----- Forwarded Message -----
From:caoduong>
Kính gởi Gia Cát,
Đã đọc vài lời tỏ lộ nỗi lòng xúc cảm của Bạn trước sự ra đi âm thầm trong cô đơn vào một ngày mùa đông lạnh lẽo, tuyết rơi, mây mù trên vòm trời Paris, tôi rất cảm động! Anh Nguyễn Sơn Quân là một cựu quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà:Nguyễn Sơn-Quân:
Cựu SQ Đại Đội 3 - Tiểu Đoàn 3/14 ( KBC 3051 ) - Trung Đoàn 14 Bộ Binh -
Sư Đoàn 9 Bộ Binh/QLVNCH. Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức.
Tin cuối cùng thì anh NSQ có gia đình bên Pháp và một người em ở bên Mỹ.
Kính nhờ Bạn thông báo giùm trên các diễn đàn.
Nguyễn Cao Đường
----- Gia Cat > a écrit :
>
>
>
>
>
>
Chuyện thật 100% của vợ chồng Minh Hòa - Nguyễn Tiến Việt (k23 vb)một trong nhiều tấm gương"tao khang phu thê bất khả hạ đường"
gó giáo dục, có đạo đức, thủy chung, son sắt hay không cứ đọc bài
viết là rõ.
Tôi đi thăm chồng ‘cải tạo’
Minh Hòa
Tác giả Minh Hòa chụp cùng chồng năm 1971 tại Đà Lạt. (Hình: Gia đình)
Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là “các ông cải tạo” nhưngười miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt với những người tù hình sự. Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những người xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ởlứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù cải tạo” của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất định…
Tôi quen anh năm 17 tuổi, khi còn cắp sách đến trường. Lúc ấy anh là sinh viên sĩ quan năm thứ ba, hai mươi tuổi đời, nhưng dạo đó trong mắt tôi anh thật chững chạc, lại tài hoa, và cũng không thiếu… si mê.
Anh nhất định đòi cưới tôi ngay sau khi ra trường, nói rằng thầy mẹ anh sẽưng ý, không thể phản đối. Tôi hình nhưcó hơi ngạc nhiên và hơi… sợ sợ, vì tuổi 18, 19 thời đó còn nhỏlắm, chẳng biết gì, chỉ biết rằng tôi hình nhưcũng… yêu anh nhiều lắm. Tôi còn nhớ, tuy còn nhỏ và ngây thơ lắm, nhưng những ngày giữa năm thứ tư của anh, từng đêm tôi đã thổn thức một mình. Cảm giác lúc ấy là chỉsợ mất anh vào nơi giócát mịt mù mà biết bao người trai đã ra đi không hẹn ngày về. Và tôi nhất quyết lấy anh, tuy anh làm phiền lòng ba má tôi không ít, khi anh dứt khoát từ chối mọi công lao chạy chọt của song thân tôi ngay từ truớc ngày anh tốt nghiệp. Gia đình tôi ngần ngại, nhưng tôi là con gái út, được cưng nhất nhà, vảlại cả nhà ai cũng quý mến anh…
Thế là tôi rời ghế nhà trường năm 19 tuổi, lên xe hoa mà tưởng nhưđang trong giấc mộng tình yêu thời con gái. Rồi thì giã từquê huơng Đà Lạt yêu dấu, giã từnhững kỷ niệm yêu đương trên từng con dốc, từng vạt nắng xuyên cành trong hơi lạnh thân quen, từng hơi thở thì thầm trong ngàn thông thương mến, tôi theo anh về làm dâu gia đình chồng ở Sài Gòn. Tôi chưa hềđược chuẩn bịđểlàm dâu, làm vợ, đầy sợ hãi trong giang sơn nhàchồng, còn chưa biết ứng xửra sao, nhưng được cha mẹvà các em chồng hết lòng thương mến.
Các chú em chồng nho nhã luôn luôn hoan hô những món ăn tôi nấu nướng.
