---------- Forwarded message ---------
From: 'Minh Hoang' via Võ Bị Quốc Gia Việt Nam <
Date:
From: 'Minh Hoang' via Võ Bị Quốc Gia Việt Nam <
Date:
Nhân đọc bức tâm thư của bà quả phụ tr/tá Lê Văn Ngôn, mình tìm hiểu thêm về tiền đồn Tống Lê Chân - đối với QK III, không những quá xa xôi, mà còn lạ lẫm nữa ! Mời đọc...
Tiền đồn quá xa – Tống Lê Chân/Tiểu Ðoàn 92 BÐQ
Trần Ðỗ Cẩm
August 14, 2018
Trong lịch sử chiến tranh cận đại, có nhiều trận đánh lớn quân số đôi bên lên tới nhiều sư đoàn, hoặc với tầm mức quan trọng “dứt điểm” như trận Normandie, Stalingrad, Okinawa, Iwo Jima, v.v… Trong cuộc chiến tranh vừa qua tại Việt Nam, chúng ta cũng thường nghe nói tới những trận đụng độ ác liệt như trận Hạ Lào, An Lộc, Quảng Trị, Pleiku, v.v… So với những cuộc hành quân nổi tiếng kể trên, trận đánh tại Tống Lê Chân giữa một tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân (BÐQ) Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và quân Cộng Sản không những chỉ nhỏ bé về tầm vóc mà còn cả về mức độ quan trọng.
Trại Tống Lê Chân chẳng qua chỉ là một tiền đồn hẻo lánh gần biên giới Việt-Miên thuộc Vùng 3 Chiến Thuật, có nhiệm vụ phát hiện sự xâm nhập của địch quân vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Tuy chỉ là một trận đánh nhỏ lại không mấy quan trọng, nhưng nếu kể về tinh thần chiến đấu can trường và sức chịu đựng phi thường của người lính chiến trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng, các chiến sĩ Tiểu Ðoàn 92 BÐQ đã vượt trội và tạo nhiều thành tích có một không hai khiến trận đánh Tống Lê Chân trở thành có tầm vóc lịch sử, khác biệt và đáng chú ý hơn nhiều trận đánh lớn khác.
Nhân dịp kỷ niệm ngày Quân Lực VNCH 19 Tháng Sáu, chúng tôi tường thuật lại trận đánh oai hùng của Tiểu Ðoàn 92 BÐQ tại Tống Lê Chân qua những tài liệu thâu thập được để tôn vinh các chiến sĩ Cọp Rừng Mũ Nâu. Ðây cũng là dịp tri ân toàn thể Quân Lực VNCH đã đổ nhiều xương máu bảo vệ quê hương. Tác giả cũng hy vọng sẽ được tiếp xúc với các chiến sĩ đã có mặt hoặc liên quan đến trận Tống Lê Chân để có dịp sửa đổi và bổ túc thêm chi tiết giúp bài viết thêm chính xác.
Bối cảnh lịch sử
Trận đánh tại tiền đồn Tống Lê Chân trở nên sôi động vào một thời điểm hết sức đặc biệt, đó là lúc hiệp định ngưng bắn Paris vừa được ký kết vào đầu năm 1973, trên nguyên tắc chấm dứt cuộc chiến tranh giữa hai phe Quốc-Cộng tại Việt Nam. Nhưng đó chỉ là lý thuyết. Trên thực tế, đây lại là trái hỏa mù để quân đội Hoa Kỳ nương theo đó mà giải kết “rút quân trong danh dự,” nếu nói theo kiểu cặp bài trùng Kissinger và Nixon, và để Bắc Việt mặc sức tung hoành xua quân đánh chiếm Miền Nam.
Hoa Kỳ thỏa thuận rút quân trong vòng 60 ngày, trong khi bộ đội Bắc Việt được tự do ở lại và thao túng tại miền Nam vô thời hạn. Như vậy, người bạn đồng minh đã mở ngỏ cửa và bật đèn xanh, giúp Cộng quân thành công trong việc thôn tính miền Nam. Trong khi đó Quân Lực VNCH coi như bị bỏ rơi, bị bó tay nên lâm vào tình trạng kiệt quệ, một mình lại phải đương đầu không những với bộ đội Bắc Việt mà hầu như toàn khối Cộng Sản đang viện trợ những vũ khí tối tân cho quân xâm lăng.
Cộng Sản Bắc Việt đã vi phạm hiệp định ngưng bắn ngay khi vừa ký kết xong còn chưa ráo mực, có thể nói với sự gián tiếp đồng ý của người bạn Hoa Kỳ. Trong cuộc họp báo ngày 24 Tháng Giêng, năm 1973, chính Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger, người đã cùng tên đồ tể Lê Ðức Thọ của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) ký “hòa ước” bức tử Miền Nam, đã không một chút ngượng ngùng khi tuyên bố: “Thỏa ước ngưng bắn không có điều khoản nào cho phép quân đội Bắc Việt có mặt tại miền Nam. Bắc Việt cũng không đòi hỏi, nhưng chúng tôi ước lượng hiện có chừng 145,000 quân Bắc Việt đang tham chiến tại miền Nam Việt Nam.”
