----- Forwarded Message -----
From: Nhuan Xuan Le >
Sent: Sunday, April 28, 2019, 3:18:32 AM EDT
Subject: [ChinhNghia] (hồi kí) NGUYÊN-NHÂN SỰ SỤP ĐỔ CỦA VNCH của LÊ XUÂN NHUẬN
TÓM-LƯỢC SỬ-LIỆU
BỨC-TỬVIỆT-NAM CỘNG-HÒA
... Trong lúc đó, ngay tại Thủ-Đô, trong cơn dầu sôi lửa bỏng, những tay điệp-viên chiến-lược của Cộng-Sản, từ lâu vẫn nấp dưới lớp áo tu-hành, như các Linh-MụcThanh Lãng, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trần Du, Nguyễn Quang Lãm, Trần Ngọc Nhuận, v.v… (cùng với Linh-Mụ c Trần Hữu Thanh trong “Phong Trào Chống Tham-Nhũng”), cũng sách-động quần-chúng xuống đường hằng ngàyđể gây thêm rối-loạn, hoang-mang trong quần-chúng, và tạo sức ép đối với Tổng-Thống Nguyễn VănThiệu, làm nản thêm lòng người Mỹ, và tạo thêm lợi-thế về mặt chính-trị cho Bắc-Việt xâm-lăng.
(trang 436)
Phong-Trào Chống Tham-Nhũng
Nói đến “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, tưởng cần nhắc lại một số hoạt-động nổi bật của giới Kitô-Giáotrong và ngoàiViệt-Nam Cộng-Hòa.
Trong thời-gian diễn ra Hội-Nghị Paris (từ 1968 đến 1973), Giáo-Hoàng Phaolô VIđã nhiều lần“nhân đạo” kêu gọi chấm dứt chiến-tranh Việt-Nam.
Tháng 12-1969, Giám-MụcPhạm Ngọc Chi, Phó Chủ-Tịch Hội-Đồng Giám-MụcViệt-Nam, qua Hoa-Kỳ, đã tuyên-bố với báo-chí Mỹ: “Miền Nam [Việt-Nam] đồng-tình với chính-sách ‘Việt-Nam-Hóa Chiến-Tranh’ của Tổng-Thống Nixon..”
Tháng 9-1972, Đại-Hội lần 2 của tổ-chức “Kitô-Hữu Quốc-Tế” gồm hơn 20 nước họp tại Quebec (Canada), với đề-tài giải-phóng các dân-tộc Việt―Lào―Campuchia, đã “tố-cáo các cuộc xâm-lăng và ném bom vô-nhân-đạo của Mỹ; khẳng-định quyền tự-quyết, tự-do được sống hòa-bình của nhân-dân Việt-Nam.”
Tức là việc Mỹ chuẩn-bị rút luiđã được Kitô-Giáo Việt-Nam, giáo-dân mấy chục nước khác, và nhất là Giáo-HoàngPhaolô VItán-đồng, không còn đánh nhau với Cộng-Sản nữa.
Ngày 20-9-1970, Linh-MụcPhan Khắc Từ, Tuyên-Úy Thanh Lao Công Sài-Gòn, qua Châu Âu, đã tuyên-bố tại Thành-Phố Firenze (Ý, nơi có Tòa Thánh Vatican): “Kinh-nghiệm trước mắt cho chúng tôi xác tín rằng Giáo-Hội [Kitô] tại Việt-Nam hôm nay là một công-cụ hữu-hiệu của người Mỹ.”
Tháng 3-1971, Linh-MụcNguyễn Viết Khai tuyên-bố: “Từ chính-quyền trung-ương xuống cho tận anh Trưởng Ấp, người Miền Nam không được phép giải-quyết vấn-đề của mình mà không có người nước ngoài xen vào.”
Tháng 11-1971, Linh-MụcTrương Bá Cần, Tuyên-Úy Thanh Lao Công toàn-quốc, tham-gia vụ đình-công tại Hãng Pin “Con Ó”, bị Cảnh-Sát bắt, đã viết: “Giáo Hội của tôi không biết chọn, nhất là chọn để chống lại những kẻ đang nắm quyền-hành trong xã-hội này... Giáo Hội của tôi cũng đã biết lựa chọn, nhưng không biết lựa chọn người nghèo khổ...”