Tuần trăng mật thật vội vã nhưng vô cùng hạnh phúc, chỉvỏn vẹn trong thời gian anh nghỉphép ra trường, rồi trình diện đơn vịmới. Mùng sáu Tết Tân Hợi 1971, Sưđoàn Dù của anh đi mặt trận Hạ Lào. Hôm ra đi anh vui tưng bừng như con sáo sổ lồng, trong khi tôi thẫn thờ… Anh siết tôi thật chặt, không cho tôi khóc, nói rằng ra đi trong dòng nước mắt vợhiền là điều xui rủi.
Tôi vội vã gượng cười, để rồi từng đêm thổn thức một mình trong căn phòng lạnh vắng, run rẩy lắng nghe từng tin chiến sự miền xa… Thưanh từmặt trận toàn những điều thương nhớ ngâp tràn, pha lẫn những lời như những tràng cười say sưa của người tráng sĩ đang tung mình trên lưng ngựa chiến. Mẹ chồng tôi chẳng vui gì hơn tôi. Hai mẹ con buôn bán xong thường đi lễ chùa, khấn nguyện. Bà cụ bảo tôi: “…phải khấn cho nó bịthương nhẹđể mà về, chứ vô sự thì lại không được về, vẫn còn bịnguy hiểm”… Tôi càng hoang mang, thảng thốt, quỳ mãi trong khói hương với đầy nước mắt, chẵng khấn được câu nào… Má tôi trên Đà Lạt cũng vội lặn lội lên tận cốc xa, thỉnh cho được tượng ảnh Bồ Tát Quán thếÂm để chồng tôi vềsẽđeo vào cổ.
Sau trận đầu tiên ởHạ Lào anh trở về với cánh tay trái treo trước ngực. Tôi run run dội nước tắm cho anh đểnước khỏi vào vết thương, mà không giấu được nụ cười đầy sung sướng, pha lẫn… đắc thắng, cảm ơn Trời Phật linh thiêng…
Rồi anh lại ra đi. Tây Ninh, Cam Bốt, cùng những địa danh trong các dòng tin chiến sự mà tôi thuộc nằm lòng. Trảng Bàng, Trảng Lớn, Suông, Chúp, Krek, Đam Be… Anh đi toàn những trận ác liệt một mất một còn với quân thù quái ác. Vừa lành vết thương là lại ra đi. Tôi thành người chinh phụ, thao thức từng đêm, vùi đầu vào gối khóc mùi trong lời khấn nguyện Phật Trời che chở cho sinh mạng chồng tôi. Còn anh, anh cứđi đi về về trong tiếng cười vui sang sảng, hệt như các bạn chiến đấu trong cùng đơn vị, mà nay tôi vẫn còn nhớtên gần đủ: các anh Tường, Hương, Trung, Dũng, Sinh, Chiêu, anh Sĩ, anh Tâm, anh Quyền….
Mỗi lần trở về bình an là một lần cả nhà mở hội, và mỗi khi nhận lệnh đi hành quân là một lần tôi thờthẫn u sầu trong lúc anh hăng hái huýt gió vang vang khúc hát lên đường. Con người ấy không biết sợ hãi là gì, không cần sống chết ra sao, và không hề muốn nghe lời than vãn, chỉthích nụcười và những lời thương yêu chiều chuộng.. Anh nói không biết tại sao anh có niềm tin kỳ lạlà không có việc hiểm nguy nào hại đựơc thân anh. Tôi chỉ còn biết chiều theo ý chồng, không bao giờ dám hé môi làm anh buồn bực, vì thời gian gần nhau quá ngắn ngủi, tôi chỉ lo cho anh những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của người lính chiến, không muốn để anh bận lòng vì những nỗi lo âu. Lấy chồng hơn hai năm sau mà tôi vẫn chưa có cháu, vì anh cứđi, đi mãi đi hoài, những ngày gần nhau không có mấy.
