DƯỚI ĐÂY LÀ MỘT BÀI VIẾT GỢI Ý MỜI QUÝ VỊ QUÂN DÂN CÁN CHÍNH VNCH còn sống - NGÀY 17-3-2020
‘Thời… đại dịch!’
Hồi Ký Của Một Người Kẹt Lại Hà Nội Sau 1954 – Nguyễn Văn Luận
BẢN TÌNH CA CỦA MỘT NGƯỜI TỊ NẠN.
Lisa Pham Khai Dân Trí Ngày 26/03/2020
BẢN TÌNH CA CỦA MỘT NGƯỜI TỊ NẠN.
Bài Viết Của Con út Cố ĐT Nguyễn Đình Bảo
Bản viết tay của TT Trần Văn Hương minh oan cho TT Nguyễn Văn Thiệu
Đây là văn bản hợp thức hóa cho chuyến lưu vong của cựu Tổng thống khi không thể ở lại Dinh Độc Lập, không thể ở lại đất nước được nữa.
Buổi chiều, cựu Tổng thống tự tay viết một văn bản đề nghị với Tổng thống Hương cho phép một số người là Sĩ quan phục vụ Ông trong Dinh Độc Lập được đi theo hộ tống gồm có:
- Đại tá Nguyễn Văn Đức - Chánh Tùy viên.
- Đại tá Nhan Văn Thiệt - Chỉ Huy trưởng Cảnh sát Quốc gia Vùng IV, nguyên Trưởng Khối An ninh Phủ Tổng thống, sau đổi danh xưng là Khối Cận vệ.
- Đại tá Trần Thanh Điền - Trưởng Khối Cận vệ.
- Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu - Sĩ quan Tùy viên.
- Bác sĩ Thiếu tá Hồ Vương Minh.
- Đại úy Nguyễn Phú Hải - Cận vệ (giờ chót không có mặt).
- Phục dịch viên Nghị (giờ chót không có mặt).
- Thiếu tá Đinh Sơn Thông
- Thiếu tá Nguyễn Tấn Phận - Phụ trách An ninh Dinh Thủ tướng.
- Ông Đặng Vũ (giờ chót không có mặt).
Bốn người Mỹ đó là Tướng Charles Timmes, Thomas Polgar, John Kingsley và Frank Snepp, đều thuộc CIA.
Bản viết tay của TT Trần Văn Hương minh oan cho TT Nguyễn Văn Thiệu | |||||||
Bản viết tay của TT Trần Văn Hương minh oan cho TT Nguyễn Văn Thiệu Bản viết tay của ông Tổng Thống Trần Văn Hương đưa ông Nguyễn Văn Thiệu sang Đài Bắc để dự tang ông Tưởng Giới Thạch. Tài liệu sau này bị rơi vào tay Cộng Sản, họ đã giấu đi nhằm không để cho ông Thiệu giải oan vụ ông bỏ nước ra đi 30-4-1975. Ông Thiệu sang Đài Loan dự tang và rất nóng lòng trở về chiến đấu nhưng thời điểm đó Dương Văn Minh bất ngờ đầu hàng khiến ông không quay trở lại được nữa. |
Thank sir so much Moderator Google.
Best Regards
---
You received this message because you are subscribed to the Google Groups "Nhóm Thân Hữu" group.
To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to nhomthanhuu+unsubscribe@googlegroups.com.
To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/nhomthanhuu/1082483084.1874916.1588109529683%40mail.yahoo.com.
Cái chết của Ông Long (Trung Tá Cảnh Sát QG Nguyễn Văn Long)
xin thắp nén hương lòng trước cái chết oai hùng của Trung Tá Cảnh Sát NGUYỄN VĂN LONG vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi SAIGON rơi vào tay giặc.
Forwarded Message -----
From: Truc Chi >
Sent: Thursday, April 30, 2020, 04:45:16 AM PDT
Subject: [BTGVQHVN-2] Fw: Cái chết của Ông Long (Trung Tá Cảnh Sát QG Nguyễn Văn Long).. [1 Attachment]
Trung tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết. Tiểu sử Trung Tá Nguyễn văn Long.
Qua nhiều bài viết về Trung Tá Nguyễn Văn Long mà chúng tôi có dịp đọc trước đây, chúng tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó còn thiếu sót, nếu không muốn nói là chưa thỏa mãn được những gì mà chúng ta muốn biết về Trung Tá Long. Người mà chúng tôi nghĩ đến có thể bổ túc cho những thiếu sót đó không ai khác hơn là cựu Trung Tá Nguyễn An Vinh, nguyên Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia Đà Nẳng, người đã có thời gian dài được gần gũi với Trung Tá Long, trong phạm vi Bộ Chỉ Huy Khu I, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Kính mời quý vị xem bài của cựu Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Nguyễn An Vinh.
Sau chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ nhất Cộng Hòa, Quốc Gia trải qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên Huế, hoạt động ngành An ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm mà đã thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An. Có ông chỉ tại chức 32 ngày. Hai Trưởng Ty Công An Thừa Thiên và Cảnh Sát Huế đều là cơ sở nòng cốt Cộng Sản, một vài tay chân của nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu ly khai xuống đường phá rối. An ninh trật tự hoàn toàn suy sụp.
Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng I, tháng 6 năm 1966 Trung Ương quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, ông cho chấn chỉnh lại những hoạt động của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại địa phương đầy biến động này, đồng thời bổ nhiệm Quận Trưởng Cảnh-Sát Võ Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh Sát Quốc-Gia Vùng. Quận Trưởng Cảnh Sát Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm 1963 và là người đầu tiên giữ vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian hỗn loạn quá dài. Ðể mau chóng ổn định nhân-sự cũng như hoạt động, Ông cho lệnh di chuyển Nha CSQG từ Huế vào Ðà-Nẳng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng trong một tháng để thu xếp gia-đình..
Trong vòng một tháng đó, phần đông nhân-viên đã có đủ thì giờ để ổn định việc nhà cửa và chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung Tá Long, lúc ấy vừa được bổ nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm Thanh Tra, là còn loay hoay chưa kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình. Hết hạn 1 tháng, Ông không thèm xoay sở nữa mà đã sáng kiến thực hiện một việc cổ kim không giống ai :
Thấy có một khoảng đất công trống trên đường Duy Tân, giữa lòng Thành Phố Đà Nẵng, Ông dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường thành của một Công Sở. Ðó là nơi gia đình ông đang cư trú, không điện không nước.
Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm thấy cả nhà ban đêm thắp hai ngọn đèn dầu lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua đến cho ông một cái đèn Manchon. Ông từ chối nhất định không lấy, nói thế nào ông cũng không chịu, bắt họ đem đi trả lại.
Câu chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều người kể đi kể lại ở sở. Một hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên họp Quân Ðoàn, tôi kể Ông nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc lắc đầu nói :
tính của Long là vậy, tôi biết chả từ lâu, từ hồi còn làm bên Công An Liên Bang. Ðó là một người rất tốt, thanh liêm và cương trực, đông con nhà nghèo…”. Từ lúc đó cho đến khi vào họp Ông không nói thêm lời nào. Ông lặng lẽ, dường như có điều tính toán suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài đường. Tuần lễ sau, tôi ghé nhà Long thăm đã thấy có điện nước. Hỏi ra thì biết trong lúc Ông Long đi làm, có 2 người tới bắt cho 2 bóng đèn và 2 lỗ cắm điện, một vòi nước. Họ không lấy tiền cũng không cho biết ai sai tới. Tôi biết ngay là do sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc. Biết Ông không ra mặt tôi cũng làm thinh luôn..
Liền sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông Giám Ðốc hỏi nhỏ tôi, nhà Long có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa. Ông gật đầu, mỉn cười nhìn về phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung. Ông vui vì đã giúp được thuộc cấp một việc tuy nhỏ nhưng rất cấp bách cần thiết. Tính Ông quảng đại, kín đáo và chi-tiết. Nhiều khi làm ơn từ việc nhỏ đến việc lớn, không cần cho ai biết.
Dạo ấy, vì cơ sở mới dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa đủ, Ông Giám-đốc cũng không có tư dinh phải ở tạm một phòng trong khách sạn Grand Hotel trên đường Bạch Ðằng. Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông thường dùng bữa vớí nhiều viên chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn công việc. Những lúc không mời ai, Ông gọi tôi tới ăn cơm chung. Nhờ có chút khả năng giao-thiệp, quen biết nhiều người và luôn sẵn những chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều giờ với tôi, bàn về đủ mọi thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới đất, không dính dấp gì tới công vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi nhắc lại chuyện Trung Tá Long và hỏi Ông lý do không cho Long biết việc Ông can thiệp bắt điện nước vào nhà. Ông cườì rồi từ từ kể. Sau đây là những gì Ông Giám đốc Võ Lương nói về Trung Tá Nguyễn Văn Long:
Tôi biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả (tiếng thông dụng miền Trung có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy) mới gia-nhập Ngành An ninh thời Tây. Giả nổi tiếng1à siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong sạch. Lương bổng không đến nỗi tệ nhưng gia-đình đông con lại suốt đời không tơ hào những bổng lộc phi nghĩa nên thời nào cũng nghèo. Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước năm 1963 Giả cũng có một căn nhà tương đối được, ở đường Phạm Hồng Thái, Thành Phố Huế. Nhà này có từ nhiều năm trước, có thể do cha mẹ để lạị. Trước đảo chánh Ông Diệm, Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung do Phan Quang Ðông điều tra khai thác. Trong thời gian bị ngưng chức không lương tiền hàng tháng, bà vợ đã phải bán căn nhà này để đong gạo cho gia đình…
Giả sống rất chừng mực, lương thiện, không có khả năng xoay xở, lại càng không muốn xoay xở bậy bạ. Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn răng chịu đựng, không hề muốn nhờ vả ai. Giả rất khó chịu khi phải chịu ơn người khác. Ðiều này giải thích được tại sao tôi không trực tiếp cho biết đã nhờ người bắt điện nước cho gia đình Giả. Chuyện nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn…
Là viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ng
Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung năm 1962 nên sau khi Chính Phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Long được cử ngay làm Trưởng Ban Công Tác Ðặc nhiệm điều tra tội ác và tài sản chế độ cũ cũng như của nhóm Cần Lao. Nhiều người cứ tưởng dịp này Long tha hồ ân oán giang hồ. Nhưng trái với mọi suy đoán, Long hành xử trách nhiệm hoàn toàn vô tư, không nghe lời xúc xiểm, không thành kiến, cũng như không bới lông tìm vết. Ðể tránh mấy tay môi giới chạy chọt xin xỏ đút lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật khuya mớí lạch cạch đạp xe về nhà. Dạo ấy cả gia-đình theo đạo Công Giáo, nhà thuê ngay kế bên Dòng Chúa Cứu Thế Huế. Nhà Long cửa đóng then cài. Long không tiếp bất cứ ai.
Năm 1965, Long đưọc bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công an Ðặc Biệt Bến Hải, đóng dọc theo Nam Vĩ Tuyến 17 thuộc Quận Trung Lương, Tỉnh Quảng Trị. Nhận việc chưa bao lâu thì Phòng Lương Bổng, Vật Liệu , Kế Toán đưa cho Giả một phong bì đầy tiền. Long hỏi cái gì thì họ cho biết, như thông lệ từ trước, đây là số tiền bán bớt xăng nhớt và văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm mật phí giao tế. Giả đỏ mặt, trợn mắt đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám léng phéng chuyện tiền nong lem nhem với Long…”
Kể đến đây Ông Giám Ðốc cười thành tiếng và nói đùa : “…Nếu Long chịu nhậ
Khi tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung, Ông cho biết vụ ấy không hẳn là có thật mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối. Công việc của Phan Quang Ðông là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo gián điệp ra Bắc hoạt động vùng Thanh Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không dính líu gì đến vấn đề nội chính và an ninh quốc nội. Ðông bị xử tử hình để bịt miệng, do áp lực từ Cộng Sản trong nhóm tranh đấu, gây rối Mìền Trung. Không có vụ gián điệp thì Ðông cũng bị giết.
Hình như Long biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn Phan Quang Ðông tại Sân Vận Ðộng Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi coi, Long từ chối. Long nói:
“…chuyện Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử vội vàng và có quá nhiều áp lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi, không nên buộc… Ông Giám Ðốc kết luận :…Long khắt khe sắt thép với chính mình nhưng khoan dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng với kẻ khác, cả với kẻ vừa mới giam giữ mình…”
>>
>> Năm 1970, tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu Tá Trần Hàng để ra Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu một cơn bão lụt Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm năm. Mưa như trút nước. Sóng biển gầm thét dữ dội. Một phần đường trong thành phố ngập nước quá đầu gối. Giáp ranh phía Bắc Thành Phố là Bãi Thanh Bình thành một vùng nước mênh mông. Nhưng ngặt nghèo và nguy hiểm nhất là khu tạm cư Ngọc Quang. Khu này là một giải cát bồi thoai thoảỉ nằm dài giửa Bãi Thanh Bình và biển cả, không một bóng cây. Từ tầm xa nhìn tới, toàn khu hoàn toàn biến mất, chỉ còn thấy lác đác ít nóc nhà nhấp nhô theo sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật từng cơn. Bộ Chỉ Huy Cành Sát Quốc Gia huy động toàn bộ lực lượng cơ hữu như Giang Ðoàn và trưng dụng thêm một số ghe thuyền tư nhân trong nỗ lực di tản dân chúng vào khu an toàn, lúc ấy là sân Trường Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng và chung quanh 2 Thánh Ðường Họ Giáo Ngọc Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức.
>>
>> Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết gia-đình Trung Tá Long ở vào một khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra biển bất cứ lúc nào. Cả gia-đình đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang ngồi trên một cái chõng tre, tay cầm chai rượu thuốc, nói là để ở lại giữ nhà, không chịu đi đâu hết. Tôi nghe mà lạnh người. Cũng lại cái “Ông Trời sợ” này nữa. Tôi không thể quên vụ Ông cắm dùi ở đường Duy Tân năm nào và việc Ông Giám Ðốc Võ Lương kín đáo giúp đỡ bắt điện nước cho Long.
>>
>> Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho tôi nói chuyện với Long. Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng, tôi không sao đâu. Sau một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải viện dẫn lý do an ninh cũng như xin Ông hợp tác để làm gương cho đồng bào. Cuối cùng Ông mới chịu vào bờ.
