch cứu tù chính trị được đặt trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự và nằm dưới sự hỗ trợ của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc.” Trong một đoạn khác của bài phỏng vấn, Ông Funseth nói:  “Riêng cá nhân tôi, tôi không thể nào nghĩ rằng 7 năm sau ngày khó quên đó (30/4/1975), tôi lại được trao trách nhiệm đàm phán với giới lãnh đạo Hà Nội để yêu cầu thả tù chính trị và cho họ cùng với gia đình sang Hoa Kỳ định cư…”
Những câu nói và  trả lời trên đây của Ông Funseth chứng tỏ rằng “kế hoạch cứu tù chính trị” để trả món nợ quốc gia của Hoa Kỳ đối với đồng minh của họ đã được hoạch định trước khi Ông Funseth được bổ nhiệm làm việc tại Văn Phòng Đặc Trách Tỵ Nạn của Bộ Ngoại Giao. Chương trình tái định cư những người tù chính trị Việt Nam tại Mỹ nằm trong chính sách ngoại giao của Tổng Thống Hoa Kỳ nhằm phục vụ quyền lợi của Hoa Kỳ mà bộ ngoại giao có nhiệm vụ thi hành. Ông Funseth không phải là thẩm quyền làm chính sách (policymaker) để có thể hoạch định chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Do đó, Ông Funseth không phải là cha đẻ của cái gọi là chương trình “H.O.” như Ông Vũ Quý Hạo Nhiên đã viết. Ông Funseth chỉ là một phụ tá cao cấp của bộ trưởng ngoại giao đã kiên trì trong tám năm với 25 cuộc họp để hoàn thành xuất sắc một nhiệm vụ chính trị và ngoại giao khó khăn được giao phó. Và như Ông Funseth đã phát biểu trong bài phỏng vấn nói trên: “Ngày ký kết cũng là ngày mà tôi hãnh diện nhất trong 40 năm làm ngoại giao.”
Một nhà ngoại giao được kính trọng như Ông Robert Funseth chắc cũng không muốn được tung hô quá mức vai trò thừa hành nhiệm vụ được giao phó mà bất cứ ai ở địa vị của ông Funseth cũng làm như Ông Funseth đã làm.
Những điều trình bày trên đây cũng gạt bỏ những luận điệu tung hô của một số người tâng bốc cho rằng nhờ có Bà Khúc Minh Thơ, Chủ Tịch Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị, vận động nên Ông Robert Funseth mới đẻ ra cái gọi là Chương Trình H.O. để mang những người cựu tù chính trị sang định cư tại Mỹ, và Bà Khúc Minh Thơ là ân nhân của tập thể hàng trăm ngàn người tù chính trị. Câu chuyện hoang tưởng, mờ ám này tưởng đã chìm xuống nhưng mới đây lại được hâm nóng lại qua báo chí và truyền hình. Để làm sáng tỏ “công ơn” của Bà Khúc Minh Thơ đối với tập thể người cựu tù chính trị, cách đây hơn một năm, vào dịp Bà Khúc Minh Thơ đứng ra tổ chức cái gọi là “Ngày Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị” tại Dallas vào ba ngày đầu tháng 10/2008, tôi đã viết hai bài có tựa đề: “Người Tù Chính Trị Việt Nam: Món Nợ của Hoa Kỳ Đối Với Đồng Minh và Dự Luật H.O. của Ông Nguyễn Ngọc Bích và Bà Khúc Minh Thơ.” Hai bài viết này hiện còn lưu trữ trên một số Websites.
Trong đoạn cuối của bài báo nói trên, Ông Vũ Quý Hạo Nhiên đã viết:
“Vậy chữ “H.O.” ở đâu ra? Có tác giả cho rằng khi người cựu tù cải tạo nộp đơn xuất cảnh qua diện này, phía Sở Ngoại Vụ đánh số hồ sơ bắt đầu bằng chữ “H”. Hồ sơ số 5987, chẳng hạn, sẽ mang số “HO5987” trong đó có số không (số zero) dẫn đầu. Nhưng người nộp đơn lại đọc số không thành chữ O và từ đó đẻ ra huyền thoại “Humanitarian Operation” là một chữ mà theo Ông Funseth không có trong vụ này.” Điều này chứng tỏ rằng Ông Vũ Quý Hạo Nhiên cũng chỉ viết lại những suy đoán mơ hồ của người khác chứ không truy nguyên rõ lai lịch của cái nguỵ danh H.O..