Rồi mùa Hè đỏlửa nổ ra. Anh nhảy vào An Lộc, lăn lóc đánh dập đánh vùi với địch quân đông gấp bội trong gần ba tháng trời, mất cả liên lạc bưu chính, ở nhà không hề nhận một chữ một lời. Người hạ sĩ quan hậu cứ mỗi tháng ghé lại gia đình thăm hỏi đều phải vẫy tay tươi cười ngay từđầu ngõ. Anh vềđược đúng một tuần, thì lại lên đường đi Quảng Trị… Rồi anh lại bị thương ởcửa ngõ Cổ Thành, trở về trong phòng hồi sinh Tổng Y Viện Cộng Hòa. Trên đường tới bệnh viện cùng với gia đình, tôi ngất xỉu trên xe của người anh chồng…
Nhưng rồi anh vẫn đứng dậy, lại khoan khoái cất bước hành quân. Ôi, không biết tôi mang nợ anh từtận tiền kiếp xa xôi nào, mà tôi yêu thương cái con người chỉ biết miệt mài say mê chiến trận. Tôi chỉ biết ước nguyện của anh là trở thành một Tướng Patton của Việt Nam, “Rồi nước mình sẽ phải tựchủ hơn lên, mấy năm nữa phải khác hẳn đi chứ. Nền nếp quân đội sẽ phải thay đổi. Anh sẽlàm tưlệnh đại đơn vị, để anh điều động liên quân chủng, cảthiết giáp, máy bay, đánh giặc như Patton cho mà coi. Cam bốt, Hạ Lào Trung Thượng Lào ăn nhằm gì… Hà hà.” Tôi chỉậm ừvì chẳng hiểu gì, khi anh thì thầm bên tai tôi vào một đêm tôi dần thiếp đi trong đôi cánh của hạnh phúc, một lần anh về phép hành quân…
Sinh cháu gái đầu lòng năm 1973 ởĐà Lạt, anh vềthăm mẹcon tôi và trường cũ, xong lại bay đi trấn thủđường ranh giới ngưng chiến ở vùng Tây Nam Huế…
‘Bé Dung’ với chồng và hai con, Tháng Tám, 2014 (Hình: Gia đình)
Tháng Tư năm 1975, đơn vịanh đóng quân ởThủĐức, chuẩn bị tử chiến với quân thù. Chú em chồng là sĩ quan chuyển vận tàu HQ505. Tàu ghé Sài Gòn để chuẩn bịđi công tác Phú Quốc. Chồng tôi bảo cả gia đình, gồm thầy mẹ, các chú và cả mẹ con tôi, xuống tàu đi Phú Quốc lánh nạn chiến sự, rồi khi yên sẽlại trở về. Tôi tưởng anh cũng định ra đi, nhưng anh quắc mắt nói tại sao anh lại phải bỏđi lúc quân lính của anh vẫn còn chưa nao núng, “bọn nó làm gì thắng nổi khi cảSưĐoàn Dùđầy đủ bung ra phản công, cho nó ăn một cái Mậu Thân nữa thì mới hết chiến tranh, quân Dù đánh giặc một chấp bốn là thường, còn trận cuối này là xong.” Anh hăng say như sắp xung trận, nhưng rồi anh quay lưng lại, run giọng bảo tôi hãy bế con theo xe của ông anh ra bến tàu. Đến nước đó tôi không còn gì sợ hãi, ôm con nhảy xuống, nhất định đòi ởlại. Vợ chồng sống chết có nhau…
Ba lần toan vượt thoát từđầu đến giữa Tháng Năm đều thất bại não nề. Anh lên đường đi trại tập trung vào Tháng Sáu, khi tôi đang mang bầu cháu thứnhì… Bé Dung ưỡn người đòi theo bố. Anh quay lại, vẫy tay cười với mẹcon tôi. Vẫn nụ cười ấy, anh vẫn chẳng nệâu lo sống chết là gì, nhưng còn mẹ con em, anh ơi???…
Gia đình nhà chồng tôi thiệt có phước, hầu hết đã theo tàu HQ505 đi Phú Quốc rồi sang Mỹ, kể từ hôm tôi ôm con ở lại với chồng. Gia đình tôi từĐà Lạt chạy về Sài Gòn, sống chen chúc quây quần đùm bọc lẫn nhau. Hàng quán của gia đình chồng tôi bị tịch biên hết. Tôi nhất định giữ chặt ngôi nhà của cha mẹchồng để lại, đuổi mấy cũng không đi. Chị ruột tôi bỏdần vốn ra mua được ngôi nhà khác, vì ông chồng ôm vợbé chạy mất, nhà cửa xe cộ bị tịch biên hết. Tôi và các anh chịem tôi chạy vạy đủđiều để lo sinh kế, nuôi con thơ cha già mẹ yếu. Chồng tôi mịt mù tăm tích, chỉ có đôi ba lá thư viết vềtừ trại Long Giao. Lên Long Giao cũng không gặp. Anh bịđưa ra Bắc.