>>
>> Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những thứ đỗ nát. Tôi điện thoại cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời tỉnh bơ: Nhà chỉ có mấy tấm ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư hại. Tuần này tôi xin nghỉ mấy ngày phép và mất một mớ đinh là xong ngay.Tôi bái phục cái thái độ bình tâm giản dị gần như bất cần của Ông, nhưng quyết định phải ra tận nơi coi cho biết. Tôi mặc thường phục cùng với mấy tay bài trừ du đãng đi Honda, luồn lách ra Ngọc Quang. Tới nhà Ông Long, tôi hết hồn.
>>
>> Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội vàng và lỏng lẻo gồm mọi thứ tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Nhà nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các gia đình đổ về từ những vùng quê Quảng Nam mất an ninh. Giây điện và giây phơi áo quần chằng chịt. Rất mau, tôi vụt nhớ đến một bản báo cáo của Cảnh Sát Ðặc Biệt về việc Cộng Sản cài người vào dân tị nạn và vụ xe ông Trưởng Phòng Ðặc Biệt Nha tên Diệp đi mua vật liệu bên Quận Ba bị đặt Plastic chết banh xác trên gần Chợ Cồn năm nào. Thương Ông, tôi nhất định phải đưa Ông vào thành phố.
>>
>> Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm một miếng đất cho Ông Long cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn ra 4 chỗ. Tôi lái xe đưa Ông đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần ngại không quyết định, viện dẫn nhiều lý do nghe cũng được. Chuyện không thể chậm trễ, tôi nói ngay: hay là Ông vô ở chung với tôi. Ông cười khẩy, tưởng tôi bực mình nói lời mỉa mai. Sự thực khi nói câu đó, tôi nghĩ đến khu đất trống sau tư dinh dành cho gia đình Chỉ Huy Trưởng số 37 Nguyễn Thị Giang, ngay trung tâm thành phố, sát tường rào Trường Nam Tiểu Học, có thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho Ông. Ông chịu liền nhưng còn bán tín bán nghi.. Ðể xác nhận không phải chuyện bông đùa, tôi đưa Ông tới một trại cây đường Phan đình Phùng, nói với bà chủ chọn cho Ông một số cây ván thứ tốt, hoá đơn gởi cho tôi. Tới đây Ông mới tin là chuyện thật và bắt tay tôi vui vẻ, nói lời cám ơn.
Không chờ đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc Quang, cha con chồng vợ cả gần chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong vòng chừng 2 tuần là xong, điện nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui vẻ đã đành, phần tôi cũng vui không ít.
Những ngày tiếp theo, tôi chờ hoài không thấy trại gỗ đưa hóa đơn tới, hỏi ra mới biết : thấy tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy một ít ván gắn vào mặt tiền coi cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ tạp nhạp từ một bãi phế thải ở đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác về, đóng phía trong phía ngoài khá tươm tất. Một lần nữa tôi cảm phục tính lương thiện và sòng phẳng của Ông. Dọn vào nhà mới xong, ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ nhiệm Chánh Sở Tư Pháp, tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông yên tâm ở bên cạnh nhà tôi và tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát :
Nhà Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần, nuôi 13 đứa, có cả cặp sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang thêm một đứa cháu mồ côi, anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho Ông giữ. Chưa hết. Nhà còn có thêm một con heo con. Bà Long nói phải nuôi thêm con heo làm lợi, cho đứa cháu mồ côi thêm tiền ăn học. Chuyện nhà Ông Long nuôi heo nhiều người không tin, đòi đến coi. Làm gì giữa thành phố, ngay cạnh tư dinh Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát mà lai có người dám nuôi heo. Ai nói gì thì nói, hiểu rõ hoàn cảnh gia-đình, cùng cái lý do chân thật và tội nghiệp đối với Bà Long, tôi không phản đối. Mấy đứa con nhỏ của tôi cũng rất ưa thích con heo. Ði học về, tụi nhỏ chạy sang xem, cho heo ăn, trầm trồ khen heo sạch sẽ và mau lớn. Thấy các con ưa thích, tôi cũng vui. Bà Long lại càng vui hơn.
Ông Long dạy con rất nghiêm nhưng không hề ồn ào to tiếng. Ông ưa nói chuyện gương trung liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của các con làm trọng. Ông thường dặn con : dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm cho được ba mớ chữ. Câu Ông thường nhắc đi nhắc lại với các con là: Khi nào cái đầu cũng ở trên. Cái đầu phải có kiến-thức để điều khiển toàn thân làm những việc khá hơn là việc tay chân lao động.
>>
>> Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy cháu học giỏi và thường dấm dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp sách, khi thì mua bộ áo quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi thương nhất. Ông Long có mấy con đã trưởng thành. Hai anh đi Không quân, một Thiết giáp, ba Cảnh Sát. Đứa đầu lòng tên Phụng, Sĩ Quan Biệt Ðộng Quân, tử trận. Thỉnh thoảng các cháu về phép, nhà tôi thường dặn dò phải cận thận giữ mình, đôi khi còn có chút ít tiền cho các cháu cà phê. Những cử chỉ thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như thế chỉ có các con và Bà Long biết, Ông Long thì không. Qua tôi, nhà tôi đã hiểu tính Ông Long rất tự ái và không ưa nhờ vả ai, dù là từ những người thân.
Trong năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang nhà tôi có một lần, đi chung với Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy tôi vừa cho thêm một người bạn khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An Quảng Tín làm căn nhà đằng sau , phía bên phải. Nhà Ông Long bên trái. Ông Võ Hoàng là một nhà phong thủy cho biết hai căn nhà phía sau Tư dinh là một phối trí phong thủy tuyệt hảo, che chắn hết mọi bất trắc, rủi ro, không sợ đao kiếm cùng kẻ xấu chém lén sau lưng. Ông Chỉ Huy Trưởng sẽ yên vị tại chức lâu dài. Tôi không biết nhiều về phong thủy, cũng không hẳn tin.
Sống bên nhà tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long không bao giờ xin "ân huệ" cho mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng lẽ, âm thầm gần như cam chịu. Bà Long thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ trước đến nay và ao ước được ở đây mãi mãi... Niềm ao ước bình thường giản dị ấy không được bao lâu thì Ðà-Nẵng thất thủ, cuối tháng Ba 75. Tai trời ách nước đổ sập xuống, chúng tôi tan tác mỗi người một nơi.
Tôi thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ vào Cam Ranh. Tại đây dùng tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại biển khơi, tôi gặp Ông Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi đổi tàu cùng Ông xuôi Nam. Về đến Saì-Gòn chia tay mỗi người một ngã. Tôi tìm cách cùng gia đình thoát thân lần nữa. Qua tới Guam được mấy ngày thì được tin Long tự sát. Tôi bàng hoàng xúc động, thương Ông suốt một đời lận đận và kết thúc tức tưởi thế kia. Từ đó tôi bị thúc bách và tự cho như có bổn phận phải tìm thêm tin tức của Long:
Ở Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ Sở Quốc Hội, sắc phục và cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng, nhưng không có báo nào nói xác Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi thể vô thừa nhận đã bị vùi dập ở một xó xỉnh nào.
Nhưng không. Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận đươc giấy báo vào nhà thương Grall nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong túi áo Long có thẻ căn cước địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà thương cứ theo địa chỉ đó mà báo tin. Tôi nhớ là cái căn cước bọc nhựa ấy tôi đổi lại cho Long khi vừa mới dọn vào ở chung, đặc biệt có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không phải chữ ký của Thiếu Tá Chỉ Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên tôi có chút suy nghĩ sao mà cái việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn cước bọc nhựa năm xưa lại đưa đến một sự việc quá quan trọng như thế. Cái căn cước có chữ ký của tôi đó không phải vì nhu-cầu mà chỉ vì chút cảm tình, nhưng lại chính nhờ nó mà gia-đình nhận đươc xác của Long. Ðây có phải chỉ là một diễn tiến tình cờ hay là một tính toán cẩn thận của Long. Giả thuyết thứ hai hợp lý hơn.
Ðà-nẵng mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương tháng ba nên nhà không có tiền vào Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba vào nhận xác. Tới Sài Gòn ngày 17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ hai tên Ðào và người em gái tên Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới nhà thương Grall. Tại dây nhân viên Bệnh Viện, như có được lệnh của Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ dàng, chỉ vẽ tận tâm chu đáo và tỏ ra có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ tắm rửa, thoa thuốc, uốn nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử tế đến độ làm các con cảm-động và ngạc nhiên.. Ngày chôn cất có ban hậu sự Nhà Thương sắc phục và xe tang đàng hoàng, khoan thai đưa tiễn tới Nghĩa Trang. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí. Thi hài được mai táng tại Nghĩa Trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo với đầy đủ lễ nghi tôn giáo. Có Linh-Mục đến làm phép xác. Rõ ràng là cái chết công khai và lẩm liệt của một Anh Hùng vị Quốc vong thân, ngay lập tức đã có người trân trọng. Ít năm sau gia đình cải táng. Lần này thì khăn tang trắng một vùng, đầy đủ vợ và các con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro ký thác tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng.
Ngày mất nước 30 tháng 4 năm 75, khi biết mọi sự đã hỏng hết, nhiều Tướng Lãnh, Sĩ Quan, Binh Lính,
25/03/2017.
Nguyễn An Vinh
Sài Gòn Những Ngày Cuối Tháng 4-1975 [
Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản.
Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Bao Vây Sài Gòn
Tối ngày 21/4, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên Đài Truyền hình tuyên bố từ chức, Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay, phía Cộng sản tuyên bố chỉ nói chuyện với Đại Tướng Dương Văn Minh, phía miền Nam chấp nhận, Tổng thống Trần Văn Hương thu xếp từ chức.
Ngày 14/4/1975, miền Bắc ra chỉ thị mọi cánh quân phải tập trung quanh Sài Gòn vào ngày 26/04, khởi sự tấn công ngày 28/4/1975, cũng đúng ngày đó Đại Tướng Dương văn Minh tuyên bố nhậm chức Tổng Thống.
Sáng ngày 29/4/1975, Đại Tướng Dương văn Minh gởi Tối Hậu Thư buộc người Mỹ phải rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ.
Người Mỹ Di Tản
Ngày 23/4, phát biểu tại Đại học Tulane tiểu bang Louisiana, Tổng thống Gerald Ford cho biết Bắc Việt sẽ chiến thắng và chiến tranh Việt Nam đã kết thúc.
Ngày 25/4, Dân biểu Đảng Cộng Hòa tiểu bang Michigan, ông William Broomfield cho biết phía Hoa Kỳ đã có một thỏa thuận ngầm, Bắc Việt sẽ không tấn công Sài Gòn trước ngày thứ hai 28/4/1975 để Mỹ có đủ thời gian di tản khỏi Việt Nam, Ngoại trưởng Kissinger phủ nhận nguồn tin.
Khoảng 6 giờ chiều ngày 28/04/1975, Bắc Việt sử dụng 5 phi cơ A37 từ phi trường Phan Rang tấn công Tân Sơn Nhất và đêm hôm đó pháo binh cộng sản từ Cát Lái đã pháo kích vào phi trường.
Đặc công cộng sản cũng đã vào sát phi trường nên các phi cơ chở người di tản không thể cất cánh.
Hoa Kỳ cấp tốc mở chiến dịch di tản bằng trực thăng tại hai địa điểm chính là Trụ sở cơ quan DAO (Defense Attache Office) bên trong phi trường Tân Sơn Nhất và trên nóc Tòa Đại Sứ Mỹ.
Đến 7 giờ 30 tối ngày 29/4/1975, Mỹ đã di tản tất cả nhân viên DAO mang theo những tài liệu quan trọng, rồi đặt mìn giật sập trụ sở DAO phá hủy máy móc và hồ sơ sót còn lại.
Đêm hôm đó, phi trường Tân Sơn Nhất bị cộng sản liên tục pháo kích, nhiều người di tản kẹt trong phi trường bị chết hay bị thương, phi trường phải ngừng hoạt động.
Nguyên đêm 29/4/1975, các trực thăng Mỹ di tản liên tục bay qua các vùng cộng sản đóng quân nhưng không hề bị tấn công.
3 giờ 30 sáng 30/4/1975, Đại sứ Mỹ Graham Martin lên trực thăng ra đi, đến 8 giờ 30 sáng cuộc di tản chấm dứt với chừng 5,500 người được Mỹ đưa đi.
Vẫn còn 70 công dân Mỹ không được di tản, 2 xác Thủy Quân Lục Chiến còn quàn tại nhà xác bệnh viện Chúa Cứu Thế, nhiều nhân viên Việt làm cho Tòa Đại Sứ và hầu hết những người có tên trong danh sách 140 ngàn người được Bộ ngoại giao Mỹ cho di tản đều bị kẹt lại ở Việt Nam.
Phi Vụ Cuối Cùng…
Từ trên cao, anh thấy rõ những vị trí của pháo binh cộng sản, anh nghiêng cánh, chúc mũi chiếc Hỏa Long trút xuống tràng đạn 7.62 ly, và tất cả hỏa lực cơ hữu của hai khẩu đại bác 20 ly gắn dưới cánh phi cơ, phòng không cộng sản phản pháo, nhưng phi cơ thoát được lưới đạn.
Phi công Thành quay trở lại phi trường, nạp đạn vào phi cơ, tiếp tục bay thẳng đến phía pháo binh cộng sản nhả đạn, máy bay trúng đạn phòng không, ngang cánh trái, ngay bình xăng, sát cạnh ghế ngồi.
Anh Thành giật mạnh chốt thoát hiểm để bung thân thoát ra, nhưng chốt kẹt cứng, anh dùng tay đẩy cửa buồng lái phóng mình ra, chiếc dù bung mạnh, vướng vào khung cửa phi cơ.
Phi Công Trang Văn Thành bị giữ chặt bởi chiếc dù và khung cửa, chiếc C119 Hỏa Long chìm trong lửa, anh gục chết giữa không gian, trên quê hương, hoàn tất phi vụ cuối cùng.
Giờ Sài Gòn Giờ Hà Nội…
Đọc các bài viết về ngày 30/4/1975 có người dùng giờ Sài Gòn có người dùng giờ Hà Nội, có bài viết chỗ dùng giờ Hà Nội chỗ dùng giờ Sài Gòn, bài này tôi cố gắng chuyển sang giờ Sài Gòn cho bạn đọc dễ theo dõi.
Hai Chiếc Xe Tăng…
Khoảng 10 giờ 30 sáng, máy phát thanh liên tục phát lời Đại Tướng Dương Văn Minh kêu gọi binh sĩ ngừng bắn sửa soạn bàn giao cho phía bên kia.
Cầu Sài Gòn là mũi tiến chính của quân Bắc Việt, trước hỏa lực quá hùng hậu của đối phương, súng hết đạn binh sĩ miền Nam rút dần.