Rõ ràng, Hoa Kỳ đã nhập nhằng ký kết hiệp ước bán đứng Việt Nam Cộng Hòa với mục đích duy nhất đóng của rút cầu, bỏ rơi Miền Nam khi không buộc Cộng Sản Bắc Việt cũng phải rút quân về Bắc. Thực sự, lúc đó Bắc quân đã có đến 13 sư đoàn quân chính qui tại miền Nam với quân số tổng cộng gần 200,000 người. Ngoài ra, chúng còn có các đại đơn vị pháo binh diện địa và chiến xa yểm trợ cùng các kho quân lương, vũ khí tại Lào và Cam Bốt được coi là an toàn khu. Tại khu vực đường mòn Hồ Chí Minh bên Lào, các xe vận tải của Cộng quân công khai ồ ạt chở súng ống, đạn được và binh sĩ vào xâm lăng miền Nam vì không còn bị oanh tạc như trước.
Vì vậy, tình hình sau khi ngưng bắn hoàn toàn bất lợi cho Quân Lực VNCH. Các đại đơn vị không thể nào dành được thế chủ động để lùng và diệt địch trên chiến trường vì phải trải quân quá mỏng để trám vào những chỗ trống do quân đội Hoa Kỳ bỏ lại. Trong lúc đó, Cộng quân được tự do bổ sung quân số, tích lũy tiếp vận để tạo áp lực quân sự trên khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.
Tương quan lực lượng
Riêng tại Vùng 3 Chiến Thuật, ba sư đoàn Cộng quân gồm các công trường 5, 7 và 9 lợi dụng an toàn khu tại vùng Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt bên Cam Bốt thường vượt biên đánh phá dọc Quốc Lộ 13 từ Lộc Ninh đến Bến Cát nằm về phía Bắc thủ đô Saigon. Khi mạnh, họ tung lực lượng quấy phá. Lúc yếu, lại rút qua biên giới dưỡng quân để chờ cơ hội thuận tiện. Phía Việt Nam Cộng Hòa chỉ cố gắng phòng thủ trong tư thế thụ động vì không đủ lực lượng mở các cuộc hành quân vượt biên truy kích như trước kia vào năm 1970 khi quân đội Hoa Kỳ còn tham chiến. Ðể đối đầu với 3 sư đoàn Cộng quân, Quân Lực VNCH trong vùng này chỉ có Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đặt bản doanh tại Lai Khê do Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ làm Tư Lệnh.
Sau nhiều cuộc tấn công thăm dò, vào đầu Tháng Tư, năm 1973, Công Trường 7 Cộng quân tấn công và tràn ngập căn cứ Chí Linh trên Liên Tỉnh Lộ 13 gần quận lỵ Ðôn Luân vào ngày 10 tháng 4. Ðể mở rộng đường xâm nhập từ ngả Cam Bốt, Cộng quân cũng uy hiếp các trại Biệt Ðộng Quân Biên Phòng dọc theo biên giới như Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Katum, Bù Gia Mập, Tống Lê Chân, v.v…
Trước áp lực quá mạnh của địch quân, Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân ở Quân Khu 3 phải lần lượt di tản hầu hết các vị trí chiến lược rất quan trọng dọc theo biên giới ngoại trừ trại Tống Lê Chân. Lý do vì toàn thể Tiểu Ðoàn 92 BÐQ đồn trú tại trại này đều tình nguyện ở lại chiến đấu. Trận đánh dài nhất trong quân sử khởi đầu và trang sử oai hùng nhất của Binh Chủng cũng được Tiểu Ðoàn 92 BÐQ viết từ giờ phút đó.
Tống Lê Chân, địa danh xa lạ cuộc chiến tranh dai dẳng tại Việt Nam ngoài mức độ khốc liệt, còn tạo ra những địa danh xa lạ. Nếu không có trận Tân Cảnh, Kon Tum, làm gì có những tên Charlie, Delta? Nếu không có trận Hạ Lào chắc cũng chẳng có LoLo, Sophia, Biệt Ðộng Quân Bắc, Biệt Ðộng Quân Nam, v.v…
Tống Lê Chân cũng là một tên rất lạ. Dân địa phương người Miên gọi vùng này là Tonlé Tchombe. Tonlé tiếng Miên có nghĩa là sông, hồ, suối hoặc nơi nào có nước. Thí dụ như Biển Hồ có tên Miên là Tonlé Sap. Khi mới thành lập, trại này chưa có tên nên Thiếu Tá Ðặng Hưng Long, vị chỉ huy trưởng đầu tiên phiên âm tiếng Miên Tonlé Tchombe thành tiếng Việt Tống Lê Chân. Sau này, phần đông các quân nhân trong binh chủng Biệt Ðộng Quân biên phòng gọi tắt là Tống “Lệ” Chân để ám chỉ một căn cứ đầy máu và nước mắt, không có một ngày yên vui kể từ khi ra đời.