Năm đó tôi tròn 25 tuổi, dung nhan tuy tiều tụy nhưng vẫn khiến nhiều kẻ phải suýt soa dòm ngó. Biết bao người mai mối thì thầm bên tai tôi, thôi hãy lo cuộc đời mới, sĩ quan ngụy đi Bắc chẳng có ngày về… Bao nhiêu nỗi khổđau dồn nén đột nhiên bùng nổ. Tôi vùng lên như một con cọp cái: bác thửnghĩ coi cảbọn cả lũ tụi nó đó có đáng xách dép cho chồng tôi không!!! Rồi ba mẹcon tôi ôm nhau khóc vùi trong tủi hận.
Không, không, một ngàn vạn lần không. Quanh tôi chỉ còn toàn rác rưởi. Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những người xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ởlứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù cải tạo” của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất định… Còn gì nữa mà chọn lựa! Thà vậy, đành thôi. Tôi đã là vợ anh, tôi vẫn tôn thờ anh trong tim óc, làm sao khỏi lợm giọng trước bọn người lường lọc, bướm ong, hèn hạ… Chị em tôi buôn bán từ thuốc lá đến bánh cuốn, bánh ướt, bánh mì, thuốc tây, thuốc nam, kiêm luôn cắt chải gội uốn tóc, làm móng tay… nhưng luôn tránh chỗ công quyền và nơi phồn hoa nhan nhản những con mắt hau háu của bọn ăn cướp và bọn trở cờ. Mấy anh chịem tôi đồng lòng, đùm bọc lẫn nhau, nên áo rách nhưng một tấm lòng son tôi vẫn vẹn với câu thề…
Vượt qua được thời gian khó khăn cực khổ nhất lúc ban đầu, sau ba mẹ con tôi được gia đình chồng từ Mỹ chu cấp, tuy không dưdả nhưng cũng đủgửi quà ba tháng một lần, rồi lại dành dụm cho môt chuyến thăm nuôi…
Anh từ miền cực Bắc bịđưa về Thanh Hóa chừng một năm, thì tôi xin được giấy phép đi thăm nuôi. Tôi và chị tôi chạy đôn chạy đáo mua đủ một trăm năm chục ký quà đểtôi đem ra Bắc cho chồng. Bà cụbuôn bán quen ngoài chợlại nhờđem thêm năm chục ký thăm dùm con trai, vì con dâu cụđã vượt biên. Cháu Dung đã lên 6, em Long nó 4 tuổi và chưa lần nào thấy được mặt cha. Tôi đem cảhai con đi cho anh gặp đứa con trai.