Tức là giới Kitô-GiáoViệt-Namđồng-ý với các lời cáo-buộc và chiêu-bài của đối-phương.
Nhưng, sau Hiệp-Định Paris 27-1-1973 [chấm dứt chiến-tranh Việt-Nam], thì Bắc-Việt gia-tăng nỗ-lực và quyết-tâm tiến-chiếm Miền Nam.
Ngày 19-9-1973, Tổng-Giám-Mục Sài-Gòn Nguyễn Văn Bìnhđọc diễn-văn khai-mạc “Năm Thánh”: “Chúng tôi hy vọng rằng những cuộc giết chóc và hận thù sẽ thực-sự chấm dứt trên mảnh đất này và đồng thời có được quan hệ hai chiều giữa Bắc và Nam, trong lúc đất nước tạm thời còn phân chia.”
Ngày 10-1-1974, sau cuộc Hội-Nghị toàn-thể hàng giáo-phẩm, các Giám-Mục Miền Namđã công-bố một bản tuyên-ngôn “tha thiết kêu gọi hai chính phủ Bắc và Nam cùng đồng loạt, vì tình thương dân tộc, mà ngưng mọi hoạt động gây chiến và mọi chiến dịch bôi nhọ và thù ghét lẫn nhau.”
Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Nam [Cộng-Hòa] không đề-cập đến việc Bắc-Việt vi-phạm Hiệp-Ước Paris, xâm-lăng Miền Nam, mà chỉ muốn Miền Nam bắt tay làm hòa với Miền Bắc―đối-nghịch lập-trường “4 Không” của Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Giáo-Hội Kitô-Giáo Việt-Namở Sài-Gòn ra “Thư Chung” phát-động cuộc tranh-đấu “chống tham nhũng”, chống Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu. Họ đòi Thiệu phải từ-chức, vận-động trưng-cầu dân-ý buộc Thiệu phải ra đi.
Lời kêu gọi đó đã dấy lên liền một “Phong-Trào” gọi là “Chống Tham-Nhũng”.
*
“Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” do Linh-MụcTrần Hữu Thanh cầm đầu, các LMĐinh Bình Định và Nguyễn Học Hiệu cùng Bác-SĩNguyễn Thị Thanh phụ-lực, qua một bản “Tuyên Ngôn” được sự bảo-trợ của 301 linh-mục khác, kể cả “Tuyên-Úy Công Giáo”, ra mắt tại Giáo-Xứ Tân Việt, Sài-Gòn, từ năm 1973, là một tập-hợp tương-đối lớn, có nhiều tín-đồ nhất, và tại nhiều địa-phương nhất―so với Nhóm các linh-mục cộng-sản nằm vùng và thân-Cộng tại Sài-Gòn.
“Phong-Trào” được sự tham-gia của các nhân-vật ngoài Kitô-Giáo, như Thượng-Nghị-Sĩ Hoàng Xuân Tửu và Dân-BiểuNguyễn Văn Kim cùng nhiều DB thuộc Đảng Đại-Việt của Hà Thúc Ký và phía Dương Văn Minh; DB Đặng Văn Tiếpphía Nguyễn Cao Kỳ; DB Nguyễn Văn Cử chống Diệm và phía Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng; DB Vũ Công Minh phía Hòa-Hảo; DB Đỗ Sinh Tứ phía quân-đội; Bác-SĩNguyễn Tuấn Anh; Luật-SưĐặng Thị Tâm; Nhân-SĩNguyễn Trân; v.v...
Linh-MụcThanhđược báo-chí ngoại-quốc tặng cho danh-hiệu “Hiệp Sĩ của Người Nghèo”.
Sau đó, “Phong-Trào” công-bố các bản “Cáo Trạng” trong các cuộc biểu-tình, xuống đường rầm-rộdữ-dội và liên-tục của các tín-đồ do các linh-mục lãnh-đạo có khi có hàng chục ngàn người tham-dự tại Huế, Đà-Nẵng, Quy-Nhơn, Nha-Trang, Cam-Ranh, Sài-Gòn, Mỹ-Tho, Cần-Thơ, v.v...