Một cách chính thức, không có cái gọi là Chương Trình H.O. nào cả. H.O. không phải là hai chữ viết tắt của “Humanitarian Operation” mà chỉ là sự suy đoán từ các con số thứ tự của các danh sách những người cựu tù chính trị đã được Việt Cộng cấp sổ thông hành (passport) và trao cho phía Hoa Kỳ phỏng vấn để đi tỵ nạn tại Mỹ. Ví dụ như các danh sách đầu tiên mang các số thứ tự H 01, H 02, H 03… gồm có hai phần: phần mẫu tự là H và phần các con số hàng đơn vị là 01, 02, 03…, và khi đến con số hàng chục thì không còn số không (zero) nữa mà trở thành  H 10, H 11, H 12….
Sau đây là một trích đoạn trong “Giấy Báo Tin” của Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh của nguỵ quyền Việt Cộng tại Hà Nội gửi cho một người cựu tù chính trị.

GIẤY BÁO TIN
……………………………………………………    ……………………………………………………

1/ Chúng tôi đồng ý cho ông cùng 03 người trong gia đình được phép xuất cảnh đến nước Mỹ.
2/ Về việc cấp hộ chiếu: chúng tôi đã cấp 04 hộ chiếu số: 28273, 28275, 28277, 28279 gửi kèm theo.
3/ Chúng tôi đã lên danh sách số H 10, số thứ tự 796, chuyển Bộ Ngoại Giao để chuyển chính phủ Mỹ bố trí tiếp xúc phỏng vấn xét nhập cảnh.
Nếu gia đình cần biết thời gian phỏng vấn tiếp xúc và kết quả duyệt xét nhập cảnh xin liên hệ chính phủ Mỹ.
Xin thông báo để ông yên tâm.
(Hiện phía Mỹ đang phỏng vấn danh sách H 05) Hà Nội, ngày 10 tháng 7 / 1990
TRƯỞNG PHÒNG X.N.C
Trần Thành
(Ký tên và ấn dấu)

Những điều trình bày trên đây đã chứng minh rằng không có cái gì chính thức gọi là “H.O.” cả.  “H.O.” chỉ là một nguỵ danh đã được sử dụng một cách lập lờ để chỉ một người “tù cải tạo” nhằm xoá đi cái chính danh là người tù chính trị.  Đây là trò chơi chữ đểu giả của lũ Việt Cộng  bởi vì không bao giờ chúng nhìn nhận rằng chúng đã giam giữ những người tù chính trị mà chỉ đưa đi “cải tạo” những kẻ phạm tội hình sự đối với chúng. Cho nên chính danh là điều quan trọng, và phải xoá bỏ cái nguỵ danh “H.O.” trong từ vựng tiếng Việt.
Nếu dịch sang tiếng Việt, những cái tên nửa Việt nửa Mỹ như: Chương Trình H.O., các ông H.O., ông H.O. 1, bà H.O. 5, con ông H.O. 8…sẽ thành những cái tên ngô nghê, vô nghĩa như: Chương Trình Chiến Dịch Nhân Đạo, các ông Chiến Dịch Nhân Đạo, ông Chiến Dịch Nhân Đạo 1, bà Chiến Dịch Nhân Đạo 5, con ông Chiến Dịch Nhân Đạo 8….