Xuống ga Thanh Hóa, cảđoàn quân khuân vác vây quanh gọi mời giục giã. Tôi và mấy chị cùng thăm chồng chia nhau giữ chặt hàng hóa không cho ai khiêng vác, rồi tự mình kéo lê kéo lết đi thuê nhà trọ. Có người đã đi vềkể rằng cứsơý làbị vác hàng chạy mất. Chúng tôi cũng phải chia nhau ở lại nhà trọcoi chừng hàng và đi chợ. Tôi nhờmột chị mua thêm được ký mỡ, về rang tóp mỡ ngoài sân nhà trọ. Nghe con khóc, tôi vội vã chạy vô nhà. Chưa kịp dỗ con thì nghe tiếng ồn ào. Quay ra, hai kẻcắp đã bưng chảo tóp mỡù té chạy, chị bạn rượt theo không kịp. Tôi khóc thầm tiếc hoài, cứ nghĩ những tóp mỡ kia đáng lẽđã giúp chồng mình đỡ bao đói khát.
Xe đò đi Thanh Cẩm chật ních những bà thăm chồng. Chúng tôi năm người lớn và hai cháu xuống ngã ba Nam Phát để vô Trại 5. Tôi lê từng bao hàng rồi lại quay lui kéo lê bao khác, chừng hơn nửa cây số mới đến trạm xét giấy tờ vào trại, hai cháu còn quá nhỏchẳng muốn chúng đụng tay. Cô Út thiệt giỏi, xong phần mình lại xông xáo giúp hết người nọ tới người kia.
Xong giấy tờ, chờ một lát thì một người tù hình sựđánh xe trâu đến. Hàng hóa và hai con tôi được lên xe trâu, tôi và chịPhước, chịĐiệp cùng hai mẹ con cô Út lẽo đẽo theo sau. Đường đi xuyên trại xuyên rừng dài tám cây số. Chúng tôi chưa biết lúc trở ra mới càng thê thảm.
Chân tay rã rời, tới chiều tối mới thấy cổng trại 5 Lam Sơn. Đêm xuống bé Dung còn phải phụ tôi gom lá mía cho tôi vội nấu hết gạo thành cơm, nắm lại từng vắt, vì nghe nói công an không cho tù chính trịđem gạo sống vô, sợ các anh âm mưu trốn trại. Đêm chờ sáng để thăm chồng, nhìn hai con thơ ngây ngủsay sưa vì mỏi mệt, tôi rời rã vô cùng nhưng không sao ngủđược. Hằng trăm hình ảnh chồng tôi nhảy múa trong đầu… Chồng của tôi, người lính dù hăng hái húyt sáo mỗi khi nhận lệnh hành quân ấy, nay đã ra sao???
‘Cu Bi’ và cha mẹ, ngày cưới vợ, Tháng Tư, 2009. (Hình: Gia đình)
Sáng, đến lượt ra nhà thăm nuôi ngong ngóng chờ chồng, tôi không được phép ra khỏi cửa căn buồng nhỏ xíu, kê một bàn gỗ dài và hai ghế băng dọc hai bên. Đột nhiên một ông lạ hoắc đứng lù lù ngay cửa. Tôi ngỡngàng chưa biết điều gì. Cô nữ công an nhìn chòng chọc, hằn học, đợi chờ như con gàchọi sắp tung đòn. Tôi không thể hiểu người con gái Bắc cỡ cùng tuổi tôi kia thù hằn tôi điều gì. Tôi ngó lại, lát sau cô ta coi sổxong, mới nói đây là anh Đức mà bà cụnhờ tôi đi thăm dùm. Mất nửa tiếng giao quà và kểchuyện gia đình cho anh Đức nghe, tôi được biết chỉ còn một tiếng rưỡi gặp chồng. Thế là tôi bắt đầu ôm mặt khóc, càng lúc càng nức nở vì tủi cực, không thể nào cầm được. Trên thế giới này có ai phải lặn lội hằng ngàn cây sốđểchỉđược gặp chồng có một giờ ba mưới phút không hả Trời?!!