3 xe tăng Bắc Việt vượt cầu Sài Gòn, tìm đường đến dinh Độc Lập, một chiếc bị bắn cháy ở cầu Thị Nghè, hai chiếc còn lại chạy lạc đường phải nhờ người hướng dẫn.
Chừng 11 giờ 45 chiếc xe tăng mang số 843 chạy tới Dinh Độc Lập húc vào cổng phụ bị đứt bánh xích nên kẹt không vào được.
Chiếc tăng số 390 đến sau ít phút húc đổ cổng chính chạy vào trước tiên, nhưng vì là T59 sản xuất tại Trung Quốc, nên trong một thời gian dài phải nhường công chạy vào Dinh trước cho chiếc T54 mang số 843 sản xuất tại Liên Xô.
Chuyện Hai Lá Cờ…
Số phận lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa một thời gian dài được Hà Nội đưa tin là từ nóc Dinh được ném xuống đất, sau này mới biết được Trung Úy Bùi Quang Thận cẩn thận giữ riêng làm kỷ niệm.
Trong bộ phim tài liệu về ngày 30/4/1975, đóng vào đầu tháng 5/1975, ông Bùi Quang Thận mang một lá cờ xanh đỏ sao vàng rất to, không phải là lá cờ cắm trên chiếc xe tăng mang số 843.
Số phận lá cờ xanh đỏ sao vàng được ông Thận đầu tiên cắm trên nóc Dinh Độc Lập không rõ ra sao, vì nó vừa cũ vừa nhỏ nên ngay trưa hôm đó được thay thế bằng một lá cờ mới và lớn hơn.
Ai Bắt Đầu Hàng…
Theo phóng viên người Đức Von Boric Gallasch (lấy bút hiệu Tiziano Terzani), tờ Der Spiegel, thì Đại Úy Phạm Xuân Thệ là người đã theo hai chiếc xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập bắt Đại tướng Dương Văn Minh phải đầu hàng vô điều kiện.
Còn Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203, đến sau nhưng chính là người soạn Tuyên Bố đầu hàng cho Tướng Dương Văn Minh và ông Tùng đọc Tuyên Bố chấp thuận đầu hàng.
Xém Đụng Trận Ngay Trước Dinh
Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cho biết cánh quân này không chấp nhận đầu hàng, họ chỉ rời đi ít phút trước khi hai xe tăng 843 và 390 ủi sập cổng Dinh Độc Lập.
Tại Tân Sơn Nhất cánh quân này vừa bắn cháy 3 xe tăng Bắc Việt, nếu hai xe tăng 843 và 390 biết đường chạy thẳng đến Dinh đã đụng độ với cánh quân nói trên và lịch sử có thể đã khác đi.
Ở một số địa điểm như Tân Sơn Nhất, trại Hoàng Hoa Thám, Bộ Tổng Tham Mưu,… một số binh sĩ miền Nam vẫn kháng cự cho đến khi Đại Tướng Dương văn Minh đọc Tuyên Bố Đầu Hàng.
Còn ở các nơi khác vì lực lượng cộng sản quá hùng hậu, binh lính miền Nam rút về phía trung tâm Sài Gòn, đến khi nghe tướng Minh kêu gọi ngừng bắn thì tự động buông súng tan hàng hay buông súng khi thấy sự xuất hiện của quân miền Bắc.
Không Máy Ghi Âm…
Ông Terzani viết: “nhân viên (Dinh Độc Lập) bỏ trốn mang đi tất cả những gì họ có thể cuỗm”.
Sang Đài Phát Thanh cũng không tìm thấy máy ghi âm nào, ông viết: “Toà nhà cũng vừa trải qua những trận hôi của.” nên cuối cùng phải dùng chiếc máy ghi âm nhỏ của ông để thu lời Tuyên Bố đầu hàng.
Nhận xét của ông Boric Gallasch thiếu công bình cho những người miền Nam, vì đa số các nhân viên Dinh Độc Lập hay Đài Phát Thành khi ấy đều muốn bỏ của họ gầy dựng bao năm để chạy thoát cộng sản.
Những chiếc máy ghi âm vừa gọn, vừa nhỏ, vừa lạ, vừa quý, là kỷ niệm tiếp thu Sài Gòn, người bộ đội có thể mang về miền Bắc khoe với gia đình.
Xin đừng nghĩ xấu cho họ, đó là việc làm bình thường của những người chiến thắng cần có chút gì làm kỷ niệm, nhờ thế Trung úy Bùi Quang Thận mới giữ lá cờ vàng ba sọc đỏ trong suốt 20 năm.
Đạn Lạc…
Người lính Bắc Việt thuộc tiểu đoàn 7 bộ binh tên Tô Văn Thành đang ngồi trên thành xe tăng bị trúng đạn rớt xuống đường, chết ngay trước dinh Độc Lập.
Báo chí đưa tin ông Thành bị Biệt kích dù 81 từ phía trụ sở Bộ Ngoại giao bắn chết, nhưng đạn lạc thì đúng là nguyên nhân dẫn đến cái chết kết thúc trận chiến kéo dài trên 20 năm.
Vị Quốc Vong Thân…
Tại thành phố Melbourne, nơi gia đình tôi đang sống, những anh hùng vị quốc vong thân được thờ trong Đền Thờ Quốc Tổ và có Tượng Đài để ghi nhận ân đức những người đã chiến đấu bảo vệ miền Nam tự do trong hơn 20 năm.
Đoàn Quân Cuối Cùng…
Đến 1 giờ trưa, Đại Tướng Dương Văn Minh lên Đài Phát Thanh Tuyên bố đầu hàng, bà con lối xóm đều vui vì chiến tranh chấm dứt, nhưng lại lo âu khi nghĩ đến tương lai.
Chừng 1 giờ 30, chính mắt tôi chứng kiến một đội lính Việt Nam Cộng Hòa chừng 20 người đủ mọi binh chủng đi đầu là một sĩ quan Dù rất trẻ mang súng lục, những người đi sau súng ống đầy đủ, hàng ngũ chỉnh tề, tiếp tục bảo vệ người dân khu phố.
Những người lính cộng hòa chỉ tan hàng khi thấy bóng dáng của bộ đội cộng sản, chính nhờ họ Sài Gòn mới được chuyển giao một cách bình yên cho Quân Đội Bắc Việt.
Những Người Cộng Sản Đầu Tiên…
Tôi chuyển sang đường Hồng Thập Tự, hướng về Dinh Độc Lập, đã thấy một số bộ đội cộng sản trên những xe Jeep với lá cờ xanh đỏ sao vàng.
Một số biệt thự chủ nhân đã di tản bị hôi của, bộ đội bắn chỉ thiên giải tán, nhưng không dám đến gần đám đông để tịch thu đồ vật.
Tôi đến Dinh Độc Lập sau 3 giờ chiều, bộ đội miền Bắc đã đóng quân trong và ngoài Dinh, dân Sài Gòn đến xem bộ đội miền Bắc khá đông.
Những bộ đội với nón cối và dép râu những thứ mà tôi chưa hề gặp, họ đều rất trẻ, vui vẻ trả lời những câu hỏi với cùng một giọng điệu, cùng một bài bản được học tập trước ngày tiếp thu Sài Gòn.
Tôi đi thẳng ra Chợ Sài Gòn chứng kiến cảnh sinh hoạt bắt đầu trở lại, quanh Dinh Độc Lập và Chợ Sài Gòn đã bắt đầu có những trao đổi bằng tiền Hồ Chí Minh, Sài Gòn là vậy, vừa thoát chết là có người nghĩ ngay đến bán buôn.
Tôi nghe những tiếng nổ lớn, như đạn súng cối, từ phía Dinh Độc Lập, tiếp theo là những tiếng súng đủ loại. Sau này mới biết là hai cánh quân cộng sản không biết vì lý do gì bắn lẫn nhau.
Tôi vội quay về nhà, trên đường về tôi chứng kiến những xe tăng và quân xa bộ đội, có thể, đang trên đường chuyển quân về miền Tây.
Ngay cuối đường Hồng Thập Tự gần ngã sáu Cộng Hòa, một chiếc xe tăng bị bắn cháy, tôi không nhớ xe tăng phía bên nào.
Tối xem truyền hình, người xướng ngôn viên nói tiếng Nam khuôn mặt đằng đằng sát khí, hùng hổ đưa tin về Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng, miền Nam đã hoàn toàn giải phóng.
Ngày hôm sau, xướng ngôn viên khác xuất hiện trên truyền hình với khuôn mặt và giọng nói ít cộng sản hơn, nhưng tin tức thì cũng vẫn một giọng tuyên truyền, khác hẳn với tin tức thời Việt Nam Cộng Hòa.
45 Năm Nhìn Lại…
Cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa, một xã hội chưa ai hình dung được hình dáng của nó, không tiến được thì lùi, cộng sản đã lùi về cách quản lý kinh tế thời Việt Nam Cộng Hòa.
Giá trị vật chất có thể phục hồi, nhưng giá trị tinh thần như niềm tin, giáo dục, văn hóa, thể chế, tự do, dân chủ và nhân quyền của người miền Nam đã mất khó có thể phục hồi.
Ngày 30/4/1975, Đại Úy Phạm Xuân Thệ tay lăm le khẩu súng lục, cùng Trung tá Bùi Văn Tùng không nói chuyện bàn giao với Ngụy quyền bắt Đại tướng Dương Văn Minh phải đầu hàng vô điều kiện.
Người cộng sản ngày nay phải công nhận thế chính danh của Việt Nam Cộng Hòa, nhưng vì từ chối bàn giao nên mất đi sự nối tiếp, sự thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông trên Công Pháp Quốc Tế.
Ngày 30/4/1975, quả là ngày đen tối nhất trong lịch sử cận đại Việt Nam.
Saigon Trùng Trùng Nỗi Nhớ
Hình chụp hôm 24/3/1975, tàu Hải quân Việt Nam Cộng Hoà chở dân di tản từ Huế cập bến Đà Nẵng.
Vua nước Chiêm Thành là Chế Mân, người anh hùng chiến thắng cả được quân Nguyên Mông, thế mà lại phải đầu hàng trước nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành của Huyền Trân Công Chúa. Ông liền dâng cả miền đất của Châu Ô, Châu Rí cho Việt Nam để làm quà sính lễ xin cưới Huyền Trân về làm vợ. Nàng hy sinh, giúp mở được con đường Nam Tiến. Vua Trần đổi tên hai châu thành Thuận Châu và Hoá Châu, gọi tắt là Thuận Hoá. Chữ “Hoá” dần dần đọc trại đi thành “Huế.”
Câu chuyện lãng mạn ấy đi đôi với cái phong cảnh nhẹ nhàng, quyến rũ của miền đất này. Lăng tẩm, Thành nội, Thành ngoại, đầm sen toả hương thơm ngát. Rồi những buổi chiều tím, những đêm trăng mờ, những con đò nho nhỏ. Nếu ta dừng lại ở vài bậc chót khi lên Chùa Thiên Mụ mà ngắm cảnh hoàng hôn rực rỡ trên dòng Sông Hương thì sẽ thấy lòng mình lắng xuống, rồi như bị cuốn vào với tiếng chuông chùa, ngân vang vào không trung: ai đi xa Huế làm sao quên được Sông Hương?
Cái cảnh nửa đi nửa ở không phải chỉ ám ảnh người lữ khách khi phải lìa xa nơi Cố đô, nhưng nó còn làm cho các nhà quân sự trăn trở không ít khi phải vĩnh biệt chốn Kinh Kỳ vào cuối tháng Ba năm ấy. Lúc thì cố thủ, lúc thì rút quân, rút xong lại muốn quay về giữ Huế, cứ dùng dằng mãi.
Trong một báo cáo tối mật của Tướng Fred Weyand gửi Tổng Thống Gerald Ford sau chuyến viếng thăm chiến trường Miền Nam vào cuối tháng 3, 1975, ông nói tới hậu quả bi đát của việc cúp hết viện trợ làm tê liệt khả năng chiến đấu của Việt Nam Cộng Hoà. Về cuộc họp tại Dinh Độc Lập trước khi bỏ Huế (13/3), ông bình luận:
“Trong mười hai ngày tiếp theo sau bưổi họp này (từ 13 tới 25), có sự băn khoăn lớn lao (critical desolation) từ phía Quân Đoàn I và Sàigòn về việc nên giữ lại những phần nào ở Quân Đoàn I, nhất là về việc có nên hay không nên giữ Huế”.
TIẾN THOÁI LƯỠNG NAN
◾Anh Trưởng hả? Liệu có giữ được Huế không?
Tổng Thống Thiệu hỏi Tướng Ngô Quang Trưởng qua điện thoại. Hôm đó là ngày 25 tháng 3, 1975. Một cuộc họp tại Dinh Độc Lập dưới quyền chủ toạ của Tổng Thống Thiệu lúc 9 giờ 30 sáng. Hiện diện: ngoài Phó Tổng Thống Trần Văn Hương và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm.
Về phía quân sự: Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên.
Về phía dân sự: Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc, Tổng Trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng.
Khi mọi người đã đến đông đủ, một bầu không khí im lặng ghê rợn bao phủ phòng họp. Những điểm mầu đỏ đánh dấu vị trí đồn trú của quân đội Bắc Việt trên tấm bản đồ lớn trên tường đã mọc lên như nấm. Cuộc duyệt xét tình hình quân sự bắt đầu.
Sau khi Tướng Khuyên trình bày về tình hình Quân Khu I và II, Tổng Thống Thiệu nhấc máy điện thoại gọi Tướng Trưởng hỏi xem có giữ được Huế hay không. Rồi ông nhắc lại câu trả lời từ đầu giây bên kia:
◾Trung Tướng Trưởng: “Nếu có lệnh, thì giữ.”
◾Tổng Thống Thiệu: “Liệu giữ được bao lâu?”
◾Trung Tướng Trưởng: “Ngày một ngày hai.”
◾Tổng Thống Thiệu: “Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ.”
Vì những biến cố về Huế còn đặt ra nhiều nghi vấn nên chúng tôi đã ghi lại thật rõ trong cuốn sách Tâm Tư Tổng Thống Thiệu về những diễn tiến ở Dinh Độc Lập có liên hệ tới Quân Đoàn I vào tháng 3/1975, cùng với suy tư của Tổng thống Thiệu và Trung Tướng Trưởng. Thêm vào đó là tường thuật của Đại Tướng Viên và những tài liệu của Hoa Kỳ (xem Tâm Tư Tổng Thống Thiệu, Chương 3).