Cuối năm 1974, nhất là đầu năm 1975, những cuộc biểu-tình chống-chính-phủ của nhóm Linh-MụcTrần Hữu Thanh, có sự tham-gia của một số chính-khách, lãnh-tụ đảng-phái, cộng với việc Hội-Đồng Giám-Mục Việt-Nam phổ-biến “Thư Chung”, kêu-gọi các Nhà Thờ toàn-quốc“chống tham nhũng”, thúc-đẩy giáo-dân xuống đường rầm-rộ, liên-tục… đã khiến cho các binh-sĩ ngoài tiền-tuyến chán-nản, mất tinh-thần, và ảnh-hưởng tai-hại đến sự sống-còn của đất-nước.
Bên cạnh “Phong-Trào” của LMTrần Hữu Thanh, còn có các Nhóm linh-mục tay sai Cộng-Sản và thân-Cộng, là các LMTrương Bá Cần, Thanh Lãng, Huỳnh Công Minh, Vương Đình Bích, Hồ Thành Biên, Nguyễn Thành Trinh; Nhóm “Đối Diện” của 11 linh-mục phản-chiếnNguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Phan Khắc Từ, Nguyễn Hữu Khai, v.v... trong mấy tháng cuối-cùng của Việt-Nam Cộng-Hòa, đã lợi-dụng các buổi thuyết-giảng tại các Nhà Thờđể công-khai tuyên-truyền cho“người anh em bên kia”.
(Điển-hình là Linh-Mục Phan Khắc Từ, từ năm 1969đã đi dự đại-hội Thanh Lao Công Thế-Giới có xu-hướng thân-Cộngđược Mạc-Tư-Khoađỡ đầu, tại Liban. Ở Pháp thì đến hội-ý với Nguyễn Thị Bình, Trưởng Phái-Đoàn thương-thuyết của “Mặt Trận Giải Phóng”; tham-gia đình-công; biểu-tìnhđòi công-bằng cho giới lao-động; cùng sinh-viên và công-nhânđòi hòa-bình cho Việt-Nam. Sau này về nước thì dính vào Mặt Trận Nhân-Dân Tranh-Thủ Hòa-Bình, Phong Trào Học-Sinh Sinh-Viên Đòi Quyền Sống, Phong-Trào Chống Tăng Học-Phí, Chống Độc-Diễn; đóng vai “linh-mục hốt rác” gây sự chú ý của dư-luận; dùng Nhà-Thờ Vườn Xoài làm nơi chế-tạo bom xăng cho phong-trào đốt xe Mỹtrên đường phố; cùng công-nhân đình-công để gây trở-ngại cho các cuộc hành-quân; tiếp tay CS dựng lênỦy-Ban Bảo-Vệ Quyền-Lợi Lao-Động Miền Nam; rồi lại giả-danh từ-thiện hoạt-động trong tổ-chức trá-hình của CS là Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói...)
Chủ-Tịch Thượng-Nghị-ViệnTrần Văn Lắm lên án Tổng-Thống Thiệu“lạm quyền, tham nhũng”.
Một số lãnh-tụ đảng-phái và tôn-giáo, như Phan Bá Cầm (Hòa-Hảo), Trần Quang Vinh (Cao-Đài), Hà Thế Ruyệt (Duy-Dân), Thượng-TọaPháp-Tri (Phật-Giáo) và các Ông Ngô-Văn-Ký, Nguyễn Văn Lục, Xuân Tùng (Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng) thành-lập “Trận Tuyến Nhân Dân Cách Mạng”, kêu-gọi TT Nguyễn Văn Thiệu từ-chức và các phe liên-hệ “chấm dứt chiến-tranh, giải-quyết vấn-đề Miền Nam bằng phương-thức hòa-bình”.
Nhóm “Sóng Thần” thì tổ-chức “Ngày Ký-Giả đi Ăn Mày” rồi tiếp theo là “Ngày Công-Lý và Báo-Chí Thọ-Nạn” vào tháng 10-1974.
Các Tuyên-Úy Công-Giáothì tổ-chức Đại-Hội tại Thủ-Đô. Họ rao giảng với giáo-dân quân-nhân rằng “cộng-sản cũng là con-cái của Chúa”, rằng “Công-Giáo và CS có thể sống chung hoà-bình”…
Bản “Cáo Trạng số 1” được ghi là ký tại Huế vào ngày 8-9-1974, khi được tung ra tại Nhà ThờTân-Sa-Châu, Sài-Gòn, có báo bảo là “làm lung-lay ghế Tổng-ThốngThiệu.”
