Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai , cựu Chỉ huy trưởng binh chủng Biệt Động Quân QLVNCH vừa qua đời lúc 5 giờ chiều Chủ Nhật ngày 21-2-2016 tại Galand, Dallas, Texas, hưởng thọ 87 tuổi
Thiếu tướng Đỗ Kế Giai: Không! Tôi dứt khoát là không. Vài năm trước đây và ngay bây giờ, có nhiều nhà xuất bản Mỹ và Việt đề nghị tôi viết hồi ký và họ sẽ giúp xuất bản. Tôi trả lời là đối với tôi điều nầy khó quá. Bởi nếu đã viết, thì phải nói hết, nói thật, mọi sự việc mà tôi nghe, tôi biết, tôi thấy. Như vậy e rằng sẽ làm mất lòng nhiều người. Hơn nữa, vấn đề nầy tôi xin bày tỏ quan niệm tôi qua hai câu của người xưa:
BẠI BINH CHI TƯỚNG, BẤT KHẢ NGÔN DŨNG
VONG QUỐC CHI ĐẠI PHU, BẤT KHẢ NGÔN TRÍ.
(Tướng bại trận không thể nói mạnh.
Quan mất nước, không thể nói hay)
BẠI BINH CHI TƯỚNG, BẤT KHẢ NGÔN DŨNG
VONG QUỐC CHI ĐẠI PHU, BẤT KHẢ NGÔN TRÍ.
(Tướng bại trận không thể nói mạnh.
Quan mất nước, không thể nói hay)
Xin gửi lại bài viết của ký giả Huy Phương đã đăng trên nhật báo Người Việt ngày 23-12-2015 : Vị Tướng già trong nhà dưỡng lão
Sơ lược Tiểu sử của cố Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai
Người tù cuối cùng được thả, sau 17 năm tù cải tạo! TT. Đỗ Kế Giai tuyên bố trong tù: “TÔI KHÔNG XIN KHOAN HỒNG VÌ TRONG TRẠI TÂN LẬP CÓ HÀNG TRĂM ĐÀN EM CỦA TÔI CHƯA THẢ THÌ HÀ CỚ GÌ TÔI ĐƯỢC VỀ TRƯỚC HỌ ! HÃY THẢ HỌ TRƯỚC ĐI CÒN TÔI LÀ NGƯỜI VỀ SAU CÙNG!”
Thiếu tướng Đỗ Kế Giai (1929-2016), nguyên là tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa,
Ông sinh vào tháng 6 năm 1929 tại Bến Tre, trong một gia đình điền chủ. Ông đã tốt nghiệp Trung học phổ thông chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (BAC.1).
Tháng 6 năm 1951, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 49/118.249. Theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (sau cải danh thành trường Võ bị Quốc gia. Khai giảng ngày 1/7/1951, mãn khóa ngày 24/4/1952). Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được chọn phục vụ trong Tiểu đoàn 3 Nhảy dù của Quân đội Quốc gia Việt Nam, đồn trú tại Hà Nội.
Tháng 7 năm 1954, sau Hiệp định Genėve, ông được thăng cấp Trung úy và cùng đơn vị di chuyển vào Nam đồn trú tại Nha Trang.
Năm 1955, sau khi chuyển sang cơ cấu mới của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng cấp Đại úy và được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Nhảy dù thay thế Đại úy Nguyễn Văn Viên.
Tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Thiếu tá nhiệm chức.
Trung tuần tháng 11 năm 1960, ông chuyển sang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù thay thế Thiếu tá Ngô Xuân Soạn (bị sát hại vào nửa đêm ngày 11/11/1960 tại hậu cứ Tiểu đoàn 3 Dù vì không chịu tham gia cuộc đảo chính do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu).
Tháng giêng năm 1962, ông được cử làm Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 2 Nhảy dù vừa được thành lập.
Đến đầu năm 1965, ông được thăng cấp Trung tá và bàn giao Chiến đoàn 2 Dù lại cho Thiếu tá Ngô Xuân Nghị (là em ruột của Th.tá Ngô Xuân Soạn).
Sau đó, ông được chuyển sang làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 25 bộ binh do Đại tá Nguyễn Thanh Sằng làm Tư lệnh.
Tháng 9 năm 1966, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 10 bộ binh thay thế Thiếu tướng Lữ Lan đi làm Chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự tại Đà Lạt.(Đầu năm 1967, ông sáng kiến đề nghị cải danh Sư đoàn 10 Bộ binh thành Sư đoàn 18 Bộ binh và được Bộ Tổng tham mưu chấp thuận)
Đầu tháng 11 năm 1967, ông được vinh thăng hàm Chuẩn tướng tại nhiệm. Ngày 20 tháng 8 năm 1969, ông nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 18 lại cho Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ (nguyên Chỉ huy trưởng trường Bộ binh Thủ Đức). Sau đó, ông được điều động về phục vụ tại Bộ Tổng tham mưu.