CUỘC HỌP TẠI DINH ĐỘC LẬP NGÀY 19 THÁNG 3
Trong bối cảnh ấy thì sáng ngày 19/3, Tướng Trưởng bay vào Sàigòn để trình bày kế hoạch rút lui lên tổng thống, lần này có sự hiện diện của cả Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Sự hiện diện của cụ Hương là việc bất thường, vì xưa nay khi bàn chuyện quân sự ông Thiệu thường chỉ mời có các ông Khiêm, Viên và Quang mà thôi. Chắc lúc đó, ông phải nhờ đến sự ủng hộ của Phó Tổng Thống để thuyết phục Tướng Trưởng nên bỏ Huế.
Theo Đại Tướng Viên thuật lại trong cuốn Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hoà (trang 162-163):
Tướng Trưởng trình bày kế hoạch với hai giải pháp:
Kế hoạch thứ nhất: nếu Quốc lộ 1 còn sử dụng được, quân ông sẽ rút từ Huế về Đà Nẵng và từ Chu Lai về Đà Nẵng.
Kế hoạch thứ hai: nếu Quốc lộ 1 bị cắt, các lực lượng sẽ rút vào ba cứ điểm là Chu Lai, Huế, và Đà Nẵng, nhưng Huế và Chu Lai chỉ là hai nơi tập trung quân để cuối cùng thì rút về Đà Nẵng bằng đường biển. Đà Nẵng sẽ là điểm phòng thủ chánh do bốn Sư Đoàn Bộ Binh và bốn Liên Đoàn Biệt Động Quân.
Vì lúc ấy không thể rút quân theo kế hoạch thứ nhất được vì đoạn đường Huế – Đà Nẵng, Chu Lai – Đà Nẵng đã bị chốt, làn sóng tỵ nạn lại đang từ mọi ngả dùng con lộ duy nhất này để chạy về Đà Nẵng, nên Tướng Trưởng kết luận: “Chúng ta chỉ có một chọn lựa, và chúng ta phải thi hành ngay trước khi quá trễ”. Chọn lựa của Tướng Trưởng là rút quân về Huế, Đà Nẵng, Chu Lai và lợi dụng những công sự phòng thủ đã có trong thành phố, hay địa hình chung quanh, như những cao điểm của những ngọn đồi ngoại thành để chống cự.
Trong cuộc họp ngày 19 tháng 3, Tổng Thống Thiệu kể lại là ông đã miễn cưỡng chấp thuận kế hoạch thứ hai của ông Trưởng vì ông Trưởng nói không còn đường nào tháo lui khỏi Huế được nữa vì Quốc lộ 1 đã bị chặn: “Tôi nói với tướng Trưởng là mặc dầu lịch sử có thể phán xét tôi như một thằng ngu (imbécile) nhưng vì lòng tôi đối với đất nước, tôi đồng ý”. Sau đó ông Thiệu tiễn ông Trưởng ra khỏi Dinh Độc Lập và nói:
– Tôi đợi đến khi anh về tới Đà Nẵng rồi sẽ tuyên bố cố thủ Huế trên đài phát thanh.
Tổng Thống Thiệu thêm: khi về tới Đà Nẵng thì “Ông Trưởng gọi điện thoại để yêu cầu tôi hãy hoãn lại việc tuyên bố tử thủ Huế trên đài phát thanh, vì có thể ta không giữ nổi Huế”. Tôi hỏi tại sao Tướng Trưởng lại thay đổi? Tổng Thống Thiệu trả lời: “Lý do là khi máy bay vừa đáp xuống Đà Nẵng, Tướng Trưởng nghe Tướng (Lâm Quang) Thi, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I báo cáo là Quân Đội Bắc Việt đã bắt đầu pháo vào Bộ Chỉ Huy rồi.
Việc Tướng Thi báo cáo Bộ Tư Lệnh của ông đã bị pháo thì Đại Tướng Viên cũng xác nhận trong cuốn hồi ký của ông (sđd., trang 164-165). Nhưng việc Tướng Trưởng xin hoãn tuyên bố cố thủ Huế trên đài phát thanh thì chưa thấy ai nói tới. Cũng theo lời Tổng Thống Thiệu, vì ông đã miễn cưỡng đồng ý với Tướng Trưởng về việc giữ Huế mà bây giờ lại thấy ông Trưởng dè dặt, lung lạc nên nhân cơ hội này, ông Thiệu lại nói thêm về việc nên bỏ Huế. Ông cho ông Trưởng biết là cả Phó Tổng Thống, cả Thủ Tướng đều chống lại việc giữ cả hai nơi – Huế và Đà Nẵng – cùng một lúc.
Nhưng mặc dù Tổng Thống Thiệu tỏ ý dè dặt, Tướng Trưởng vẫn tiến hành kế hoạch giữ ba cứ địa Huế, Chu Lai và Đà Nẵng, vì Quốc Lộ 1 đã bị chận rồi, không thể rút được nữa, vả lại ông cho rằng Tổng Thống tuy dè dặt nhưng chưa rút lại lệnh đó.
Vào thời điểm này thì đài BBC luôn loan báo đầy đủ chi tiết về cuộc triệt thoái Pleiku và tiên đoán là quân đội Bắc Việt sẽ tới vùng phụ cận Sàigòn trong vòng vài ba tuần lễ vì Quốc lộ 14 từ Ban Mê Thuột đã mở rộng.. Đài VOA thì tường thuật về vụ nhóm Dân chủ ở Hạ viện đã bỏ phiếu chống viện trợ bổ túc cho Miền Nam (ngày 12 tháng 3) với số phiếu 189-49; rồi nhóm ở Thượng viện theo sau với số phiếu 34-6. Binh sĩ nghe liên tục như vậy nên tinh thần sa sút rất nhanh. Từ Miền Trung, đơn xin tiếp liệu về thực phẩm, dược phẩm, nhà tạm trú cho gia đình binh sĩ và nhân dân di tản tới tấp bay về Sàigòn, nhưng chính phủ trung ương đã hầu như cạn kiệt
Ngày 23 tháng 3, 1975, theo Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn trong hồi ký Đất Nước Tôi: “Tướng Trưởng họp bộ tham mưu tại Đà Nẵng, ra chỉ thị cho Tướng Thi tử thủ Huế nhưng đồng thời phải có kế hoạch để sẵn sàng di tản về Đà Nẵng nếu tình thế đòi hỏi. Đến đây ai cũng nhận thấy tình hình cố đô Huế rất nguy kịch, nếu không nói là tuyệt vọng”. Sau đó, sáng ngày 24 tháng 3, Tướng Thi và Bộ Tư Lệnh Tiền Phương đáp tàu Hải Quân đi Đà Nẵng…”
Ngày 25 tháng 3, theo Đại Tướng Viên: “Tất cả các đơn vị của quân đoàn I tụ lại tại ba phòng tuyến chánh: nam Chu Lai, Đà Nẵng (kể cả Hội An) và Bắc thành phố Huế… Tinh thần binh sĩ xuống thấp và chán nản. Từ lâu, chinh chiến hết trận này đến trận nọ, nhưng chưa bao giờ họ nằm trong cảnh tuyệt vọng như vầy… Trong tình thế thất vọng đó, Quân Đoàn I nhận thêm một quân lệnh từ Dinh Độc lập: Tổng Thống Thiệu ra lệnh Tướng Trưởng dùng ba Sư Đoàn cơ hữu của Quân Đoàn để phòng thủ Đà Nẵng. Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến được đóng vai trừ bị. Đêm đó tướng Trưởng ra lệnh cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh và các đơn vị chung quanh Huế rút về Đà Nẵng…”
“Kế hoạch di tản lực lượng khỏi Huế bắt đầu bằng cách cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh và các đơn vị cơ hữu của Sư Đoàn rút ra Cửa Tư Hiền…” (sđd., 171)
.
LỆNH BỎ HUẾ NGÀY 25/3/1975
Như viện dẫn ở đầu bài, trong buổi họp ngày 25/3, sau khi Tổng Thống Thiệu hỏi Tướng Trưởng “nếu ông quyết định giữ Huế thì được bao lâu,” ông Trưởng trả lời là chỉ giữ được “ngày một ngày hai,” ông Thiệu lập lại cho mọi người nghe, rồi ra lệnh: “Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ.”
Tới đây ông Thiệu không nhắc lại thêm các câu trả lời sau đó của ông Trưởng nữa. Ông đặt ống nói xuống, và nói: “Ông Trưởng rất depressed” (chán nản). Sau khi tham khảo với Đại Tướng Viên, Tổng Thống Thiệu ra chỉ thị cho ông gửi công điện cho Tướng Trưởng, đưa ra ba lệnh (và tôi ghi rất rõ ràng xuống cuốn sổ tay còn giữ được):
“Thứ nhất, bỏ Huế;
“Thứ hai, phải làm cho lẹ; và
“Thứ ba, tử thủ Đà Nẵng.”
Tổng Thống Thiệu thở dài: “Mình trông cậy vào ba ‘enclaves’ (cứ điểm), mà bây giờ chỉ còn một ở Đà Nẵng..” Nghe vậy, ông Bắc và tôi bàng hoàng nhìn nhau. Như vậy là đã có lệnh chính thức bỏ Huế.
Trong cuốn “Decent Interval”, tác giả Frank Snepp viết về lòng thương của Tướng Trưởng đối với binh sĩ và hậu quả như sau:
“Đang khi Tướng Trưởng trình bày với Tổng Thống Thiệu về kế hoạch của ông thì số quân mà ông cần để thi hành kế hoạch này lại đang tan rã (disintegrating). Và đó là lỗi ông ta một phần (He was partly to blame). Mấy ngày trước đó ông đã cho phép quân nhân của Sư Đoàn I được phép lo cho an toàn của gia đình họ. Ông đã làm như vậy là vì lòng thương của một Tư Lệnh đối với binh sĩ, nhưng khi Quốc lộ I đã bị chận rồi thì chỉ thị này đã dẫn tới hỗn loạn, vì sĩ quan cũng như quân nhân đã bỏ đồn từng loạt để lo cho thân nhân tìm lối thoát.”
Nơi đây, tôi mở ngoặc để nhắc lại về tình trạng kinh tế khó khăn của thân nhân người binh sĩ trước khi sụp đổ. Từ mùa Hè 1974, sau khi giá xăng dầu tăng lên gấp ba lần, ngân sách không còn đủ khả năng tăng lương cho quân đội để đáp ứng với lạm phát vì viện trợ đã bị cắt gần hết. Chính phủ chỉ định cho mỗi Bộ nhận một Sư Đoàn để tìm cách giúp đỡ.. Sư Đoàn 1 được giao cho Bộ Kế Hoạch. Trong một chuyến đi Huế thăm Sư Đoàn này, chúng tôi được Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm đưa đi thăm hỏi gia đình binh sĩ. Ông tâm sự rằng để cho thân nhân sống trong các lều, bạt ngay sát trại như thế này thì thật là nguy hiểm khi bị pháo kích và cũng thật khó khăn khi phải chuyển quân, nhưng phải chấp nhận vì với số lương quá ít ỏi, người lính phải chi tiêu chung với gia đình. Thật vậy, với 20,000 đồng một tháng (mãi lực bằng khoảng $28 đô la), người quân nhân chỉ có thể mua gạo, nước mắm cho gia đình, còn lại rất it cho những nhu cầu khác như thuốc men, may mặc, giáo dục con cái, giải trí.
*
Ngày 26 tháng 3, 1975 một buổi họp tiếp theo tại Dinh Độc Lập vào lúc 10 giờ sáng. Có mặt tại buổi họp: Tổng Thống Thiệu, Ngoại Trưởng Bắc và chúng tôi. Cuộc họp này là để bàn về việc tìm cách để cấp tốc khai thác hai bức thư của Chủ Tịch Thượng Viện Trần Văn Lắm và Chủ Tịch Hạ Viện Nguyễn Bá Cẩn viết cho hai Chủ Tịch Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ngày hôm trước (25 tháng 3). Giữa cuộc họp thì Tổng Thống Thiệu lại nhấc điện thoại nói chuyện với Tướng Trưởng về Huế:
– Tổng Thống Thiệu: “Anh Trưởng hả? Tình hình Huế thế nào?’
– Tướng Trưởng: (theo như lời ông Thiệu nhắc lại trong phòng họp): “Đang bị đánh vài trận.”
Cùng ngày bỏ Huế, Tổng Thống Thiệu chỉ thị cho tôi trình ông bản thảo chót về bức thư cầu cứu Tổng Thống Ford. Mở đầu có câu: “Thưa Tổng Thống, lúc lá thư này tới tay Ngài, thành phố Huế có lẽ đã bị bỏ ngỏ, và rất có thể chính Sàigòn cũng bị đe doạ.” Ông Thiệu gạch ngay câu mở đầu đi vì Huế đã bị bỏ ngỏ rồi. Trên đầu thư chúng tôi đề “Saigon, March…, 1975” để trống con số về ngày gửi, vì chưa biết ông định gửi thư ngày nào. Lúc ấy ông lấy bút chì xanh viết xuống số “25” thật to, tức là “Saigon, March 25, 1975..” Tôi còn nhớ rõ khuôn mặt buồn thảm của ông lúc ấy. Ông bảo tôi đưa bản văn cho Chánh Văn Phòng Tổng Thống là Đại Tá Cầm để cho đánh máy và chuyển cho Đại Sứ Graham Martin ngay.
Gửi thư đi rồi, Tổng Thống Thiệu chờ đợi từng giây phút về phản ứng của Tổng Thống Ford..
Nhưng nhận được thư SOS, Tổng Thống Ford lờ đi, không hồi âm, măc dù khi lên nhậm chức Tổng Thống thay Tổng Thống Nixon vào mùa hè 1974 ông đã viết cho Tổng Thống Thiệu ngay ngày làm việc đầu tiên tại Toà Bạch Ốc: “Những cam kết mà nước Mỹ đã hứa hẹn với Việt Nam Cộng Hoà trong quá khứ vẫn còn hiệu lực và sẽ được hoàn toàn tôn trọng trong nhiệm kỳ của tôi” (thư ngày 10 tháng 8, 1974, xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 194-196). Tổng Thống Ford chỉ làm một nghĩa cử để biểu diễn. Trong cuốn hồi ký A Time to Heal (1979) ông viết lại:
“Chiều ngày 25 tháng 3 (ngày 26 giờ Sàigòn), tôi họp với các ông Kissinger, Scowcroft, Martin và Tướng Weyand, Tham Mưu Trưởng Lục Quân. Mọi người đều biết là tình hình Miền Nam rất trầm trọng, nhưng chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào. Tôi yêu cầu ông Weyand bay sang Sàigòn sớm nhất có thể, ở đó một tuần rồi mang về một báo cáo đầy đủ.”