Hai cô công an lớn tiếng dọa dẫm, những là phải động viên học tập tốt, không lau sạch nước mắt thì không cho ra thăm… Nhưng kìa, ai nhưchồng tôi vừa bước ra khỏi cổng trại. Tôi không còn nhớ quy định luật lệ gì nữa, vùng đứng dậy chạy nhào ra như một tia chớp. Hai đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy theo. Hai công an nữ bị bất ngờ không cản kịp, đứng nhìn.
Tôi chạy tới ôm anh, và càng khóc dữ, đôi chân khụyu xuống, không còn sức lực. Trời ơi, chồng tôi ốm yếu đến nỗi tôi ôm không trọn một vòng tay. Người anh nhỏthó hẳn lại, chỉ có đôi mắt sáng với tia nhìn ngay thẳng là vẫn hệt nhưngày nào, nhưng nay đượm nét u buồn khiên tôi đứt ruột. Anh vẫn không nói được lời nào, chỉbặm môi nhìn tôi nhìn con thăm thẳm. Tôi biết anh đang cố trấn tĩnh, vì không muốn rơi nước mắt trước mặt công an. Anh dìu tôi và dắt con trở vào nhà thăm nuôi. Anh nắm chặt tay tôi, đưa vào chiếc ghế băng. Cô công an lạnh lùng chỉ anh bước sang chiếc ghếđối diện, rồi ngồi sừng sững ởđầu bàn, cứchăm chăm nhìn vào sát tận mặt tôi. Anh khuyên tôi ở nhà ráng nuôi dạy con cho giỏi. Rồi thật nghiêm trang, anh bảo tôi phải đưa con đi vùng kinh tế mới, vềtỉnh Mỹ Tho chỗ bác Chánh với chú Cương và cô Huyền đã tựnguyện đi khai hoang rồi, đang chờvợ chồng mình lên lao động sản xuất. Tôi hơi sững sờ, rồi chợt hiểu, đang khóc lại suýt bật cười hân hoan, khi thấy nét khôi hài tinh anh của chồng tôi vẫn còn nguyên vẹn. Bác Chánh là tên gọi của thầy mẹ chúng tôi, chú Cương vàcô Huyền chính là chú Cường, chú em chồng đã đưa cả nhà xuống tàu HQ 505 đi lánh nạn. Cô công an có vẻrất đắc ý, nhắc tôi:
– Chị phải nói gì động viên anh ý đi chứ.
Anh nhìn mắt tôi, cười thành tiếng. Tôi chợt cười, nhưng lại chợt giận hờn.
Tôi cúi mặt giận dỗi:
– Em không đi đâu hết, em chờ anh vềđã rồi muốn đi đâu cũng được…
Tôi lại khóc, hai tay nắm chặt tay anh, chỉsợ phải xa rời. Cô công an cứquay nhìn hết người nọđến người kia, lên tiếng:
– Chị này hay nhỉ! Phải đi kinh tếmới, lao đông tốt thì anh ấy mới chóng được khoan hồng chứ! Trại giáo dục anh ý tiến bộ thếđấy, còn chị thì cứ… Chỉđược cái khóc là giỏi thôi!!
Anh không nhịn được, lại cười khanh khách và nói:
– Đó em thấy chưa, cán bộởđây ai cũng tiến bộ như vậy hết, em phải nghe anh mới được… Em cứthấy anh bây giờ thì biết chính sách nhà nước ra sao, cũng đừng lo gì hết, ráng nuôi dạy con cho nên người đàng hoàng đừng học theo cái xấu, nghe…
Tôi dở khóc dởcười, chỉ nắm chặt tay anh mà tấm tức, dỗi hờn. Anh gọi hai con chạy sang ngồi hai bên lòng. Cô nữcông an do dự, rồi để yên, lại tiếp tục nhìn sững vào mặt tôi. Anh ôm hôn hai cháu, nói chuyện với hai cháu. Đôi mắt chúng tôi chẳng nỡ rời nhau. Mắt tôi nhòa lệmà vẫn đọc được trong mắt anh những lời buồn thương da diết. Tội nghiệp hai con tôi đâu biết chỉđược gần cha trong giây lát nữa thôi.