Cái nguỵ danh H.O. đã bị lộng giả thành chân từ 35 năm nay. Trong ngôn ngữ nói hàng ngày, người ta thường tự bào chữa rằng vì “quen miệng” nên sử dụng những cái ngụy danh như: “các ông H.O., chương trình H.O., ngày giải phóng, học tập cải tạo, người tù cải tạo…”. Nhưng khi đã viết ra trên giấy trắng mực đen lại là chuyện khác, người viết phải tôn trọng độc giả và có nhiệm vụ phải truy nguyên, điều tra cho rõ sự thật và sử dụng đúng chính danh chứ không thể sử dụng cái ngụy danh lập lờ “H.O.” nếu không muốn bị coi là có âm mưu bất chánh hoặc thiếu lương tâm nghề nghiệp.
Trước đây, trên một diễn đàn điện tử, có một ông nhà văn nhà báo đã viết: “Tên H.O. thực ra như chúng ta đã biết xuất xứ từ cách đánh số của cộng sản bắt đầu từ H 01 cho đến H 09 thì trở thành H 10. Nhưng bây giờ đã thành danh thì ta cứ gọi là H.O.”. Đây là kiểu ăn nói lấy được, bất chấp lương tâm nghề nghiệp của nhà văn nhà báo là phải tôn trọng sự thật, đặc biệt là sự thật đối với lịch sử.
Việt Cộng và tay sai có thể lợi dụng cái danh xưng H.O. không chính, không thực và lập lờ này cho âm mưu đen tối của chúng để bôi đen chân dung người chiến binh QLVNCH. Cách gọi bằng những cái tên tỏ vẻ giễu cợt như: “các Ông Hát Ô, các Ông Ếch Ô” là xúc phạm đến danh dự của tập thể người tù chính trị, người lính VNCH.
Băng đảng Việt Cộng không bao giờ nhìn nhận rằng những người đã bị chúng giam cầm phi pháp là tù nhân chính trị và chúng luôn luôn tuyên bố rằng những người này là tội phạm chiến tranh vì đã cầm súng chiến đấu chống lại chúng, và chúng thả những người này ra và để họ đi định cư tại ngoại quốc là vì lý do nhân đạo chứ không phải vì lý do chính trị. Do đó, Việt Cộng và tay sai có thể tuyên truyền lếu láo rằng đảng của chúng đã tổ chức cả một chiến dịch nhân đạo (H.O., Humanitarian Operation)) để cho những người tù chính trị và gia đình họ đi định cư tại ngoại quốc. Nhưng thực tế và lịch sử đã chứng minh rằng Việt Cộng là một lũ vô nhân tính làm sao chúng có nhân ái để làm chuyện nhân đạo.
Trước đây vài năm, một tờ nhật báo tại San Jose đã đăng một loạt bài phỏng vấn với tựa đề “Cuộc Chiến Nhìn Từ Hai Phía”, trong đó có bài phỏng vấn tên Tổng Lãnh Sự Việt Cộng Nguyễn Xuân Phong tại San Francisco. Tên cộng sản này đã lợi dụng cuộc phỏng vấn để mạt sát các anh em cựu tù chính trị là vô ơn đối với đảng và nhà nước của y. Cũng tờ báo này đã xấc xược gọi Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Bắc California là Hội Tù với ý đồ bôi đen chân dung người tù chính trị Việt Nam.
Sự kiện hàng trăm ngàn người tù chính trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ là một sự kiện chính trị mang dấu ấn lịch sử. Sử dụng những cái nguỵ danh như “Hát Ô hay Ếch Ô” khi nói hay viết là thái độ cợt nhả đối với một sự kiện lịch sử. Để bảo vệ danh dự và chỗ đứng trong lịch sử của tập thể hàng trăm ngàn người tù chính trị, những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ quê hương Miền Nam thân yêu suốt 20 năm, phải loại bỏ cái ngụy danh “Chương Trình H.O.” và thay bằng cái chính danh là  “Chương Trình Tái Định Cư Những Cựu Tù Nhân Chính Trị”. Đây là một chương trình do chính phủ Hoa Kỳ hoạch định và thực hiện với sự hỗ trợ của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc để trả một món nợ quốc gia của Hoa Kỳ đối với đồng minh của họ trong cuộc chiến chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương và Việt Nam.
Viết để đánh dấu 20 năm một sự kiện lịch sử là điều rất nên làm. Nhưng chính danh là điều quan trọng để hậu thế biết và hiểu đúng sự thật lịch sử. Dùng cái nguỵ danh H.O. - một ám số của Việt Cộng - đã bị lộng giả thành chân để xuyên tạc một sự thật lịch sử là có tội đối với lịch sử.


Đỗ Ngọc Uyển
(Khoá 4 Thủ Đức)
Tháng 4 năm 2010
Morgan Hill, California        


Virus-free. www.avast.com
__._,_.___

Posted by: Gia Cat 

Viewing all articles
Browse latest Browse all 674

Trending Articles