Nói rằng “Chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào” thì đúng là nói dối. Ông đã nhận được thư SOS của Tổng Thống Thiệu và của lưỡng viện Việt Nam Cộng Hoà, lại đươc nghe Đại Sứ Graham Martin từ Sài gòn về báo cáo. Sau này Đại Sứ Martin còn nói lại với chúng tôi là sau khi ông họp nhiều lần với Tổng Thống Thiệu, cũng như đã có đầy đủ tin tức chiến trường do ông Polgar (Giám đốc CIA ở Sàigòn) cung cấp, ông đã báo cáo rất chi tiết cho cả hai ông Kissinger và Ford. Như vậy là trong hồi ký, trước sự đã rồi, Tổng Thống Ford chỉ biện luận cho hành vi phản bội của mình.
HỒN KHÍ LINH THIÊNG NƠI CỐ ĐÔ
Vừa rút khỏi Huế buổi sáng thì bưổi chiều lại một tin sét đánh, hy vọng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà để có chút tiền sống cầm hơi đã bị tan biến. Vào cuối năm 1974, một tia sáng loé lên. Có ông vua dầu lửa người xứ Arabia chiếu cố đến Miền Nam. Vua Saud al Faisal cho biết ông có rất nhiều thiện cảm với nhân dân Miền Nam và đã bí mật đồng ý cho Miền Nam vay một số tiền để mua tiếp liệu (xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 474).
Thật là một cơ hội quý báu. Đang lúc nguy kịch lại có nhà hảo tâm đến cứu. Vua Faisal bằng lòng cho vay dài hạn $300 triệu (để bù đắp cho số tiền vừa bị Quốc Hội Mỹ vét nạo hết). Bao nhiêu hy vọng tràn trề. Họp lên họp xuống, nhất thiết là phải thực hiện ngay kế hoạch này để tới 1975/76 còn giữ được một phần lượng nhập cảng những hàng thiết yếu. Đặc biệt là dầu, xăng, thực phẩm, thuốc men, và phân bón. Nếu quá khan hiếm những sản phẩm này thì chắc chắn sẽ có khủng hoảng lớn.
Nhưng đúng là “hoạ vô đơn chí.” Những cái rủi ro nó hay theo nhau mà đến. Đang lúc chúng tôi sửa soạn để cùng với Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc lên đường đi Riyadh đàm phán, mong sớm có giải ngân, thì đùng một cái, vua Faisal bị chính cháu ruột mình sát hại một cách thảm thương ngay trong hoàng cung.
Chính phủ Miền Nam bàng hoàng. Tổng Thống Thiệu gửi điện văn chia buồn cùng Hoàng gia, nói tới nghĩa cử cao đẹp của ngài Faisal, cầu xin cho Allah sớm đưa Ngài về nơi cực lạc. Vì tình cảm cao đẹp ấy, Việt Nam Cộng Hoà yêu cầu Hoàng gia tiếp tục thực hiện công cuộc yểm trợ Miền Nam như Ngài đã vạch ra.
Thế nhưng, trong lúc tang gia bối rối, tình hình quốc nội xáo trộn, Hoàng gia Saudi đâu còn thời giờ hay tinh thần mà để ý đến chuyện của nước khác.
Đứng về khía cạnh tâm linh, tôi tự hỏi làm sao lại có sự trùng hợp giữa cố đô Hoàng Triều Huế và ông vua xứ Saudi cùng một ngày như vậy? Phải chăng đã đến lúc vận nước suy tàn?
Nguyễn Tiến Hưng
Chuyện về kiến trúc sư tài ba Ngô Viết Thụ
Tuổi thơ nghèo khó cùng mối nhân duyên tiền định
Con đường đến với giải “Khôi nguyên La Mã”
Trở về phụng sự cho đất nước
Không màng danh lợi
Những công trình nổi tiếng
Văn diù cánh Phượng yên trăm họ
Võ thét oai Hùm dẹp bốn phương
Quốc Hội Hoa Kỳ “Vinh Danh Quân Lực VNCH”-Những Đồng Minh Anhh Hùng
|
-Ngô Kỷ chuyển ngữ bài "Những Đồng Minh Anhh Hùng"
Little Saigon ngày 19 tháng 6 năm 2020
Kính thưa Quý Đồng Hương và các Facebookers,
Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 tháng 6 lại về, tôi xin viết những lời tưởng nhớ ngày trọng đại và ý nghĩa này. Điều tôi cần minh xác là tôi trân quý Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 tháng 6 trong cái ý nghĩa biết ơn, ca ngợi sự hy sinh cao cả và đóng góp lớn lao của tất cả chiến sĩ thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chứ ngày này không thuộc về bất cứ cá nhân nào, phe phái nào, “triều đại” nào, và lẽ dĩ nhiên không phải là ngày của “Nguyễn Cao Kỳ” như một số tay chân, thuộc hạ của y rêu rao.
Miền Nam Việt Nam có lúc thăng, lúc trầm, có lúc thịnh, lúc suy. có lúc ổn định, lúc bất an, và chính những lúc tình hình chính trị quốc gia bị bất ổn, xáo trộn thì lúc đó Quân Đội tạm thời đứng ra gánh vác chuyện ổn định xã hội trong khi chờ đợi Hiến Pháp quyết định thành lập chính phủ dân sự. Đối với tôi, chỉ những chế độ “quân phiệt” thì quân đội mới lãnh đạo đất nước, và hầu hết các quốc gia thuộc chế độ “quân phiệt” đều bị lãnh đạo bởi bọn độc tài, ác ôn như Miến Điện chẳng hạn. Miền Nam Việt Nam là một quốc gia dân chủ, do đó nhiệm vụ của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa là chiến đấu chống quân thù để bảo vệ đất nước và dân tộc. Tôi rất khó chịu khi nghe hay đọc những lời “tâng bốc” và nịnh bợ của những tên bộ hạ hèn tướng Nguyễn Cao tiếm danh rằng Ngày Quân Lực 19 tháng 6 là ngày Nguyễn Cao Kỳ. Do sự nghiệt ngã của đất nước, thời thế đã vô tình đưa đẩy hèn tướng Nguyễn Cao Kỳ trở thành chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, và ngày 19 tháng 6 là “Ngày Quân Lực” ra đời, tuy nhiên đối với tôi đây chỉ là một ngày được chọn để tưởng nhớ và ca ngợi tập thể chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, giống như Hoa Kỳ có ngày Armed Forces Day vào mỗi thứ Bảy lần thứ ba trong tháng Năm hàng năm mà thôi. Bất cứ sự truyên truyền lố bịch và tào lao nào làm giảm đi giá trị thiêng liêng và ý nghĩa cao quý của Ngày Quân Lực 19 tháng 6, đều đáng bị lên án và phỉ nhổ.
Kính thưa Quý Đồng Hương,
Lý do mà tôi viết bài này là vì tôi muốn chứng minh rằng tôi dù không phải là Lính, nhưng tôi vẫn luôn kính trọng, biết ơn và quý mến những ngưới Lính Việt Nam Cộng Hòa. Chính vì thế, bất cứ cơ hội nào có được, tôi luôn nhớ đến người Lính và lấy làm hân hạnh, vinh dự lên tiếng ca ngợi người Lính Việt Nam Cộng Hòa trước mọi người, mọi nơi. Việc làm của tôi dành cho người Lính Việt Nam Cộng Hòa quá bé nhỏ so với công lao và sự hy sinh cao cả của họ, tuy nhiên tôi tận dụng hết khả năng nhỏ bé và phương tiện hạn hẹp của mình để cố gắng chu toàn một phần nào bổn phận của “kẻ hậu phương nhớ ơn người Lính Việt Nam Cộng Hòa..”
Nếu quý vị nào không thích bài viết này, xin vui lòng Delete tại đây. Xin đa tạ và xin cáo lỗi..
Trân trọng,
Ngô Kỷ
ngokycali@gmail.com
Tel: (714) 404-7022
Hộp thơ: PO. Box 836
và vừa xem 300 tấm hình về cuộc chiến đấu anh dũng và hào hùng
của các Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
|
|
và Công Nhận Ngày Quân Lực 19 tháng 6
https://www.govtrack.us/congre ss/bills/106/hconres322/text/i h
[PDF]
CONGRESSIONAL RECORD—SENATE July 11, 2000Biên Bản Buổi Điều Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ về Bản Nghi Quyết 322 Vinh danh Quân Lực VNCH
Xin bấm Youtube ở dưới để vừa nghe đọc bài “Những Đồng Minh Anh Hùng,”
và vừa xem 300 tấm hình về cuộc chiến đấu anh dũng và hào hùng
của các Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
Xin bấm Youtube Audio để nghe Anh Trần Minh đọc
https://www.youtube.com/watch? v=ntMVzXZ95bA
|
http://www.vlink.com/nlvnch/je nnifer/dongminh.html
http://www.bietdongquan..com/ba ochi/diendan/quandiem/nhungdon gminhanhhung.htm
http://huongduongtxd.com/heroi c_allies.pdf
Những Đồng Minh Anh Hùng
“Heroic Allies”
của Harry F. Noyes III
đăng trong Nguyệt San VIETNAM, phát hành tháng 8 năm 1993
Do Ngô Kỷ chuyển ngữ để kính tặng và tri ân sự chiến đấu dũng cảm
và tuyệt vời của những Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Họ dáng người thì nhỏ nhắn, nói chuyện bằng những âm ngữ líu lo, thường chan nước mắm vào thức ăn và hay cầm lấy tay nhau.
Chẳng ai ngạc nhiên lắm khi thấy những quân nhân Mỹ gởi qua Đông Nam Á – phần lớn họ còn rất trẻ, có một kiến thức nông cạn, được đào tạo trong một xã hội vị kỷ và hiểu rất ít về những nền văn hóa khác – họ không cảm thông được tâm trạng của các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Thật đau lòng khi có nhiều cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam lại đi cấu kết với cái đám phản chiến cấp tiến, những tên trốn quân dịch và bọn chính khách hoạt đầu xúm nhau bôi nhọ danh dự của một Quân Lực đã chẳng còn có cơ hội để được tự bào chữa. Nhục mạ một quân đội đã sa cơ trên chiến trường vì bị Hoa Kỳ phản bội là một hành động đê tiện và bất xứng của những người Hoa Kỳ.
Có thể một số quý vị sẽ ngạc nhiên về lý luận của tôi. Làm sao tôi có thể biện hộ cho quân lực VNCH được? Phải chăng tất cả binh sĩ VNCH đều thuộc loại bất tài, xảo trá và hèn nhát? Không, không phải vậỵ. Trong bài này tôi sẽ vạch ra một số bằng chứng xác đáng để phản bác lại cái luận điệu đê hèn đó và phân tích lý do tại sao cái luận điệu đó phát sinh. Dĩ nhiên, quân đội VNCH không toàn hảo. Họ cũng có một số lãnh đạo tồi tệ, một số lính tráng hèn nhát, vài ba lần hoảng hốt bỏ chạy, xằng bậy và hung bạo. Tuy nhiên, các điều này cũng đã từng xảy ra đối với quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại Đông Nam Á.
Trong một số lãnh vực như: tổ chức, tiếp vận, tham mưu và chỉ huy, quân đội VNCH thua kém quân đội Hoa Kỳ thật. Nhưng họ làm gì khác hơn được khi đất nước họ là đất nước đang phát triển, họ mới giành độc lập từ tay chế độ thuộc địa và bất ngờ lao vào một trận chiến khốc liệt, đối đầu với kẻ thù hung hăng được vũ trang hùng hậu từ cả khối Cộng Sản? Thật ra, các khuyết điểm của quân đội VNCH có cũng giống như các khuyết điểm mà quân đội Hoa Kỳ mắc phải trong Trận Chiến Dành Độc Lập, dù rằng Hoa Kỳ vào thời cuối thế kỷ 18 đó có nhiều lợi điểm hơn, như:
– Tầm vóc của Cuộc Cách Mạng Dành Độc Lập hạn hẹp hơn và dễ điều khiển hơn.
– Khác với sự bị trị của Việt Nam, Hoa Kỳ qua kinh nghiệm bị trị đã nuôi dưỡngtinh thần tự trị địa phương và tạo thuận lợi cho quốc gia đào tạo nên những nhà lãnh đạo ưu tú.
– Quân đội Hoàng Gia Anh không bền bỉ như quân đội Bắc Việt.
– Có phải các binh sĩ Hoa Kỳ giỏi giang hơn các chiến hữu đồng minh của họ đến độ người Mỹ đối xử miền Nam Việt Nam với một thái độ khinh rẻ như vậy.
Câu trả lời cho cả hai câu hỏi trên là: “Không!”
Bằng chứng cho câu trả lời đó thật rõ ràng. Ý đồ Tổng Công Kích Tết Mậu Thân của Cộng quân là bẻ gẫy ý chí pḥòng thủ của miền Nam Việt Nam. Nhưng chúng đã thất bại, binh sĩ VNCH đã chống trả một cách quyết liệt và hữu hiệu: không một đơn vị nào bị tan rã hay tháo chạỵ. Thậm chí cảnh sát cũng đã chiến đấu, họ dùng cả súng lục để bắn lại bộ đội chính quy của Bắc Việt trong khi những người bộ đội CS này thì lại được võ trang với vũ khí hạng nặng. Theo báo cáo cho thấy là vào thời điểm đó, số người tình nguyện nhập ngũ lên quá cao, đến nỗi chính phủ phải ngưng tuyển mộ lính trong một thời gian.
Trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, các binh sĩ VNCH bị vây hãm tại An Lộc đã anh dũng tử thủ chống trả lại lực lượng hùng hậu của địch, cùng với những trận mưa pháo bất tận, và cuối cùng họ đã đè bẹp được những trận tấn công liên tục của các chiến xa địch quân. Sau đó, tôi được một cố vấn Mỹ kể lại chuyện một tiểu đội bộ binh VNCH được lệnh phải phá hủy 3 chiếc xe tăng của địch. Ông kể:
– Các binh sĩ của tiểu đội này phá hủy được một chiếc xe tăng, rồi sau đó họ lại tự quyết định bắt sống hai chiếc xe tăng kia. Họ rượt bộ và bắt được thêm một chiếc nữa, còn chiếc kia thì chạy thoát. Khi trở về pḥòng tuyến, họ bị khiển trách nặng nề.. vì đã để chiếc xe tăng kia tẩu thoát.”
Tuy hành động của tiểu đội lính này không đúng với quân kỷ lắm, nhưng cái hành động đó đã nói lên tinh thần chiến đấu cao độ và sáng kiến tác chiến của rất nhiều binh sĩ VNCH. Chắc chắn sự kiện trên không thể hổ trợ luận điệu cáo buộc họ hèn nhát được.