Các báo Time, Newsweek; các đài BBC, VOAđều loan tin.
Hậu-quả là Quốc-Hội Mỹ quá chán-ngánChiến-Tranh Việt-Nam và mệt-mỏi vì đã yểm-trợ một đồng-minh có quá nhiều khuyết-điểm và thối-nát.
Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Namđã tiếp tay cho Hoa-Kỳchấm dứt viện-trợ và phủi tayđối với Việt-Nam Cộng-Hòa.
Việc Mỹcắt-giảm quân-viện đã làm tê-liệt hẳn khả-năng chiến-đấu của Quân-LựcVNCH, và từ đó làm suy-nhược tinh-thần kháng-cự, yếu-tố quan-trọng nhất trong bất-kỳ cuộc chiến-tranh nào.
*
Về phần Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu thì ông đích-thân đi trực-tiếp cầu-cứu tại chính-quốcHoa-Kỳ, nhưng đã không được nghênh-đón long-trọng tại Thủ-ĐôHoa Thịnh Đốn. Năm 1968, Johnson (dù là Dân-Chủ nhưngchủ-chiến) chỉ tiếp Thiệu tại thành-phố đảoHonolunu, và chỉ để thảo-luận sách-lược hòa-đàm với Cộng-Sản. Năm 1969, Nixon (dù là Cộng-Hòa nhưngchủ-hòa) cũng chỉ tiếpThiệutại ĐảoMidway, và cũng chỉ để thỏa-thuận về chính-sách Việt-Nam-Hóavà lịch-trình rút quân củaMỹ.
Thiệu lại đích-thân đi trực-tiếp cầu-cứu với Giáo-Hội KitôLa-Mã, là một trung-tâm quyền-lực chính-trị khác của thế-giới. Tuy nhiên, Giáo-HoàngPaul VI, trong cuộc viếng-thăm lục-địaÁ-Châulần đầu-tiên, đã không ghé đến Việt-Nam là quốc-gia đang bị Cộng-Sản đe-dọa, nhất là Việt-Namcó tỷ-số giáo-dân đông thứ nhì tại lục-địa này. Thiệuđến Tòa Thánh, nhưng không được Giáo-Hoàng tiếp-kiến―dù Thiệu là một Tổng-Thống, một con chiên―vì lập-trường củaVatican về vấn-đề Chiến-Tranh Việt-Namlà chỉ bênh-vựcHà-Nội, chỉ muốn chấm dứt chiến-tranhdù Miền Nam có rơi vào chế-độ Cộng-Sản sắt máu. Đã thế, Giáo-Hoàng Paul VIcòn chỉ-tríchTổng-ThốngThiệu, lại còn tiếp-kiến cặpNguyễn Thị Bình và Xuân Thủy, trưởng phái-đoàn Cộng-Sản tại Hòa-HộiParis.
Từ năm 1968,Giáo HoàngPhaolồ Đệ-Lụcđã lập ra “Ngày Quốc-Tế Hòa-Bình”, cổ-vũ Hòa-Bình bằng thương-thuyết tại Việt-Nam. Vaticanxác-định lập-trường là chấm dứt chiến-tranh, quan-hệ tốt với Miền Bắcvà Chính-Phủ Lâm-Thời Miền Nam. Chính Giáo-Hoàng này trao-đổi công-điện trực-tiếp vớiHồ Chí Minh.
Vào tháng 6-1971, đang lúc tên gián-điệp cộng-sảnVũ Ngọc Nhạ (kẻ được Linh-MụcHoàng Quỳnhche-chở) bị Việt-Nam Cộng-Hòacầm tù ở Côn-Đảo, mà Tòa Thánhvà Giáo-HoàngPhaolô VI lại tặng Bằng Khen và Huy Chương“Vì Hòa Bình” cho y.
Tức là Giáo-Hoàng Paul VIđã biến Vatican và nhiều Giáo-Hội địa-phương thành một guồng máy chính-trị, ngoại-giao, tình-báokhổng-lồđể giúp Hà-Nội tiến chiếm Miền Nam.
*
Thế mà Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệucũng vẫn chưa thấylà Hoa-Kỳsắp bỏ rơiViệt-Nam, không thay-đổi đường-lối chính-trị, vẫn cứ sử-dụng giải-pháp quân-sự, và không tin là Hà-Nội có đủ sức tấn-công đại-quy-mô.