Tiền đồn Tống Lê Chân nguyên thủy là một trại Dân Sự Chiến Ðấu (DSC – Civilian Irregular Defense Group, gọi tắt là CIDG) do Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ thành lập từ năm 1967 để phát hiện và ngăn chận sự xâm nhập của Cộng quân từ bên kia biên giới. Ðến năm 1970 trong chương trình cải biến Lực Lượng Dân Sự Chiến Ðấu thành Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, phần đông những binh sĩ của trại Tống Lê Chân thuộc sắc dân người thượng Stieng đều tình nguyện ở lại để trở thành Tiểu Ðoàn 92 BÐQ Biên Phòng, tổng cộng gồm 292 binh sĩ lúc khởi đầu, chưa kể một số sĩ quan Quân Lực VNCH giữ các chức vụ chỉ huy.
Biệt Ðộng Quân Biên Phòng
*Lực lượng dân sự chiến đấu
Vì Tiểu Ðoàn 92 BÐQ thoát thai từ Lực Lượng Dân Sự Chiến Ðấu, tưởng cũng nên biết qua về tổ chức đặc biệt ít người biết tới này.
Chương trình Dân Sự Chiến Ðấu được đặt dưới sự quản trị trực tiếp của Toán 5 Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ (5th Special Forces Group) đặt bản doanh tại Nha Trang. Mục tiêu của chương trình là dùng các sắc tộc thiểu số (người Thượng) để thành lập các “trung tâm” (làng, buôn) chiến lược có võ trang tại các vùng rừng núi khiến Việt Cộng không thể xâm nhập và lợi dụng. Việc tổ chức, quản trị và huấn luyện những trung tâm hay “trại” này đều do Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ đảm nhận. Thí điểm đầu tiên được thành lập tại Buôn Enao thuộc tỉnh Ðắc Lắc vào năm 1961. Tới năm 1965 đã có khoảng 80 trung tâm được thành lập tại những vùng rừng núi hẻo lánh khó kiểm soát. Mỗi trung tâm là một “pháo đài” có thể tự phòng thủ và có khả năng ngăn chận mọi xâm nhập từ bên ngoài.
Ðến năm 1965, cùng với việc Hoa Kỳ đưa quân ồ ạt vào Việt Nam, chương trình Dân Sự Chiến Ðấu cũng được bành trướng mạnh. Các trung tâm phòng thủ được cải tiến thành những trại lực lượng đặc biệt, trang bị vũ khí tối tân với nhiệm vụ không những chỉ để tự vệ mà còn có khả năng tấn công. Từ đó, các toán viễn thám dò tìm địch quân mang biệt danh Delta, Omega và Sigma ra đời. Nhiệm vụ chính của những toán này là xâm nhập sâu vào đất địch để phát hiện địch và thu thập tin tức tình báo.
Tới khoảng cuối năm 1967, toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa tổng cộng có khoảng gần 100 trại Lực Lượng Ðặc Biệt, đa số nằm dọc theo biên giới Lào-Việt và Miên-Việt. Vì địa thế chiến lược rất quan trọng của những trại biên phòng này, Cộng quân luôn luôn dùng đủ mọi cách để tiêu diệt. Nhiều trận đánh dữ dội đã xảy ra tại các trại như: Lang Vei, Thường Ðức, và Khâm Ðức tại Vùng 1 Chiến Thuật, hoặc Ðức Cơ, Plei Me, Plei Djereng, Plateau Gi, Ðồng Xoài tại Vùng 2, Bến Sỏi, Tống Lê Chân, Trảng Sụp, Chí Linh ở Vùng 3 và Cái Cái, Thường Thới, Tịnh Biên tại Vùng 4.
Cho tới năm 1970, Hoa Kỳ chuẩn bị rút quân, khởi đầu giai đoạn Việt Nam hóa chiến tranh nên các trại Lực Lượng Ðặc Biệt cũng lần lượt được chuyển giao cho Quân Lực VNCH. Lực Lượng Dân Sự Chiến Ðấu theo kế hoạch được sát nhập vào binh chủng Biệt Ðộng Quân để trở thành những đơn vị Biệt Ðộng Quân Biên Phòng. Vì mỗi trại Lực Lượng Ðặc Biệt thường có vào khoảng từ 300 đến 400 người nên được biến cải thành một tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân Biên Phòng. Trong khoảng thời gian từ ngày 27 Tháng Tám, năm 1970 cho đến 15 Tháng Giêng, năm 1971, tổng cộng có tất cả 49 trại Lực Lượng Ðặc Biệt được biến cải thành các Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân Biên Phòng. Nếu tính theo từng Vùng Chiến Thuật, con số này được phân chia như sau: Vùng 1 có 11 trại, Vùng 2 có 15 trại, Vùng 3 có 12 trại, và Vùng 4 có 11 trại.