Một chứng cớ điển hình hơn, trong những giờ phút cuối cùng của miền Nam Việt Nam năm 1975, khi mà nỗi tuyệt vọng bao trùm lên cả đất nước họ, khi mà biết rõ rằng Hoa Kỳ sẽ không yểm trợ gì nữa (ngay cả nhiên liệu và đạn dược); ấy thế mà một sư đoàn VNCH đã anh dũng cầm cự chiến đấu với bốn sư đoàn quân Bắc Việt trong suốt hai tuần lễ tại Xuân Lộc. Trên mọi bình diện, trận chiến Xuân Lộc đó cũng hào hùng như bất cứ trận chiến nào trong quân sử Hoa Kỳ. Các binh sĩ VNCH cuối cùng đã phải rút lui vì không lực của họ không còn bom cluster để yểm trợ cho lực lượng bộ binh đụng trận dưới đất.
Có lần tôi được coi một phim tài liệu truyền hình nói về một người phóng viên Úc đặc trách quay phim chiến trường. Khác với các phóng viên Mỹ, ông ta dành nhiều thì giờ theo sát binh sĩ VNCH. Ông ta công nhận tinh thần chiến đấu anh dũng của họ, và để minh chứng điều đó, ông đã cho trình chiếu cả cuốn phim. Ông ta nhớ lại rằng, trong chuyến thăm viếng một khu làng do địch quân kiểm soát, ông được nghe kể rằng Cộng Sản sợ binh sĩ VNCH hơn là sợ binh sĩ Mỹ. Cái lý do chính là binh sĩ Mỹ quá ồn ào, do đó địch quân luôn nghe trước được đường tiến quân của họ. Làm sao có được điều so sánh này nếu trên thực tế các binh sĩ VNCH không thuộc loại lính thiện chiến.
Tuy nhiên, cái chứng cớ quan trọng nhất để chứng minh tinh thần chiến đấu cao độ của binh sĩ VNCH nằm trong hai sự kiện thật đơn giản và rõ ràng sau đây, dù rằng các sự kiện này thường bị làm ngơ hoặc giả vờ không biết nhằm che đậy sự thất bại của Hoa Kỳ tại Việt Nam..
Sự kiện thứ nhất: Chiến tranh đã bắt đầu từ 7 năm trước khi quân đội tác chiến Hoa Kỳ bước chân vào Việt Nam, và trận chiến đó vẫn tiếp tục kéo dài suốt 5 năm sau khi Hoa Kỳ rút quân. Phải có những người đứng ra chiến đấu trong thời gian đó, và không ai khác hơn là các binh sĩ VNCH.
Sự kiện thứ hai: Có độ 1/4 triệu binh sĩ VNCH hy sinh trong cuộc chiến. Nếu đem so sánh tỷ lệ dân số hai nước, thì con số này phải tương đương với khoảng hai triệu người Mỹ chết (gấp đôi tổng số thương vong của tất cả cuộc chiến Hoa Kỳ cộng lại). Bạn không thể tổn thất lớn lao như vậy nếu bạn không thực sự chiến đấu.
Thế thì tại sao thanh danh quân đội VNCH lại bị xúc phạm nặng nề như vậy?
Dĩ nhiên quân đội VNCH cũng có một số lần chiến đấu kém hiệu năng hoặc bị khủng hoảng, nhưng các trường hợp này cũng từng xảy ra trong quân đội Hoa Kỳ. Tôi biết một vị chỉ huy đơn vị pháo binh Hoa Kỳ đã có lần ra lệnh trực xạ vào địch quân vì lực lượng bộ binh Mỹ “bảo vệ” cho căn cứ pháo binh đã hốt hoảng tháo chạy trước hỏa lực hùng hậu của địch.
Sự kiện trên không có nghĩa là toàn thể quân đội Hoa Kỳ hèn nhát, và đôi lần thất bại của binh sĩ VNCH cũng không có nghĩa là toàn thể quân đội VNCH hèn nhát. Dù vậy, người ta lại rất dễ tin như thế khi được nghe kể lại từ chính miệng các cựu chiến binh Hoa Kỳ hoặc từ các chính trị gia nhằm chạy tội cho chính phủ Hoa Kỳ về việc bỏ rơi miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối.
Sự thật của vấn đề được diễn tả khéo nhất qua mẩu đối thoại cách đây gần hai thế kỷ khi một mệnh phụ Anh hỏi Quận Công Wellington rằng: “Có bao giờ quân Anh tháo chạy trên chiến trường không?” Vị Thiết Quận Công này trả lời: “Thưa bà, tất cả binh sĩ đều bỏ chạy trên chiến trường.”
Chỉ cần lướt qua quân sử cũng đủ để xác nhận điều này. Trong suốt cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ, chúng ta đã thấy rất nhiều tấm gương can đảm nhưng cũng không thiếu gì các hành động khiếp nhược. Trên mặt trận, lúc đầu binh sĩ của hai phe Nam Bắc đều chiến đấu rất dũng cảm, rồi pḥòng tuyến vỡ, rồi bỏ chạy, rồi tái phối trí và chiến đấu trở lại. Không có quân đội nào được xem là có lòng hy sinh anh hùng hơn họ, nhưng những binh sĩ tham dự trận nội chiến này cũng không tránh khỏi những lúc thất điên bát đảo, và đó cũng là chuyện thường tình trên chiến trường.
Tác giả S.L.Ạ Marshall đã tường thuật chuyện một đại đội lính Mỹ trong Đệ Nhị Thế Chiến đã tháo chạy tán loạn trước tiếng la ré xung phong của một toán lính Nhật. Nhưng đại đội lính Mỹ khác thì lại tiếp tục chiến đấu, giết sạch hết toán lính Nhật (độ 10 người), và khám phá ra rằng hầu hết những tên lính Nhật này không võ trang gì cả. Nếu chuyện trên xảy ra cho một đơn vị quân đội VNCH, thì chắc chắn những kẻ muốn bôi nhọ quân đội này sẽ lợi dụng đó như là một “cơ hội bằng vàng” để mạ lị rằng toàn thể quân lực VNCH là hèn nhát.
Tại sao vậy? Tôi đã nêu ra câu trả lời rồi. Tất cả tùy thuộc vào màu da và ngôn ngữ của các binh sĩ liên hệ. Sự thật bỉ ổi là việc mạ lị quân đội VNCH lại xuất phát từ tinh thần kỳ thị chủng tộc và bồng bột của nền văn hóa Hoa Kỳ.
Tôi có thể làm chứng cho việc xuyên tạc đầy ác ý và phổ quát này. Khi vừa đến Việt Nam vào tháng 6 năm 1969, tôi đã chứng kiến ngay sự ngu ngơ và thái độ khinh bỉ của một số người Mỹ đối với nhân dân và quân đội VNCH. Cái thái độ đó nằm trong mọi tập thể quân nhân da trắng lẫn da đen, trong các giới dân sự cũng như ký giả Hoa Kỳ. Phong trào thù ghét đất nước và nhân dân Việt Nam bị lan tràn như một thứ bệnh dịch truyền nhiễm đáng ngạc nhiên.
Tôi quen một viên đại úy Hoa Kỳ tốt nghiệp về môn điện ảnh từ một viện đại học danh tiếng (một ngành chuyên môn được dùng để giúp nâng cao tŕnh độ nhận thức quan sát). Khi viên đại úy này trở lại đơn vị sau một chuyến công tác ngắn tại Thái Lan, anh ta ca ngợi đáo để dân tộc Thái Lan. Anh nói rằng: “Dân Thái Lan cho con cái đi học khác hẳn với dân Việt Nam”. Anh ta ngạc nhiên nhưng lại không lộ vẻ hối hận khi tôi chỉ cho anh thấy một ngôi trường Việt Nam sát nách doanh trại chúng tôi. Bất cứ ai có mắt cũng đều thấy hàng trăm em học sinh mặc đồng phục quần xanh áo trắng qua lại mỗi ngày, chỉ trừ anh chàng phim ảnh này không nhìn thấy các em mà thôi.
Thật là mỉa mai khi người Việt Nam có tiếng hiếu học hơn người Mỹ, và miền Nam Việt Nam đã nâng cao được mức biết đọc biết viết từ 20% lên 80% trong khi đất nước chiến tranh triền miên (và mặc dù Cộng Sản chủ trương giết hại các giáo chức), thế mà lại bị anh chàng phim ảnh này cho rằng Việt Nam không có trường học. Vì bị gởi đi chinh chiến xa xôi và bị cách biệt gia đình, nên anh Mỹ này nảy sinh lòng oán ghét Việt Nam, và tạo nên thành kiến rằng mọi người Việt Nam đều đáng khinh. Do đó, trong đầu anh cứ ám ảnh là Việt Nam không có trường học, dần rồi cái tâm lý bệnh hoạn đó đã làm hư đi cái khả năng nhận thức và đánh lừa cả thị giác của anh.
Hãy tưởng tượng cái tâm trạng của một tập thể lính Mỹ ít học, sống giữa một nền văn hóa xa lạ và thần kinh lúc nào cũng bị căng thẳng ra sao?! Có lẽ chúng ta không nên trách cứ những người lính thiếu học này, lỗi là do nơi các cấp chỉ huy Hoa Kỳ đã huấn luyện họ hiểu một cách mơ hồ về đất nước Việt Nam cũng như về thực chất của cuộc chiến.
Tuy nhiên, đó không phải là cái cớ để các cựu chiến binh Mỹ huênh hoang rằng họ hiểu những cái mà họ đã thấy tại Việt Nam. Các cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam cần được vinh danh về các đức tính can đảm, hy sinh, ái quốc của họ. Nhưng can đảm và hy sinh không đồng nghĩa với kiến thức. Đánh giặc tại Việt Nam không làm cho những người lính này trở thành những chuyên viên thông thạo về đất nước hoặc cuộc chiến Việt Nam, cũng như việc mang nặng đẻ đau không thể biến người đàn bà trở thành một chuyên gia về thai nhi học được.
Giới truyền thông Mỹ cũng chẳng khá gì hơn. Trong một phóng sự đầy thành kiến, tôi nghe một phóng viên lên án Không Lực VNCH – dù đã được tân trang qua chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh – thế mà lại “đẩy cho Không Quân Hoa Kỳ” thực hiện những phi vụ nguy hiểm ngoài Bắc Việt. Trên thực tế Hoa Kỳ không muốn Không Quân VNCH bay ra Bắc (chỉ trừ vài phi vụ oanh tạc ban đầu). Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ muốn kiểm soát kế hoạch oanh tạc để dùng nó như một lá bài thương thuyết. Vì không muốn miền Nam Việt Nam có bất cứ quyền kiểm soát nào trong chính sách oanh tạc, Hoa Kỳ đã trang bị cho Không Quân VNCH những vật dụng không thích hợp cho các phi vụ ra Bắc. Miền Nam Việt Nam không được cung cấp oanh tạc chiến đấu cơ, phi cơ tiếp liệu trên không, vũ khí hay các dụng cụ điện tử cần thiết cho các phi vụ này. Đó là quyết định của người Mỹ.
Câu hỏi đặt ra là có phải người phóng viên truyền hình nêu trên dốt đặc về sự kiện đó hay giả vờ không biết nhằm đi hạ nhục những đồng minh của Hoa Kỳ. Dựa vào các lời lẽ lố bịch, chói tai và thanh âm của anh ta, tôi kết luận rằng anh ta chủ mưu làm như vậỵ. Một thí dụ khác nói lên cái thành kiến của giới truyền thông, đó là trận chiến vây hãm Khe Sanh. Nếu bạn đi hỏi một ngàn người Mỹ từng nghe biết về trận đánh này rằng đơn vị nào chiến đấu tại Khe Sanh, thì có lẽ hầu hết đều trả lời là Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Nhưng sẽ làm họ ngạc nhiên nếu có một người trong số ngàn người đó nói rằng có một tiểu đoàn Biệt Động Quân VNCH đã cùng chia sẻ nỗi gian lao với các đồng minh Thủy Quân Lực Chiến Hoa Kỳ trong trận chiến ngặt nghèo đó. Có nhiều đơn vị VNCH khác cũng đã hổ trợ chiến đấu bên ngoài vòng đai căn cứ Khe Sanh.. Giới truyền thông Mỹ không đếm xỉa đề cập đến các chiến hữu đồng minh của Hoa Kỳ, mà họ chỉ để ý đến những điều bê bối thôi, bởi vậy những binh sĩ VNCH chiến đấu cam khổ này đã bị trở thành những chiến sĩ “vô hình” của Khe Sanh.
Tất cả thành kiến – trong quân đội cũng như trong truyền thông – được thể hiện rõ ràng qua các bản tin chiến sự về cuộc hành quân Hạ Lào năm 1972.
Trong cuốn phim tài liệu truyền hình mười năm trước đây, có một đoạn phỏng vấn lính Mỹ trong lúc chiến trường Hạ Lào đang tiếp diễn. Các lính Mỹ được phỏng vấn này đang sống an toàn tại hậu cứ Nam Việt Nam. Họ “giải thích” về sự chiến đấu của quân đội VNCH với những lời lẽ khinh bỉ và kỳ thị. Thế mà sau đó người phóng viên này đã ca ngợi khen mấy người lính G.I Mỹ đó am tường về tình hình chiến sự hơn là các nhà tướng lãnh Hoa Kỳ.
Trận Hạ Lào đã trở thành đề tài vì nó có liên quan đến một tấm hình có cảnh người lính VNCH bám vào cái càng máy bay trực thăng để trốn chạy khỏi chiến trường. Tấm hình này bị bêu riếu khắp nước Mỹ ngày này qua tháng nọ như là một “bằng chứng” về sự khiếp nhược của quân lực VNCH. Thực tế, đây là một trò cổ điển nói lên mãnh lực của sự xuyên tạc hình ảnh. Thật ra thì sự việc nó diễn tiến như sau: Binh sĩ VNCH bị tấn công bởi một lực lượng Cộng quân hùng hậu. Quân đội Hoa Kỳ đã thất bại trong việc yểm trợ như đã hứa vì hỏa lực phòng không của địch quá mạnh. Những báo cáo cho biết là lính trên trực thăng đã đạp những thùng đạn đại bác từ cao độ 5,000 feet xuống với hy vọng chúng sẽ rơi vào vòng đai của quân đội VNCH. Các trực thăng đó đã không thể nào bay thấp hơn được.
Đại tá Robert Monelli, một sĩ quan Hoa Kỳ có mặt trong mặt trận đó đã kể lại trên báo Armed Forces Journal số 19 tháng 4 năm 1972 như sau: “Một tiểu đoàn VNCH với 420 binh sĩ bi bao vây liên tiếp trong ba ngày bởi một trung đoàn Cộng Sản độ 2,500 đến 3,000 tên. Quân đội Hoa Kỳ không thể tiếp tế cho họ được. Họ phải chiến đấu cho tới khi gần hết đạn, rồi mở đường máu bằng khí giới tịch thu của địch. Họ đã mang theo tất cả binh sĩ bị thương và cả một số xác chết. Không ảnh thám sát chụp được rõ ràng có 637 xác địch rải rác chung quanh căn cứ.
