---------- Forwarded message ---------
From: Cuong Nguyen<
Date: Wed, Sep 25, 2019 at 11:08 AM
Subject: 💔ĐỌC ĐỂ NHỚ LẠI NHỮNG THÁNG NGÀY TRONG TRẠI KHỔ SAI CỦA CỌNG SẢN
From: Cuong Nguyen<
Date: Wed, Sep 25, 2019 at 11:08 AM
Subject: 💔ĐỌC ĐỂ NHỚ LẠI NHỮNG THÁNG NGÀY TRONG TRẠI KHỔ SAI CỦA CỌNG SẢN
💔ĐỌC ĐỂ NHỚ LẠI NHỮNG THÁNG NGÀY TRONG TRẠI KHỔ SAI CỦA CỌNG SẢN.
Anh cũng nhưbao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền Nam. Sau 75, đều bịtập trung cải tạo. Những tháng đầu anh được vợgửi cho một hai lần đồăn, sau đó thì biệt tăm. Anh được phép viết thưvềcho gia đình nhiều lần. Nhưng không thấy vợtrảlời. Nhưthếkểnhưanh bịvợbỏ. Sống trong trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tếđồăn, người đó kểnhưchết. Anh biết mình nằm trong sốngười bất hạnh đó. Nên anh phải tựlực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứtựlực gì nổi. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất cứthứgì có thểbỏvào bụng cho đởđói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồcôi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới nhưnhau. Ai tìm được nấy ăn.
Chuyển ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tảhơn. Không quen với cái lạnh thấu xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụgià hom hem. Công việc nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trởvềthì không thấy hy vọng. Anh cứnghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc nầy mãi, thì thếnào cũng bỏxương tại cái xứđèo heo hút gió nầy. Trốn trại thì không can đảm. Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải bó tay chịu trận.
Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồăn gửi bằng đường bưu điện. Anh nghĩ chắc vợanh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nhìn tên người gửi lạhoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sựnhầm lẫn. Tuy nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sựthèm khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trảvềcho khổchủcủa nó! Cán bộtrại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thếnào họcũng chia nhau. Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh vềtrại. Bạn bè tới chúc mừng anh. Nhưvậy, kểtừnay anh thuộc thành phần có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mởra kiểm soát, cột lại sơsài trước khi giao cho anh nhận lãnh.
Ai nhận quà vềđến chỗnằm của mình, đều bóc ngay ra. Còn anh thì không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng. Không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải là trong gói quà có những gì đểăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.
" Anh yêu quý,
Anh đã mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đã chết. Em và các con lập bàn thờmấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô tình đến thăm một người bạn, có người anh được thảra từtrại cải tạo Miền Bắc. Em hỏi thăm là có bao giờanh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên ấy, trước là đại úy thuộc SưĐoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phốđể xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.
Anh đừng đểvi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽđược nhà nước khoan hồng đểsớm vềđoàn tụvới gia đình. Có dịp được trại cho phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần sau có giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh về.
Thưnầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.
Vợanh
Lê ThịHồng"
Anh không dám đọc lại lần thứhai. Một sựtrùng hợp lạky, anh và ông Hữu kia cùng thuộc SưĐoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người đàn bà nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sưđoàn, chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơđễnh, không thấy chữmất tích từđầu lá thư. Anh nhìn gói đồăn mà lòng trĩu nặng. Một bên vợngười ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờđợi. Còn mình sống sờsờvợchẳng thèm ngó ngàng tới.
Đọc thưxong, anh bỏthưlại trong gói đồrồi cột lại nhưcũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.
Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình giống như một thằng ăn trộm, oa trữđồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc thì xem nhưđược một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá khô, muối sảớt v.v... anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ nầy ởđây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó, anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sựđòi hỏi hợp lý nầy. Thôi thì tới đâu hay tới đó.
Ngày hôm sau anh mang tí ti đồăn theo, chia cho một sốbạn cùng cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà. Họăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần vềsau nguôi ngoai. Hình như sựphạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt hơn là phạm tội một đôi lần.
Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thưvềgia đình. Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thưcho vợhay gửi cho chịLê ThịHồng? Gửi cho vợthì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chịLê ThịHồng, thì biết nói sao cho chịhiểu là anh không phải là chồng chịta. Nếu thưkhông bịkiểm duyệt thì chuyện nầy dễnói. Còn thưtù nhưanh thì qua biết bao nhiêu cửa ải. Biết đâu khi cán bộkiểm duyệt phát giác chuyện nầy sẽtống cổanh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu đểlãnh đồthăm nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái tội nầy bạn bè biết được thì khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡrồi, đành phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.
"Hồng em,
Cám ơn em rất nhiều vềgói quà vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo gì cho anh nữa, ởđây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không thiếu. Em yên tâm đểdành lo cho các con. Em ở nhà cốgắng dạy dỗcác con nên người, cốgắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước cách mạng.
Nhờơn cách mạng, nhờánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước.
Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ởđây anh ăn uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.
Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.
Chồng em
Nguyễn Hữu"
Anh nhắc lại hai lần chữ"lầm lẫn", đểchịHồng biết đoán ra mọi sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợcán bộtrại nghi ngờ. Hai ngày sau, văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện gì xẩy ra. Có lẽvì mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.
Anh bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi hút. Người cán bộ nhìn anh nói: "Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo chịđừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?"
Anh lắc đầu: "Nhiều năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất. "
"Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực khổ. Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủthứ. Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hềhé răng."