Tuy trước đây có chừng 100 trại Lực Lượng Ðặc Biệt, nhưng chỉ chuyển giao có 49 trại vì có một số trại bị đóng cửa, quân số được bổ sung cho những đơn vị còn lại. Sau khi được chuyển giao, những dân sự chiến đấu trong các trại Lực Lượng Ðặc Biệt không còn là dân sự do Hoa Kỳ tuyển mộ, mà chính thức trở thành quân nhân trong Quân Lực VNCH.
Trại Tống Lê Chân thuộc Vùng 3 Chiến Thuật được thành lập vào đầu năm 1967 cùng với trại Prek Klok tại vùng Chiến Khu C của Việt Cộng. Vì chận ngay yết hầu nên ngay từ khi thành lập, các trại này đã bị địch quân đe dọa thường xuyên. Trong hệ thống Lực Lượng Ðặc Biệt, trại Tống Lê Chân mang ám danh A-334 và được biến cải thành trại Biệt Ðộng Quân Biên Phòng vào ngày 30 tháng 11 năm 1970. Toàn thể quân số trong trại lúc đó có 318 người (gồm 292 người nguyên thuộc Dân Sự Chiến Ðấu và các sĩ quan cùng hạ sĩ quan Quân Lực VNCH mới được bổ nhiệm tới để chỉ huy) trở thành Tiểu Ðoàn 92 BÐQ Biên Phòng thuộc hệ thống chỉ huy của Biệt Ðộng Quân/Quân Lực VNCH.
Tiền đồn cô đơn
Trại Tống Lê Chân trấn giữ một địa điểm quan yếu, chận ngay đường vào khu Tam Giác Sắt và án ngữ vùng Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu thuộc Cam Bốt. Ðây là những an toàn khu và cũng là đại bản doanh Cục R của Việt Cộng, giống như hai mũi dao nhọn chĩa vào cạnh sườn Quân Khu 3.
Trong các trận hành quân vượt biên của Quân Ðoàn 3 do Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí chỉ huy vào năm 1970, trại Tống Lê Chân đã đóng một vai trò quan trọng trong nhiệm vụ phát hiện và diệt địch. Căn cứ được thiết lập trên một ngọn đồi cao chừng 50 thước, trông xuống hai con suối nhỏ dân địa phương gọi là Takon và Neron. Ðây là những lạch nước khởi nguồn của sông Saigon chảy qua Dầu Tiếng, Bến Súc, Phú Cường v.v… Tống Lê Chân, như trên đã nói là một trong chuỗi trại Dân Sự Chiến Ðấu do Lực Lượng Ðặc Biệt thiết lập dọc theo biên giới Việt-Miên thuộc lãnh thổ Quân Khu 3.
Về vị trí, trại Tống Lê Chân nằm trong vùng ranh giới của hai tỉnh Tây Ninh và Bình Long, cách An Lộc chừng 15 cây số về hướng Tây Nam và mũi nhọn của chiếc Mỏ Vẹt chứng 13 cây số về hướng Ðông Nam. Dưới chân căn cứ là con đường 246 nối liền Chiến Khu C và Chiến Khu D của Việt Cộng. Ðây cũng là trục giao liên Nam-Bắc huyết mạch nối liền bản doanh của Cục R Việt Cộng bên Cam Bốt và vùng Dầu Tiếng với Khu Tam Giác Sắt của Cộng quân.
Với vị trí chiến lược vô cùng quan trọng có thể kiểm soát được các trục giao liên Nam-Bắc và Ðông-Tây của Cộng quân tại vùng biên giới, lại trấn giữ sườn Tây cho thị trấn An Lộc, Tống Lê Chân như chiếc gai nhọn cần phải nhổ bằng mọi giá trên sa bàn trận liệt của địch.
Vào mùa Hè năm 1972, cùng với các trận cường tập có pháo binh và chiến xa nặng của Cộng quân vào vùng Lộc Ninh, Chơn Thành và An Lộc, các căn cứ biên phòng lân cận Tống Lê Chân như Thiện Ngôn, Katum, Bù Gia Mập đã phải di tản. Tống Lê Chân chơ vơ còn lại như một hải đảo cô đơn giữa biển người Cộng quân trùng điệpTứ bề thọ địch
https://vulep-books-links.blogspot.com/2019/03/02-tien-on-qua-xa-tong-le-chantieu-oan.html