Ông sửa-đổi Hiến-Pháp để làm Tổng-Thống thêm một nhiệm-kỳ năm năm nữa, khiến Đại-Tướng Thủ-TướngTrần Thiện Khiêm phải ra mặt chống-đối, làm tình-hình chính-trị trong nước càng rối-ren thêm.
Ðầu tháng 2-1975, “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” phổ-biến tiếp bản “Cáo-Trạng số 2” tố-cáo TT Thiệu nhiều tội và hô-hào lật đổ bằng vũ-lực, khiến ông phải dùng biện-pháp mạnh, cho bắt giam nhiều chính-khách, trí-thức, lãnh-tụ đảng-phái, như các Thượng-Nghị-SĩThái Lăng Nghiêm, Phạm Nam Sách, Nguyễn Văn Chức; các ông Hà Minh Lý, Trần Thúc Linh, và một số ký-giả trong đó có những nhân-vật nổi tiếng chống-Cộng như Mặc Thu, Lê Trần, Vũ Bằng, Đinh Từ Thức, Trương Cam Vĩnh, Ngô Đình Vận...
Để đối-phó với “Phong-Trào”, Thiệu vận-dụng nhiều đồng-đạo ủng-hộ mình.
Có sáu linh-mục, trong đó có cả Linh-MụcHoàng Quỳnh, sáu đêm liền, thay phiên nhau lên đài truyền-hình bênh-vực và ca-ngợi Thiệu; ngoài ra, còn có cácNghị-Quyết, Quyết-Định, Đề-Nghị, có chữ ký của 70 Dân-Biểu ủng-hộThiệu.
Có cả Giám-MụcLê Văn Ấn, đặc-trách Tuyên-Úy, Giám-MụcNguyễn Văn Thuận, Linh-MụcCao Văn Luận, đứng ra cãi giùm choThiệu..
Tình-hình gay-cấn đó, do “Phong Trào Chống Tham-Nhũng”* gây nên, đã tạo ra thế“nội công, ngoại kích”, quả là đã phá rối hậu-phương, làm lung-lạc tinh-thần binh-sĩ nơi tiền-tuyến, làm lợi cho Cộng-Sản, trong khi đó thì Bắc-Việt xua quân tấn-công Miền Nam...
-------
*Năm kia, nhà văn Nguyễn Văn Lục có hỏi xin tôi tài-liệu về “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” của Linh-MụcTrần Hữu Thanh; nhân dịp, tôi đã giới-thiệu với anh nhà văn Nguyễn Lý Tưởng, cũng ở miền Nam Bang California. USA.
(Thời-gian 1973-75 anh Tưởng chưa nắm vững vấn-đề, nhưng đến năm 1989, anh Tưởng sống ở trong nước Việt-NamXã-Hội Chủ-Nghĩa, đã trực-tiếp hỏi chuyện Linh-MụcTrần HữuThanh ở bên đó nên biết rõ-ràng hơn.)
Kết-Luận
Có người cho rằng “Phật-Tử Tranh-Đấu”, tức [số người hậu-thuẫn cho] Phái Ấn-Quang của Phật-Giáo Việt-Nam (về sau là Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất) đã liên-tục chống-đối Chính-Quyền Việt-Nam Cộng-Hòa, khiến cho Nền Đệ-Nhất Cộng-Hòa sụp-đổ, rồi Nền Đệ-Nhị Cộng-Hòa cũng suy-tàn theo. Nghĩa là, theo ý họ, chính cuộc tranh-đấu của Phật-Giáo Ấn-Quang năm 1963đã đưa đến sự sụp-đổ của VNCH vào năm 1975 (!)