Tháng 8 năm 1972, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Binh chủng Biệt động quân . Tháng 4 năm 1974, ông được vinh thăng Thiếu tướng nhiệm chức.
Sau ngày 30 tháng 4, ông bị nhà cầm quyền cộng sản bắt đi tù cải tạo và bị lưu đày suốt 17 năm, mãi cho đến ngày 5 tháng 5 năm 1992 ông mới được trả tự do.
Tháng 10 năm 1993, ông được xuất cảnh sang Hoa Kỳ theo diện H.O, định cư tại Garland, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
Hôm qua, ngày 21 tháng 2 năm 2016, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 87 tuổi.
(HNPD)
Vị tướng già trong nhà dưỡng lão
Wednesday, December 23, 2015 3:19:30 PM
Wednesday, December 23, 2015 3:19:30 PM
Print Email
Huy Phương/Người Việt
“Anh hùng mưu sự chẳng nên
Cúi xuống thẹn Ðất, ngước lên thẹn Trời!”
(Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai)
DALLAS - Một người bình thường lúc về già sống cô đơn trong nhà dưỡng lão đã là một chuyện buồn, một vị tướng lãnh đã từng bao năm trận mạc, hôm nay sống trong một nhà dưỡng lão quạnh hiu đã gây không ít cho chúng tôi những cảm xúc bùi ngùi đau xót khi đến thăm ông.
Cùng với anh Thái Hóa Lộc, chủ nhiệm tuần báo Người Việt-Dallas, chúng tôi đến thăm Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai vào một chiều Chủ Nhật mùa Ðông tại “Pleasant Valley Healthcare and Rehabilication Center, 1525 Pleasant Valley Rd., Garland, TX 75040.” Khi chúng tôi bước vào phòng, thấy ông đang ngồi trên chiếc xe lăn, ông cho biết đang thay y phục, nên chúng tôi tạm lui ra chờ. Khi trở lại, ông đã tươm tất hơn trong bộ đồ mới.
Ký giả Huy Phương và Thiếu Tướng Giai trong nhà dưỡng lão ở Dallas Ft Worth tháng 12, 2015. (Hình: Thái Hóa Lộc) |
Nhận ra anh Lộc là người quen, thường thăm viếng ông, ông vui vẻ chuyện trò và nhờ chúng tôi đẩy ông ra ngoài phòng khách ngay lối ra vào, nơi mà các y tá có thể quan sát. Ở đây đã có nhiều ông bà già hiện diện, tất cả đều ngồi xe lăn. Ðây là một thói quen của ông, mỗi chiều, hoặc là ngồi đây vui hơn, hoặc là ông đang chờ ai đó, có thể vào thăm ông. Vào chiều Chủ Nhật, nhưng tôi không thấy có một thân nhân nào đến thăm những bệnh nhân ở đây, ngoài chúng tôi đang ngồi với Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai.
Ông chuyện trò rời rạc, khi đáp những của thăm hỏi của tôi, là người khách lần đầu đến thăm ông.
Lúc còn khỏe và tỉnh táo, trí nhớ tốt, mỗi tuần ba ngày, ông đến sinh hoạt tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cao Niên tại thành phố Garland.
Bà Ðỗ Kế Giai qua đời vào tháng 11, 2012 sau khi ông vào bệnh viện được ba tháng. Từ bệnh viện, ông được chuyển thẳng về trung tâm này.
Ông bà có tất cả bảy người con, một gái và sáu trai. Bốn người đều ở các tiểu bang xa, chỉ còn lại ba người con trai ở gần ông. Hiện nay, ông còn có thể tự ăn uống và lo chuyện vệ sinh cho mình. Ông đã ở đây hơn ba năm, và tỏ bày: “Ở đây buồn quá!”
Những vị cao niên nằm trong viện dưỡng lão như hoàn cảnh của ông, còn nhớ chuyện này chuyện nọ, còn biết buồn, biết vui, có lẽ cảm thấy khổ hơn là những người đã mất trí nhớ hoàn toàn.
Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai sinh năm 1929 tại Bến Tre, trong một gia đình điền chủ, ông theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên Quân Ðà Lạt, ra trường vào tháng 4, 1952, và đơn vị đầu tiên của ông là Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù, đóng tại Bắc Việt.