Tôi như một cái máy, vừa khóc vừa lay lay bàn tay anh, nhắc đi nhắc lại, em sẽđợi anh về, anh đừng lo nghĩ gì nghe, em sẽđợi anh về, em nhất định đợi anh mà… anh vềrồi mình cùng đi kinh tế mới… anh ráng giữ gìn sức khỏe cho em và con nghe… Em thề em sẽđợi anh về…. Em không sao đâu… Anh đừng lo nghĩ, cứyên tâm giữgìn sức khỏe nghe, em thề mà, anh nghe…
Tôi chợt thấy chồng tôi nhòa nước mắt. Cô công an lúng túng đứng dậy, bỏ ra ngoài nhưng lại trở vào ngay, gõ bàn ra hiệu cho người ở ngoài. Người nữ công an kia chẳng biết núp ởđâu, lập tức xuất hiện, báo hết giờ thăm… Vợ chồng tôi lại ôm chặt nhau ởđầu bàn bên kia ngay trước cửa phòng, bất chấp tiếng gõ bàn thúc giục. Anh nắm chặt hai bàn tay tôi, chỉ nói được một câu:
-Anh sẽ vềđưa em và con đi, không thể quá lâu đâu, đừng lo nghe, cám ơn em…đã quyết đợi anh về… Rồi anh nghẹn ngào…
Tôi bị ngăn lại ngay cửa nhà thăm nuôi, cháu Dung chạy ù theo cha, cu Bi nhút nhát đứng ôm chân mẹ cùng khóc. Tôi ôm cây cột gỗnhìn dáng anh chậm chạp buớc tới hai cánh cổng gỗto sầm, mà không thểnào ngưng tiếng khóc.
Anh ngoái đầu nhìn lại hoài, bước chân lảo đảo, chiếc xe cút kít một bánh mấy lần chao nghiêng vì hàng quá nặng…
Sáng hôm sau tôi như người mất hồn. Các chịbạn cũng chẳng hơn gì. Mấy chị em và bà bác dắt díu nhau ra, mới biết không được về lối cũ, mà phải đi vòng bên ngoài trại cả gần hai chục cây sốnữa để trởlại chỗ ngã ba Nam Phát.
Đường xuyên rừng, rồi lại ra đồng trống, nắng hanh chang chang như muốn quật ngã ba mẹcon tôi. Cu Bi mệt lắm, có lúc ngồi bệt xuống, áo quần mồ hôi ướt nhẹp. Tôi phải đứng giữa nắng đem thân mình che nắng cho hai con, dỗ dành chúng, rồi lại bếcu Bi, lầm lũi bước thấp bước cao. Bà bác và hai chị cùng cô Út cứ phải đi chậm lại chờ mẹ con tôi. Bao nhiêu cơm gạo đã giao cho chồng hết, chúng tôi không còn gì ăn uống. Dọc dường mua được mấy cây mía, tôi róc cho các con ăn cho đỡđói. Hai đứa không khóc lóc một lời. Bé Dung thiệt ngoan, luôn miệng dỗ em cố gắng. Bụng đói, chân mỏi rã rời trong lúc chiều cứ xuống dần. Đám người lang thang trong những cánh rừng tre nứa âm u, trên miền đất không một chút tình thương. Ai cũng lo sợ, dớn dác nhìn trước ngó sau, tự nhiên túm tụm lại mà đi, càng mệt lại càng như muốn chạy. Tôi bếcu Bi, mỏi tay quá lại xoay ra cõng cháu, vừa mệt vừa đói vừa sợ, lếch thếch vừa đi vừa chạy, không biết sẽ ngã gục lúc nào. Cháu Bi nhìn thấy mẹ mệt quá, đòi tuột xuống, rồi lại hăng hái tiến bước. May sao, đến hơn 6 giờ chiều, trời gần tối hẳn, thì trở lại được ngã ba Nam Phát. Hai công an dắt xe ra đạp về nhà, dặn chúng tôi ởđó đón xe đò ra Thanh Hóa.