Như thế thì:
Cả một khối lớn, gồm có:
Giáo-Hoàng Phao Lồ Đệ-Lục
Tòa Thánh Vatican
100% Giáo-Hội Ky-Tô-Giáo Hoàn-Vũ [cóhơn một tỷ tín-đồ]
20 nước Ky-Tô-Giáo Quốc-Tế
100% Hội-Đồng Giám-Mục Việt-Nam
Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình
đã tạo biến-loạn vào chính những năm 1974-1975, không những chỉ muốn sử-dụng vũ-lực lật đổ tức-thời Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, mà còn chống cả chính-thể Việt-Nam Cộng-Hòa
mà không có tội đối với Quốc Dân, lại đi gán hết trách-nhiệm cho:
Một Thượng-Tọa Thích Trí-Quang
50% Phật-Tử Ấn Quang [chỉ hơn mươi triệu]
vốn đã chấm dứt tranh-đấu sau khi đã có Hiến-Pháp từ 1967, và Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộcchỉ mít-tinh ôn-hòa tại chùa và chờ sử-dụng lá phiếu hợp-hiến & hợp-pháp mà thôi?
? ? ?
Nhưng, theo như tôi đã lược-dẫn trên, thì:
“Phật-Tử Tranh-Đấu” đã chấm dứt hoạt-động từ ngày thành-lập Nền Đệ-Nhị Cộng-Hòa, cuối năm 1967. Mãi đến lâu sau Hiệp-Định Paris1973 mới tái-xuất-hiện trong “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc”.
Cả phía“Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” bên giới Phật-Tử, lẫn phía“Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” bên giới Giáo-Dân, đều tranh-đấu chốngThiệuđể có được một Tổng-Thống trong-sạch.
Tuy nhiên, các điểm khác nhau là:
“Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” chỉ họp tại Chùa, sinh-hoạt ôn-hòa, bất-bạo-động, không đòi lật Thiệu, chỉ chờđến ngày bầu-cử Tổng-Thống vào cuối năm 1975sẽ sử-dụng lá phiếu hợp-Hiến và hợp-Pháp của mình.
“Phong-Trào Chống Tham Nhũng” thì rầm-rộ xuống đường, biểu-tình tuần-hành, đòi Thiệu từ-chức, và hô-hào dùng bạo-lực để lật đổ Thiệu tức-thời.
“Phật-Tử Tranh-Đấu” mít-tinh ôn-hòa thì không xáo-trộn trật-tự công-cộng, tiến-hành trong vòng luật-pháp cho phép, và theo truyền-thống sinh-hoạt dân-chủ tại các nước Tự-Do.
“Giáo Dân Tranh Đấu” thì triệt-hạ uy-tín và hiệu-năng quyền-lực của một Tổng-Tư-Lệnh Quân-Độiđang đứng trước họng súng của quân thù, lại cònđòi dùng vũ-lực để lật đổ một Tổng-Thống dân-cử, tức là xóa bỏ Hiến-Pháp, tức là trở thành nội-phản/nội-thù của Quốc/Dân.
Phía “Giáo-Dân Tranh Đấu” thì đòi trừng-phạt một cá-nhân tham-nhũng―mà tổng-số vật-sản bị lạm-chiếm so ra không đáng bao lăm đối với tài-nguyên quốc-gia, lại vẫn còn đó, rồi sẽ lấy lại, chưa mất đi đâu―trong lúc Phía “Phật-Tử Tranh Đấu” thì đặt“nợ nước trước thù nhà”, mọi người chung sức đồng lòng chống giặc trước đã, trước hết là để trì níu lại cái Cơ-Đồ Dân-Chủđang trong cơ nguy bị vĩnh-viễn cướp mất đi.
*
Phần tôi, tôi đối-lập với chính-sách quân-phiệt của Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu―cũng như với chế-độ độc-tôn của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm trước kia―nhưng tôi đã chọn trước tiên là làm tròn bổn-phậncủa một công-dânđối với Chính-Thể Cộng-Hòa.
Riêng về “Phong Trào Chống Tham Nhũng”, có ít nhất là ba vấn-đề quan-trọng hàng đầu mà phía “Giáo Dân Tranh Đấu” (“trả thù cho [cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm]”, theo lời trối-trăn củaDiệm“Tôi chết thì trả thùcho tôi”) cố ý không đề-cập đến:
I. Việc hạ bệ Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu:
a/ Họ muốn đảo-chánh quân-sự, nhưng không thuyết-phục được ai, nên không thành-công.
b/ Họ quyết hạ Thiệu, nhưng không tìm ra được một “ứng-viên” nào của “phe ta” xứng-đángđể lên thay Thiệu. Chỉ nhắm trước mắt mà không nhìn thấy xa hơn―tình-hình hậu-Thiệu―thì tức chỉ là“không lấy thì khuấy cho hôi” mà thôi.