Người cán bộ nói tiếp: " Chúng tôi có bỏđói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủđấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh vềvới gia đình. Nghẹt vì các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm giữthêm một thời gian nữa."
Anh ấp úng: "Vâng, thưa cán bộ."
Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói: " Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương tinh thần ý thức của anh. Thưanh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽđược Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình."
Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho vềsớm. Nên chúng nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được vềtrước đâu. Anh cười thầm trong bụng với cái chiêu dụnầy.
Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn, thoát được sự căng thẳng. Anh vềchỗnằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết không đúng tiêu chuẩn. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể. Rồi cũng sẽđi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ"lầm lẫn" kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chịđã chết.
Ngày nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm là mình trởlại với vịtrí mồcôi muôn thuở. Anh không còn hy vọng có ai đó ngó ngàng tới đểgửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗan cho cái dạdày. Vì thếnào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽđược người nhà mang đến. Còn anh chỉăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.
Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà của mình. Không dám đọc thưvì biết thưđó không viết cho mình. Lần nầy thì ngược lại. Vềđến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc. Thưviết cũng thắm thiết nhưlần trước, không hềđá động gì sựlầm lẫn mà anh đã nhấn mạnh. Nét chữcứng cỏi thểhiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi sựlầm lẫn đó. Trong thưnầy chịHồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tựsự. Mặc kệ, cứthản nhiên mọi chuyện, cứăn cho sướng. Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh muốn tạo ra tình huống nầy, đểdễdàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà không thẹn với lương tâm.
Mỗi lần sực nhớlại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay. Nhủvới lòng mình nhưvậy, nhưng dễgì quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chịHồng lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm lòng thương chồng của chịđã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho hoàn cảnh côi cút của chịvà mấy đứa con. Sống giữa sựkhó khăn chung của xã hội, nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì xa xôi hơn nhưchuyện thăm nuôi chồng. Tệhại hơn nữa, đây không phải là chồng của mình.
Mọi chuyện vẫn bình thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng đến thăm. Lần nầy thì anh bối rối thật sự. Anh biết sựgặp nhau nầy rất bẽbàng và ngượng ngập. Mọi sựthật sẽlàm cho chịHồng đau khổbiết mấy. Với anh thì không sao, anh đã biết trước mọi chuyện, anh đã chuẩn bịtinh thần. Dù gì thì anh cũng phải trảlại sựthật nầy. Anh không muốn nó cứmãi kéo dài, cứmãi gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh cốgắng diễn tảcho chịấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, đểchịtha thứ. Anh sợmột vài tháng bịcùm, sợmất mấy miếng ăn, mà phải đểlại sựhiểu lầm trầm trọng. Đểchịphải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từSài Gòn ra tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng mình.
Người cán bộ phụtrách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từxa anh nhìn thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờđợi. Tựnhiên anh hồi hộp. Tựnhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗchịngồi. Tim anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn nhưcon gái. Thấy xấu hổvà hối hận. ChịHồng nhìn anh rồi bật khóc. Chịkhóc nức nở. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng khóc ấm ức nhưđang gặp sựbất trắc. Anh ngồi vào vịtrí đối diện. Nước mắt anh cũng chảy dài. Anh không nói được với chịcâu gì. Những gì anh đã chuẩn bịbay đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ởđầu bàn kiểm soát thấy hai người cứkhóc mãi.. Có lẽanh ta nghĩ rằng vì vợchồng lâu ngày xa nhau, thương nhớchồng chất lâu ngày, đểhọkhóc cho đã nư. Anh ta cũng chẳng cần đểý tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi ra cửa sổkhạc nhổ, anh chụp ngay cơhội nói với chị: "Xin lỗi...xin lỗi chị".
Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụý cho anh biết đừng nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong tiếng thởấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.
Cán bộbáo cho biết giờthăm nuôi chấm dứt. Chịđưa tay nắm lấy tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tựnhiên, không biết tại sao anh bật khóc lớn. Có lẽanh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của chịdành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn bà không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa tìm chồng. Chịlủi thủi trởvềvới niềm tuyệt vọng. Rồi anh chịchia tay. Anh gánh phần quà của chịmang tới cho anh, vào trại. Chịđứng dựa vào cột tre nhìn theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải lìa xa.
Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ, thì các bạn anh chạy ra phụmang đồvề phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến khi chịra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi vềchỗnằm. Đồđạc còn đểlăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại. Những giây phút thật bất ngờđến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờgặp nhau, anh chỉnói ra được hai tiếng xin lỗi. Màn kịch do chị diễn ra thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm thấy rất tựnhiên không ngượng ngịu. Không sao hiểu nổi được lòng chị.
Ngồi nhớlại cảnh gặp gỡ, khi chịngước mắt lên nhìn anh. Khuôn mặt chịthật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chịcũng đã biết trong mấy lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chịđổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên hệ với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chịđã chết. Nghiệt ngã thật. Chị bật khóc, vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù tội, lao khổ, bị gia đình bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt của chịđã bao năm khóc cho chồng, bây giờđã khô cạn. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đình vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổđau, dày xéo trên thân thể những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờđẫn, đang đứng đối diện..
Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chịlầm lũi bước lên tàu trở vềSài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉcòn một mình chịthức, nhìn ra bên ngoài với sựtrống vắng. Chịôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Chịnghĩ sao vềanh? Chịcó còn giữliên lạc với anh không?... Dù sau nầy thếnào, dù có giữliên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với anh suốt đời không quên được. Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.
Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cảđều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.
Phan Xuân Sinh
--
TRAN NANG PHUNG
__._,_.___