Đám người ngồi bệt xuống bên đường. Lâu lắm mới có một xe chất đầy người chạy qua, nhưng đều chạy thẳng, không ngừng. Đã hơn chín giờđêm. Dáng cô Út cao mảnh rắn chắc đứng vẫy xe in lên nền trời đêm đầy sao như một pho tượng thần Vệ Nữ. Một xe lớn có hai bộđội chởđầy tre nứa, từ xa chiếu đèn pha sáng lòa trên dáng người con gái đảm đang ấy, từ từ dừng lại. Chúng tôi xúm lại hứa trảthật nhiều tiền, rồi bà bác cùng hai con tôi được lên ngồi ca bin, còn tôi với hai chị và cô Út đẩy kéo nhau leo lên ngồi nghiêng ngả trên tre nứa, tay bám, chân đạp chặt vô thành xe, qua năm tiếng đồng hồ trên con đường đất dằn xóc kinh hồn, nhiều lần tưởng đã văng xuống đất. Hai bộđội tử tế, không lấy tiền, chỉăn hai tô cháo lòng mà chúng tôi mời mãi.. Ra đến Thanh Hóa là hai giờ sáng. Các chịđi thăm chồng xuống tàu đêm thật đông, thăm hỏi tíu tít, trả lời không kịp. Khi ấy sao mà chịem chúng tôi thương nhau quásức.
Vé về Nam không có, phải mua vé ra Hà Nội rồi mới đi ngược trở về. Đêm hôm sau mới đến ga Hàng Cỏ, mấy bà con ra đường đang ngơ ngác thìcác chịđằng xa đã đôn đáo vẫy chào, kéo chúng tôi tới chỗ… lềđường, đầy những chiếu với tấm ni lông, nơi tạm trú mà các bà “vợ tù cải tạo” gọi là… Hotel California.
Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là “các ông cải tạo” nhưngười miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt với những người tù hình sự. Cho nên danh từ thường đi theo với ý nghĩa nào mà người ta hiểu với nhau, không còn giữđược nguyên cái nghĩa mà nó được đặt cho vì mục đích chính trịsâu xa.
Ngủ lềđường nhưng chẳng ai thấy khổ, vì gần nhau thấy ấm hẳn tình người đồng cảnh. Các chị em thì thầm trò chuyện suốt đêm, kẻ thì khóc rấm rứt, người lại cười khúc khích. Tôi vừa ôm con ngủ gật vừa quạt muỗi cho hai cháu, hình ảnh chồng tôi quay cuồng mãi trong đầu, khi anh nói, khi anh cười, lúc anh đầy nước mắt… Sau những nguồn cơn cực nhọc và xúc động mạnh này, về nhà tôi bị thương hàn nhập lý, rụng hết mái tóc dài, gần trọc cảđầu, tôi đã trối trăn cho bà chịnuôi dạy hai cháu, tưởng không còn được thấy mặt chồng tôi lần nữa…
…Chín năm sau, đúng ngày giỗđầu Ba tôi, anh đột ngột bước vô nhà. Tôi suýt té xỉu vì vui mừng, cứôm chặt anh mà.. khóc ngất. Anh cười sang sảng:
– Cái chị này chỉđược cái khóc là giỏi thôi, phải động viên cho chồng đi sang Mỹđi chứ… Hà hà..
Các chị em tôi từĐà Lạt tất bật xuống thăm. Vừa xong ngày đám giỗthì cảnhà đã vui nhưhội. Tất nhiên tôi là người mừng vui nhất….
Hạnh phúc đã trở vềtrong vòng tay tôi. Tôi sẽôm thật chặt lấy nguồn hạnh phúc này, không bao giờđể cho đi đâu xa mất nữa…
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
>
__._,_.___