II. Lý-do hạ Thiệu:
1) Thiệu là thủ-phạm, đã tấn-công Dinh Gia-Long, đưa đến cái chết của Diệm.
2) Nhưng, cái tội lớn nhất củaThiệu, là đã có Đảng Dân-Chủ, lan trong quần-chúng, len trong chính-quyền, luồn trong quân-ngũ, mà lại chỉ lo gia-tăng phe-cánh cho cá-nhân mình, chứ không chịu dùng nó [như một Đảng Cần-Lao tái-sinh] để“mở-mang nước Chúa”.
III. Mục-đích đích-thực của “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”:
Danh-xưng thực-thụ của Nhóm này (cái đuôi mà họ cố giấu) là:
“Phong trào nhân dân chống tham nhũng để cứu nước và kiến tạo hòa bình”.
Toàn câu đã được ghi rõ phía dưới “Cáo Trạng số 1”, làm tại Huế, ngày 8 tháng 9 năm 1974.
Trong các hoạt-động sôi-động trước mọi người, họ cố tình nhấn mạnh mấy chữ“chống tham nhũng” mà lơ đicái đuôilà mấy chữ“kiến tạo hòa bình”.
Thử hỏi: trong tình-thế dầu sôi lửa bỏng lúc bấy giờ, có ai còn có cách nào “kiến-tạo hòa-bình” khác hơn là tuân giữ“đức vâng lời”, tuân lệnh Giáo-Hoàng PhaoLô VI và ngoại-bang Vatican, bỏ súng, bắt tay với cộng-sản, rước địch vào nhà?
*
SauHiệp-Định Paris năm 1973, nói chung là sau“Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, các vụ“Bàn Thờ Phật Xuống Đường” cũng như “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân”đã là chuyện cũ, đã lùi vào dĩ-vãng rồi.
Các ván cờ đó đã được các bên tham-dự xóa hết rồi.
Hệ-quả có chăng là sau vụ“Bàn Thờ Phật Xuống Đường” năm 1966 thì Nhóm“Phật-Tử Tranh-Đấu” đã không còn “tranh-đấu” nữa sau khi đã có Hiến-Pháp năm 1967; và sau vụ VC“Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” năm 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 thì tinh-thần chống-Cộng của Dân và Quân Miền Nam đã lên cao hơn.
Cho nên Biến-Động Miền Trung là chuyện đã xưa rồi.
Mới nhất, gian-xảo nhất, và nham-hiểm nhất, là chuyệnBiến-Loạn Miền Trung.
Trên bàn cờ thời-sự Miền Nam Việt-Nam, vào giai-đoạn cuối-cùng của lịch-sử Việt-Nam Cộng-Hòa, chỉ còn có một ván cờ mới―chung-kết và chung-quyết:
Đối-thủ chính bên phía đối-lập với Chính-Quyền là các Nhóm“Giáo-Dân Tranh Đấu”, do đại-khối hơn 300 linh-mục trong “Phong Trào Chống Tham Nhũng” và cả đám linh-mục nằm vùng và thân-Cộng, “lãnh-đạo tinh-thần” Kitô-Giáo Việt-Nam, đứng ra thao-túng tình-hình.
Ở trên đầu và sau lưng họ là Tòa ThánhLa-Mã với đích-thân Giáo-Hoàng Phaolô VI cùng với hàng chục quốc-gia chư-hầu của Vương-Quốc Vatican.
(Nhưng quốc-gia Việt-Nam của Kitô-Giáo đâu được làm một chư-hầu. Chư-hầu là một nước nhỏ/yếu, tùng-phục một nước lớn/mạnh, để được tồn-tại, nghĩa là vẫn còn là một nước. Đằng này, chỉ một Dòng Chúa Cứu-Thếlà một giáo-đoàn/chi-phái của Giáo-Hội Kitô, mà đã tự xem là một Quốc-Gia, và thu-tóm cả nước Việt-Namlàm thành một Tỉnhnội-thuộc của Nướchọ rồi:
Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam.)
Thế đánh cạn-tàu ráo-máng của nội-thùđã chiếu bí Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, trực-tiếp mở đường cho ngoại-địch hạ gục đối-thủ trong nước cờ kết-thúc giữa Bắc-Việt Xâm-Lược với Việt-Nam Cộng-Hòa.