Lần lượt ông đã giữ các chức vụ tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù, tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù, chiến đoàn trưởng Chiến Ðoàn 2 Nhảy Dù (1962), tham mưu trưởng Sư Ðoàn 25 BB, tư lệnh Sư Ðoàn 10 BB (tiền thân của SÐ 18BB-1966). Năm 1967 ông mang cấp bậc chuẩn tướng. Năm 1972, ông là chỉ huy trưởng binh chủng Biệt Ðộng Quân và được vinh thăng thiếu tướng vào tháng 4, 1974.
Hình Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai 42 năm về trước. (Hình: Gia đình cung cấp) |
Ngày 28 tháng 4, 1975, Tướng Times bên Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ ngỏ lời sẵn sàng giúp đưa cả gia đình ông đi Mỹ, nhưng ông quyết định ở lại vì trách nhiệm của một tướng lãnh. Ngày 15 tháng 5, 1975, Cộng Sản đến nhà mời ông đi họp và đưa thẳng vào khám Chí Hòa, sau đó đưa ông cùng với các vị tướng lãnh khác ra Bắc Việt.
Ðến ngày 5 tháng 5 năm 1992, sau 17 năm ông mới được trả tự do, là một trong 4 vị cấp tướng cuối cùng ra trại với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo và Chuẩn Tướng Thiếu Tướng Lê Văn Thân.
Ông và gia đình được xếp vào danh sách H.40 nhưng cuối cùng được đôn lên H.07, đến Mỹ vào tháng 11 năm 1994 và định cư tại thành phố Garland, Texas.
Theo lời kể của anh Thái Hóa Lộc, không phải là thân thích của ông, người vẫn thường ghé thăm ông, cho biết ông thích ăn các thức ăn Pháp và thích nhâm nhi chút rượu, nếu có thể. Lúc còn khỏe, ông cũng sẵn sàng nói chuyện xảy ra trong thời loạn lạc, một số chi tiết về Ðại Tướng Cao Văn Viên liên quan đến vụ đảo chánh 1963, cái chết của Thiếu Tá Nhung và một số chi tiết nhưng ông yêu cầu không nên đưa lên báo chí.
Bây giờ có chuyện nhớ chuyện quên nhưng ông cho biết vào mùa Ðông thân thể thường đau nhức, “chỉ có Wishky mới trị nổi thôi,” điều mà bác sĩ hoàn toàn cấm, nhưng đôi khi các cô y tá cũng thông cảm cho ông, khi biết ông xưa kia là một tướng lãnh.
Ông tâm sự với chúng tôi, là ông đã nghĩ đến ngày ra đi và không sợ chết. Ngày ông mất, xin nhờ bên anh em thuộc binh chủng Nhảy Dù lo chuyện hậu sự cho ông tươm tất là ông cảm thấy mãn nguyện rồi.
Ông đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ dài ông đã làm trong nhà tù Bắc Việt sau 9 năm bị giam cầm (khoảng năm 1984.) Bài thơ dài 65 câu, lời thơ đầy bi phẫn, xót xa của một tướng lãnh thất trận và là của một người tù không bản án, vô vọng không có ngày về.
Chỉ trong vòng mười lăm phút, ông đã đọc đi đọc lại cho chúng tôi nghe bài thơ này ba lần, điều này chứng tỏ ông đã đi vào thời kỳ lú lẫn. Anh Thái Hóa Lộc cho tôi biết, ông thường vào thăm ông, mang thức ăn cho ông, và lần nào, anh Lộc cũng nghe ông đọc bài thơ này. Ông cho biết trong nhà tù ông đã làm bài thơ và ghi nhớ trong đầu, đọc đi đọc lại nên thuộc nằm lòng, mà không dám viết ra giấy.
Trong khi Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai đọc đi đọc lại bài thơ viết trong nhà tù Việt Bắc, chúng tôi đã ghi âm lại và chép ra để các chiến hữu và độc giả hiểu được phần nào tâm sự của ông, một vị tướng già, thất trận đang sống những ngày cuối cùng xa quê hương, lẻ loi trong một nhà dưỡng lão xa lạ. Vì khuôn khổ của trang báo, chúng tôi chỉ xin trích một đoạn trong bài thơ của ông, bài thơ chưa đặt tên:
...“Ý thức hệ miền Nam kiếp nạn
Chín năm (1984) cố quốc dạ nào quên.
Không xoay thế cuộc, anh hùng lụy
Hào kiệt ngục trung, nợ nước đền.
Anh hùng mưu sự chẳng nên
Cúi xuống thẹn Ðất, ngước lên thẹn Trời.
Mài gươm rồi để hận đời
Chôn vùi thế hệ lụy người tù chung.
Oán thế nhân, xin đừng trách nữa
Lỗi lầm này hãy sửa sai chung.
Ðem xương máu học bài đắt giá
Chi đem thành bại luận anh hùng.
(Ðỗ Kế Giai-1984)
__._,_.___