Về phía quân đội VNCH, tiểu đoàn trên chỉ còn lại có 253 binh sĩ sau khi đến được vòng đai bạn. Chừng 17 người trong số binh sĩ này bị khủng hoảng và đã bám vào càng trực thăng để chạy trốn, số binh sĩ còn lại thì không làm như vậỵ”
Bây giờ, có thể một số người cho rằng hành động bám vào càng trực thăng đang bay và dễ làm mồi cho hỏa lực phòng không địch là một hành động gan dạ. Hãy xếp đề tài đó qua một bên, tôi muốn đề cập đến việc là tại sao chỉ có một trường hợp riêng lẻ như vậy – xáp lá cà mở đường máu rút lui (được coi là một chiến thuật khó khăn nhất trong binh thư) lại bị thổi phồng để đi lên án cả một quân lực, cả một quốc gia, cả một dân tộc?
Câu trả lời là tại vì kỳ thị chủng tộc. Các người lính VNCH bám lủng lẳng vào trực thăng bị coi là những tên ngoại quốc hợm hĩnh. Nhưng nếu là lính Mỹ, hay cả lính Anh, thì hành động này đã gây được lòng trắc ẩn vì được biện minh rằng họ vừa trải qua một cuộc thử thách đầy cam go. Bằng cớ cho lập luận này có thể thấy được qua cái phản ứng của người Mỹ đối với cuộc rút lui của binh sĩ Hoàng Gia Anh trong những ngày đầu của trận Đệ Nhị Thế Chiến. Từng có một số lần nhục nhã đã xảy ra trong quân đội Hoàng Gia Anh tại Dunkirk và nhiều nơi khác. Tại Dunkirk, một trung sĩ trên một chiếc tàu cấp cứu đã chĩa súng tiểu liên vào các binh sĩ khủng hoảng để duy trì trật tự. Trên một con thuyền khác, binh sĩ phải dùng báng súng đánh vào đầu một viên sĩ quan để ông ta khỏi leo qua mép thuyền làm nước tràn vào. Tại Crete, một lữ đoàn Tân Tây Lan phải lập vòng đai an toàn quanh biển bằng dao găm để ngăn chặn binh sĩ Hoàng Gia Anh tràn ngập lên thuyền. Cái hình ảnh quân đội Hoàng Gia Anh đơn thân độc mã chống lại Hitler năm 1940 thì ca ngợi là một biểu tượng đầy đủ dữ kiện, còn những trường hợp riêng lẻ như các trường hợp kể trên không được phép làm hoen ố cái bức tranh toàn cảnh dũng cảm và tận tụy của những người lính chiến.
Thành thật mà nói thì quân đội VNCH đã chiến đấu một cách tầm thường trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, ngoại trừ trận đánh hào hùng và tuyệt cú tại mặt trận Xuân Lộc. Nói vậy chứ nó cũng có những nguyên do của nó. Và cũng có nhiều yếu tố để ta tin rằng nếu nhận được sự yểm trợ chân thành từ phía Hoa Kỳ, quân đội VNCH đã có thể tạo được những trận thư hùng như kiểu Xuân Lộc, và không chừng ngay cả việc họ đã cứu vãn được đất nước.
Vấn đề đặt ra đây một lần nữa không phải đề bàn đến cách ứng xử của miền Nam Việt Nam, nhưng chính là đem so sánh cách ứng xử của họ với Hoa Kỳ để xem liệu Hoa Kỳ ứng xử ra sao nếu Hoa Kỳ bị nằm trong một hoàn cảnh, tình huống tương tự. Và thật sự – nếu binh sĩ Hoa Kỳ bị bỏ rơi giống như Hoa Kỳ đã cắt viện trợ Miền Nam Việt Nam một cách nặng nề trong năm 1974, nhiều tháng trước khi địch quân mở những trận tổng công kích lần chót. Hậu quả là chỉ có rất ít nhiên liệu và đạn dược cung cấp cho miền Nam Việt Nam. Phi cơ và quân xa của VNCH bị nằm ụ vì thiếu phụ tùng. Binh sĩ phải ra trận với máy truyền tin mà không có bình batteries, và các toán cứu thương thiếu cả các loại thuốc thang căn bản. Pháo binh thì bị giới hạn bắn được ba trái đạn mỗi ngày trong ngày cuối cùng của cuộc chiến. Tình trạng bi đát đến nỗi tư lệnh quân đội Bắc Việt xâm lăng miền Nam Việt Nam, tướng Văn Tiến Dũng cũng thừa nhận rằng khả năng di động và hỏa lực của quân đội VNCH đã sút giảm phân nửa. Bên cạnh những ảnh hưởng trực tiếp về vật chất, chúng ta cũng phải để ý đến những tác hại tinh thần đối với các binh sĩ VNCH. Lợi dụng tình thế bi thảm này, quân đội Bắc Việt đã ào ạt tấn công với đầy đủ vũ khí tối tân, chiến xa và đại bác di động.
Vâng, quân đội VNCH đã bại vong.. Họ đã vất bỏ các chiến cụ (phần lớn đã không còn dùng được vì thiếu phụ tùng) và một số đạn dược (số đạn mà họ đã dành dụm tối đa cho đến khi nó trở thành quá muộn để bắn, bởi vì họ biết rằng sẽ không bao giờ nhận được tiếp tế nữa). Vậy thì lỗi của ai? Của họ… .hay của Hoa Kỳ?
Vâng, miền Nam Việt Nam rút quân khỏi các tỉnh cao nguyên e có phần trễ và vụng về, đưa đến sự khủng hoảng và sụp đổ.. Nhưng làm sao chính phủ miền Nam Việt Nam lại cam tâm bỏ rơi đồng bào họ sớm hơn trước được, khi mà địch quân chưa tung ra một áp lực nào ? Đã có lúc miền Nam Việt Nam hy vọng oanh tạc cơ B52 Hoa Kỳ sẽ trở lại giúp họ ngăn chặn làn sóng tiến quân của Cộng Sản. Nhưng khi rõ ràng là việc này sẽ không xảy ra, binh sĩ trở nên hoang mang là một điều dễ hiểu thôi. Tinh thần chiến đấu suy sụp, nhiều binh sĩ bị bỏ ngũ – không phải họ hèn nhát hay không muốn chiến đấu bảo vệ tổ quốc, nhưng bởi vì họ không muốn chết một cách vô ích trong khi gia đình đang cần.
Liệu Hoa Kỳ đã có thể làm gì khá hơn nếu ở trong tình trạng y hệt miền Nam Việt Nam thời 1975? Liệu các đơn vị Hoa Kỳ có tiếp tục hăng say chiến đấu trong lúc quân xa và hệ thống truyền tin thì hư hỏng, y tế thì què quặt, nhiên liệu và đạn dược thì thiếu thốn, không được máy bay yểm trợ – lại phải đương đầu trước một địch quân hùng hậu hỏa lực, đầy đủ tiếp liệu và tinh thần phấn khởi ? Tôi không tin như vậy.
Liệu miền Nam Việt Nam có thể chiến thắng vào năm 1975 nếu chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ cho họ một số lượng tương đương với số tiếp liệu mà khối Cộng Sản đổ vào Bắc Việt ? Câu trả lời không ai biết được. Nhưng chắc chắn một điều là họ cũng có được cơ hội chiến đấu bình đẳng, thế mà Hoa Kỳ đã phản bội tước đi cái cơ hội này của họ. Chắc chắn họ đã có thể chiến đấu một cách hiệu quả hơn. Rồi dù có thua, họ cũng thua một cách hào hùng trong một trận chiến để đời, và biết đâu đã chẳng tạo được một cuộc kháng chiến thần thánh như A Phú Hãn.
Ví dù miền Nam Việt Nam có bị đại bại hoàn toàn, cái yểm trợ tận lực của Hoa Kỳ sẽ cho phép người Mỹ nhún vai và nói rằng họ đã cố gắng hết sức. Nhưng, Hoa Kỳ đã không tận lực, mà trái lại người Mỹ lại còn cố gắng che đậy sự thật bằng cách bôi nhọ miền Nam Việt Nam và nhục mạ quân lực VNCH đã sai lầm.
Bây giờ đã quá trễ để Hoa Kỳ chuộc lại tội ác tầy trời khi bỏ rơi nhân dân miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản. Nhưng nó chưa quá trễ để Hoa Kỳ thú nhận lỗi lầm trong việc nhục mạ họ. Và cũng chưa quá trễ để bắt đầu vinh danh các thành quả và lòng dũng cảm của những binh sĩ VNCH đã chiến đấu bảo vệ lý tưởng tự do.
Ngô Kỷ chuyển ngữ
|
It is not surprising that American troops sent to Southeast Asia — mostly young, indifferently educated, and molded by a society with too much self-esteem and too little understanding of other cultures — found it hard to empathize with South Vietnam’s soldiers.
Still, it is a pity that many veterans of the Vietnam War have joined radical agitators, draft dodgers and smoke-screen politicians to besmirch the honor of an army that can no longer defend itself. To slander an army that died in battle because America abandoned it is a contemptible deed, unworthy of American soldiers.
Perhaps some find my assertion incredible. How can I possibly defend the armed forces of South Vietnam? Everybody “knows” they were incompetent, treacherous and cowardly, isn’t that so?
No, it is not. This article will outline some of the more compelling evidence against this scurrilous mythology and also examine why such a mythology arose to begin with.
Of course, the South Vietnamese forces were imperfect. They had their share of bad leaders, cowardly troops, and incidents of panic, blundering and brutality. So did the American forces in Southeast Asia.
In some respects — organization, logistics, staff work and leadership — South Vietnam’s armed forces did lag behind U.S. forces. But how could one expect otherwise in a developing nation that had just emerged from colonialism and was suddenly plunged into a war to the death against a powerful enemy supplied by the Communist bloc?
In fact, many of the weaknesses exhibited by the South Vietnamese forces were identical to the ones displayed by the U.S. armed forces during the American War of Independence, even though late 18th-century America had several advantages: the whole scale of the Revolutionary War was smaller and easier to manage; America’s colonial experience, unlike Vietnam’s, had fostered local self-government and permitted the country to develop some truly outstanding leaders; the British were less persistent than the North Vietnamese; and the French allies did not abandon young America the way the U.S. government abandoned South Vietnam.
But in any case, organization, logistics, staff work and even leadership are not the qualities at issue in the slandering of the South Vietnamese forces.
Two questions touch on the real issue. Were South Vietnamese fighting men so lacking in character, courage, toughness and patriotism that Americans are justified in slandering them and assigning them all blame for the defeat of freedom in Southeast Asia? Were U.S. soldiers so much better than their allies that Americans can afford to treat the South Vietnamese with contempt? The answer to both questions, I submit, is a resounding “No!”
The objective “big-picture” evidence is clear. The Tet Offensive of 1968 was supposed to crack South Vietnam’s will to resist. Instead, South Vietnamese forces fought ferociously and effectively: no unit collapsed or ran. Even the police fought, turning their pistols against heavily armed enemy regulars. Afterward the number of South Vietnamese enlistments rose so high, according to reports at the time, that the country’s government suspended the draft call for a while.
In the 1972 Easter tide Offensive, isolated South Vietnamese troops at An Loc held out against overwhelming enemy forces and artillery/rocket fire for days, defeating repeated tank assaults. I later met a U.S. adviser who described how a South Vietnamese infantry squad in his area was sent to destroy three enemy tanks. The members of the squad dutifully destroyed one tank, then decided to capture the other two. As I remember, they got one, but the other made its escape, with the South Vietnamese chasing it down a road on foot. The soldiers got chewed out upon returning…for letting one tank get away. The squad’s performance may not be the best demonstration of military discipline, but the incident demonstrates the high morale and initiative that many South Vietnamese soldiers possessed. Certainly it does not support charges of cowardice.
As further evidence, consider South Vietnam’s final moments as an independent nation in 1975, when justifiable despair gripped the country because it became clear that the United States would provide no help (not even fuel and ammunition). Yet one division-sized South Vietnamese unit held off four North Vietnamese divisions for some two weeks in fierce fighting at Xuan Loc. By all accounts, that battle was as heroic as anything in the annals of U.S. military history. The South Vietnamese finally had to withdraw when their air force ran out of cluster bombs for supporting the ground troops.
Once I saw a television documentary about an Australian cameraman who had covered the war. Unlike U.S. reporters, he spent much of his time with the South Vietnamese forces. He attested to their fighting spirit and showed film footage to prove it. He also recalled visiting an enemy-controlled village and being told that the Communists feared South Vietnamese troops more than Americans. The principal reason was that Americans were noisy, so the enemy always heard them coming. But that would have been immaterial if the South Vietnamese had not also been dangerous fighters.
However, the most important evidence of South Vietnamese soldiers’ willingness to fight comes from two simple, undeniable, “big-picture” facts — facts that are often ignored or disguised to cover up American failure in Vietnam.
Fact One: The war began some seven years before major American combat forces arrived and continued for some five years after the U.S. began withdrawing. Somebody was doing the fighting, and that somebody was the South Vietnamese.
Fact Two: The South Vietnamese armed forces lost about a quarter-million dead. In proportion to population, that was equivalent to some 2 million American dead (double the actual U.S. losses in all wars combined). You don’t suffer that way if you’re not fighting.
How, then, did the South Vietnamese get their bad reputation?
Certainly there were occasional displays of incompetence and panic by South Vietnamese forces. The same can be said of U.S. forces. I knew an American artillery commander whose gunners once had to defend their firebase by firing canister point-bank into enemy ranks because the U.S. infantry company “protecting” them had broken in the face of the enemy assault and was huddling, panic-stricken, in the midst of the guns.
That incident does not mean the whole U.S. Army was cowardly, and occasional breakdowns among America’s allies did not mean all South Vietnamese soldiers were cowards. Yet one would think so, the way the story gets told by some veterans — and by the political apologists for a U.S. government that left South Vietnam in the lurch.
The truth of the matter was best stated nearly two centuries ago when a British woman asked the Duke of Wellington if British soldiers were ever known to run in battle. “Madam,” replied the Iron Duke, “All soldiers run in battle.”
Even a cursory study of military history confirms this. Civil War battles reveal a continuous ebb and flow of bravery and fear, as Confederate and Union units alike first attacked bravely, then crumbled and fled under horrendous fire, before regrouping and charging again. No armies ever laid more justified claim to sheer self-sacrificing heroism than those two, yet they were subject to panic as a routine price for doing bloody business on the battlefield.