*
Vận Nước suy-đồi, mỗi người dù nhiều dù ít đều có một phần trách-nhiệm (thất-phu hữu-trách).
Chỉ có những kẻ đầy thiên-kiến, mù lương-tri, có ác-ý, và không tôn-trọng Sự Thật, mới đổ hết lỗi cho một riêng ai.
Ngày nay, mang thân-phận thất-quốc, lưu-vong, chỉ trừ những kẻ đã ở hẳn bên phía cộng-sản Việt-Nam rồi, còn thì không có“Phật-Tử Tranh-Đấu” nào mà không luyến-tiếc Việt-Nam Cộng-Hòa.
Trong lúc đó, có một số“Giáo-Dân Tranh-Đấu”, đến tận ngày hôm nay―đã gần 40 năm qua―mà vẫn còn tự-hào, hãnh-diện về những âm-mưu, toan-tính, nỗ-lực, và hành-động của cái-gọi-là “Phong-Trào Chống Tham Nhũng”, vì mình không những chỉ chống-phá cá-nhân Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệumà đã đạp đổ cả cơ-chế Hiến-Pháp―với Lập-Pháp, Hành-Pháp, Tư-Pháp ở trong Chính-Quyền―và các Khối, các Nhóm trong Dân-Nhân―với các Chính-Đảng và các Giáo-Hội sống dưới Chính-Thể Việt-Nam Cộng-Hòa―nói chung là Việt-Nam Cộng-Hòa.
Chính những kẻ ủng-hộ “Phong-Trào Chống Tham Nhũng” ngày nay cũng đã công-khai nhìn-nhận là LM Trần Hữu Thanh và cả “Phong Trào” đó đã chống VNCH.
*
Tóm lại, nếu vì một lý-do nào đó mà phảigán riêng cho đích-danh một số người nào đó là “thủ-phạm chính” quấy-rối an-ninh trật-tự công-cộng nhất, lũng-đoạn tình-hình chính-trị quốc-gia nhất, gây cho tinh-thần dân-chúng hoang-mang nhất, khiến cho ý-chí chống-Cộng của chiến-sĩ giao-động nhất, vào mấy năm cuối-cùng củaChiến-Tranh Việt-Nam―tức là đâm một nhát dao chí-tử vào Việt-Nam Cộng-Hòakhi đang hấp-hối―thì số người đó rõ-ràng, không thể chối-cãi được, phải làthành-phần cực-đoan trong Nhóm “Giáo-Dân Tranh-Đấu”―các linh-mục cộng-sản nằm vùng, tay sai và thân-Cộng, cùng với Ban Lãnh-Đạo của “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”―dù là một bộ-phận nhỏ―của giới tín-đồ Kitô-GiáoMiền Nam Việt-Nam.
(các trang 472-84)
Thật là mâu-thuẫn và buồn cười, theo ý của một số người
chống lại nhóm “Phật-Tử Tranh-Đấu” năm 1963, thì “cán cân Cong Lý”
tính đến Tháng Tư năm 1975 hóa ra là:
Cước-Chú:
Hồi-Kí “Biến-Loạn Miền Trung” được in vào năm 2012.
Lúc sắp in xong, tôi đã rút bớt 2 trang 484 và 485.
Nhưng nay tình-hình đã khác, tôi xin phổ-biến 2 trang liên-hệ dưới đây:
“L.M. Trần Hữu Thanh cùng với 301 linh-mục khác
ký tuyên-ngôn lập Ủy Ban Chống Tham Nhũng,
chống VNCH.”
Cựu Thiếu-Tá Liên Thành, cựu Chỉ-Huy-Trưởng
Cảnh-Sát Quốc-Gia Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế,
đã viết gọn là:
“LM Trần Hữu Thanhchống VNCH năm 1974”
Sunday, July 18, 2010
Liên thành - LM Trần Hữu Thanh cùng với 301 Linh Mục khác
ký tuyên ngôn lập Ủy Ban Chống Tham Nhũng.1974
“LM Trần Hữu Thanh chủ động dấn thân vào chính trị:
đó là năm 1974ở Sài-gòn.
LM Trần Hữu Thanh cùng với 301 Linh Mục khác
ký tuyên ngôn lập Ủy Ban Chống Tham Nhũng,
chống VNCH”
__._,_.___