Author S.L.A. Marshall describes how one American rifle company in World War II fled in panic from a screaming Japanese banzai charge: a second unit fought on, quickly killing every Japanese soldier involved (about 10), and discovered that most of them were not even armed.
If the same thing had happened to a South Vietnamese unit, it undoubtedly would have been cited repeatedly by self-appointed pundits as incontrovertible proof of the cowardice of all South Vietnamese troops.
Why? We’ve already hinted at the answer. It all depends on the color and native tongue of the troops involved. The ugly truth is that the South Vietnamese forces’ false reputation is rooted in American racism and cultural chauvinism.
I can personally attest to the pervading, massive and truth-distorting reality of the phenomenon. When I arrived in Vietnam in June 1969, I immediately began to witness continuous displays of ignorance and contempt by some Americans toward the Vietnamese people and their armed forces.
White troops, black troops, and civilian Americans such as journalists — all were equally afflicted. This passionate hatred of Vietnam and its people had an astonishing power to become contagious.
I knew an American captain with a graduate degree from a prestigious university in cinematography (presumably a specialty that improves visual perceptiveness). He once returned from temporary duty in Thailand singing the praises of the Thai.
“They send their kids to school,” he said, contrasting them with the South Vietnamese. He was surprised, but not repentant, when I pointed out that there was a Vietnamese school right next door to our compound! Hundreds of little kids in bright blue-and-white school uniforms could be seen there daily — by anyone whose eyes were open. But this filmmaker apparently could not see them.
It is ironic that the Vietnamese — who by reputation honor learning more than Americans do and who raised South Vietnam’s literacy rate from about 20 percent to 80 percent even as war raged around them (and despite the enemy’s habit of murdering teachers) — were accused by the filmmaker of having no schools.
Because he was fighting in a foreign country and was separated from his family, this American had built up a hatred for Vietnam, and he wanted to believe the Vietnamese people were contemptible. Therefore, it was important to him to believe that they had no schools; and his emotions literally interdicted his optic nerves.
Imagine the feelings of the undereducated masses of American troops faced with a strange culture in a high-stress environment! Perhaps one cannot blame the troops for their ignorance. Heaven knows the U.S. command made only the most perfunctory effort to educate them about Vietnam and the nature of the war.
However, that is no excuse for veterans to pretend that they understand what they saw in Vietnam. America’s Vietnam veterans must be honored for their courage, sacrifice and loyalty to their country. But courage and sacrifice are not the same as knowledge. Fighting in Vietnam didn’t make soldiers into experts on the country or the war, any more than having a baby makes a woman an expert on embryology.
What most U.S. soldiers did there taught them little or nothing about South Vietnam’s culture, society, politics, etc. Few Americans spoke more than a half-dozen words of Vietnamese; even fewer read Vietnamese books and newspapers; and not many more read books about Vietnam in English.
Except for advisers, few Americans worked with any Vietnamese other than (perhaps) the clerks, laundresses and waitresses employed by U.S. forces.
Most important for our purpose, few U.S. troops ever observed South Vietnamese forces in combat. Even the ones who did rarely considered the attitude differences that must have existed between soldiers like the Americans, who only had to get through one year and knew their families were safe at home, and troops like the South Vietnamese, who had to worry about their families’ safety every day and who knew that only death or grievous wounds would release them from the army. The Vietnamese naturally used a different measuring stick to determine what was important in fighting the war.
Journalists were no better. Consider a biased TV report I heard in which a reporter denounced South Vietnam’s air force because — despite Vietnamization — it “let the Americans” fly the tough missions against North Vietnam.
In fact, it was the United States that would not let the South Vietnamese fly into North Vietnam (except for a few missions in the early days of the bombing). The American leaders wanted to control the bombing so that the United States could use it as a negotiating tool.
Not wanting the South Vietnamese to have any control over bombing policy, the U.S. forces deliberately gave them equipment unsuited for missions up North. South Vietnam did not get the fighter-bombers, weapons, refueling aircraft or electronic-warfare equipment necessary for such missions. It was an American decision.
The TV reporter in question either was ignorant of that fact or chose to ignore it in order to do a hatchet job on the American allies. Considering his blatantly biased words and tone of voice, I concluded that any ignorance he suffered from was deliberate.
Another example of media bias came during the Khe Sanh siege. If you asked a thousand Americans which units fought at Khe Sanh, most of those who had heard of the battle would probably know that U.S. Marines did. But it would be surprising if more than one out of the thousand knew that a South Vietnamese Ranger battalion had shared the rigors of the siege with American Marines. Other South Vietnamese units took part in supporting operations outside the besieged area. The U.S. media just did not consider the American allies worthy of coverage unless they were doing something shameful, so these hard-fighting soldiers became quite literally the invisible heroes of Khe Sanh.
All this — soldier and media bias — came together clearly during news reports of the 1972 incursion into Laos.
Consider a TV documentary a decade ago. It included film of some American GIs being interviewed during the Laotian fighting. These guys, themselves safely inside South Vietnam, were “explaining” the South Vietnamese army’s struggle in contemptuous, racist remarks. The reporter then suggested that these American GIs understood the situation better than the American generals.
The incursion, of course, is the source of the infamous photo of a South Vietnamese soldier escaping from Laos by clinging to a helicopter skid. This image was and is held up to Americans again and again as “proof” of South Vietnamese unworthiness.
In fact, it is a classic example of photography’s power to lie. What happened was this: The South Vietnamese were struck by overwhelming Communist forces. The U.S. military failed to provide the support that had been promised because enemy anti-aircraft fire was too strong. There were reports of U.S. helicopter crews kicking boxes of howitzer ammunition out the doors from 5,000 feet up, hoping the stuff would land inside South Vietnamese perimeters. The helicopters simply couldn’t get any closer.
Given that context, consider the way Colonel Robert Molinelli, an American officer who witnessed the action, described it in the Armed Forces Journal of April 19, 1971: “A South Vietnamese battalion of 420 men was surrounded by an enemy regiment of 2,500-3,300 men for three days. The U.S. could not get supplies to the unit. It fought till it ran low on ammunition, then battled its way out of the encirclement using captured enemy weapons and ammunition. It carried all of its wounded and some of its dead with it. Reconnaissance photos showed 637 visible enemy dead around its position.
The unit was down to 253 effectives when it reached another South Vietnamese perimeter. Some 17 of those men did panic and rode helicopter skids to escape. The rest did not.
Now, some might consider dangling from a high-flying, fast-moving helicopter for many miles, subject to anti-aircraft fire, to be a pretty gutsy move. But, aside from that, how can such an isolated incident — during a hard-fought withdrawal-while-in-contact (universally acknowledged to be just about the toughest maneuver in the military inventory) — be inflated into condemnation of an entire army, nation and population?
The answer is racism. The guys hanging from the helicopter skids were funny-looking foreigners. If they had been Americans, or even British, the reaction undoubtedly would have been one of compassion for the ordeal they had been through.
Evidence for this is found in how Americans responded to the British retreats early in World War II.
There were some disgraceful displays among British forces at Dunkirk and elsewhere. At Dunkirk a sergeant in one evacuation boat had to aim a submachine gun at his panicky charges to keep order on board. On another boat soldiers had to pummel an officer with their weapons to keep him from climbing over the gunwale and swamping the boat. In Crete, a New Zealand brigade had to ring its assigned embarkation beach with a cordon of bayonets to keep fear-stricken English troops from swarming over the boats.
Yet the image of Britain’s lonely stand against Hitler in 1940 is one of heroism. That’s perfectly justified by the facts, and isolated incidents like the ones described above should not detract from the overall picture of courage and devotion.
It is certainly true that South Vietnamese forces gave an undistinguished performance in the final days, with the exception of the incredibly heroic defense of Xuan Loc.
Yet there are reasons for that. And there are reasons to believe that, with more loyal support from the Americans, the South Vietnamese could have turned in more Xuan Loc-style performances and perhaps even have saved their country.
The real issue again is not just how the South Vietnamese performed, however; it is how their performance compared with the way Americans might have performed under similar circumstances.
And the truth is that American troops — if they were abandoned by the U.S. the way South Vietnamese were — probably would perform no better than the South Vietnamese did.
Remember: the United States had cut aid to South Vietnam drastically in 1974, months before the final enemy offensive. As a result, only a little fuel and ammunition were being sent to South Vietnam. South Vietnamese air and ground vehicles were immobilized by lack of spare parts. Troops went into battle without batteries for their radios, and their medics lacked basic supplies. South Vietnamese rifles and artillery pieces were rationed to three rounds of ammunition per day in the last months of the war.
The situation was so bad that even the North Vietnamese commander who conquered South Vietnam, General Van Tien Dung, admitted his enemy’s mobility and firepower had been cut in half. Aside from the direct physical effect, we must take into account the impact this impoverishment had on South Vietnamese soldiers’ morale.
Into this miserable state of affairs the North Vietnamese slashed, with a well-equipped, well-supplied tank-and-motorized-infantry blitzkrieg.
Yes, the South Vietnamese folded. Yes, they abandoned some equipment (much of which would not work anyway for lack of spare parts) and some ammunition (which they had hoarded until it was too late to shoot it or move it, because they knew they would never get any more). So whose fault was that? Theirs… or America’s?
Yes, South Vietnam’s withdrawal from the vulnerable northern provinces was belated and clumsy, leading to panic and collapse. But how could the South Vietnamese government have abandoned its people any earlier, before the enemy literally forced it to?
For a while the South Vietnamese hoped the American B-52s would return and help stem the Communist tide. When it became clear they would not, understandable demoralization set in.
The fighting spirit of the forces was sapped, and many South Vietnamese soldiers deserted — not because they were cowards or were not willing to fight for their country, but because they were unwilling to die for a lost cause when their families desperately needed them.
Would Americans do any better under the conditions that faced the South Vietnamese in 1975? Would U.S. units fight well with broken vehicles and communications, a crippled medical system, inadequate fuel and ammunition, and little or no air support — against a powerful, well-supplied and confident foe? I doubt it.
Would the South Vietnamese have won in 1975 if the U.S. government had kept up its side of the bargain and continued matching the aid poured into North Vietnamese by the Communists?
The answer is unknowable. Certainly they would have had a fighting chance, something the U.S. betrayal denied them. Certainly they could have fought more effectively. Even if defeated, they might have gone down heroically in a fight that could have formed the basis for a nation-building legend and for continued resistance against Communism on the Afghan model.
Even if the South Vietnamese had been totally defeated, wholehearted U.S. support would have enabled Americans to shrug and say they had done their best. However, the U.S. did not do its best, and for Americans to try to disguise that fact by slandering the memory of South Vietnam and its army is wrong.
It is too late now for Americans to make good the terrible crime committed in abandoning the South Vietnamese people to Communism. But it is not too late to acknowledge the error of American insults to their memory. It is not too late to begin paying proper honor to their achievements and their heroic attempt to defend their liberty.
Harry F. Noyes III (BA, University of the South; MA, University of Hawaii) served four years of active duty in the Air Force after his ROTC commissioning in 1967. He was an information officer at Norton AFB, California, and Yokota AB, Japan, and a film researcher/scenarist at Tan Son Nhut AB, South Vietnam. Presently a civilian public affairs specialist at Headquarters US Army Health Services Command, Fort Sam Houston, Texas, he has been editor of the joint Army-Air Force Wiesbaden Post, Wiesbaden Military Community, West Germany, and a reporter covering military affairs at Fort Head, Texas, for the Killeen Daily Herald. He has written articles for a variety of publications.
Hình Lính Việt Nam Cộng Hòa Chiến Đấu:
Mời bấm vào Link dưới xem hình, khi bấm vào mỗi hình thì bên trái có nổi lên khung VIEW MORE, bấm vào khung VIEW MORE sẽ hiện thêm ra trang hình khác nữa. Rất nhiều hình để xem.
https://www.google.com/search? q=L%C3%ADnh+VNCH+chi%E1%BA%BFn +%C4%91%E1%BA%A5u&source=lnms& tbm=isch&sa=X&ei=nYcpVcDBHIOag wSUvoDoAg&ved=0CAgQ_AUoAg&biw= 1280&bih=699
YOUTUBE:
Ngày Còn Chinh Chiến
by TheLPSLIDESHOWS
Việt Nam Cộng Hòa 63-75
https://www.youtube.com/watch? v=Zaq8RZYqHPM
Vùng 1 Chiến Thuật:
https://www.youtube.com/watch? v=EBJcW5bwzCc
Vùng 2 Chiến Thuật (Cao Nguyên):
https://www.youtube.com/watch? v=TB07Iu5ZtB0
Vùng 2 Chiến Thuật (Duyên Hải):
https://www.youtube.com/watch? v=g8A_UtMNVls
Vùng 3 Chiến Thuật:
https://www.youtube.com/watch? v=1o2WhdvCAak
Vùng 4 Chiến Thuật:
https://www.youtube.com/watch? v=kEiIPc1yEvE
Lễ Duyệt Binh Kỷ Niệm Ngày QLVNCH 19-6 tại Thủ Đô Sài Gòn
https://www.youtube.com/watch? v=LpzHUIIEh6UChú thích các hình dưới: Vào năm 2000 Ngô Kỷ và quý anh Cựu Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa lái xe hơi đi vòng quanh nước Mỹ từ California tới Hoa Thịnh Đốn, xuyên qua nhiều tiểu bang, mang theo 3 bức tượng Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Nữ Cứu Thương do Ngô Kỷ thực hiện một cách gọn nhẹ, được trưng bày tại các nơi đông người, quan trọng khắp tiểu bang lớn như California, New York, Chicago, Philadelphia, Hoa Thịnh Đốn, trước Tòa Bạch Ốc v.v…nhằm vinh danh sự chiến đấu anh dũng hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh Hoa Kỳ trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam trước 1975. Sự đóng góp nho nhỏ này của Ngô Kỷ giúp cho nhân dân Mỹ hiểu rõ thêm về sự thật về cuộc chiến chính nghĩa của Quân Dân Cán Chính Miền Nam Việt Nam, và nhận thức rõ về sự chiến đấu cao cả của các Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. San Jose, Bắc California Ngô Kỷ chở 3 bức tượng này đi vòng quanh nước Mỹ. Hình chụp tại Philadelphia, Pennsylvania Du khách chụp hình lưu niệm tại Philadelphia, Pennsylvania Đài truyền hình nổi tiếng Hoa Kỳ FOX NEWS quay phim, phỏng vấn Ngô Kỷ tại Philadelphia, Pennsylvania |
http://xaydunghouston.com/Truy enNgan/667hayvinhdanhnguoilinh HVNCH.htmHãy vinh danh người lính
Hãy vinh danh người lính
Việt Nam Cộng Hoà
Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?
Nguyễn thị Thảo AnKhông biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.
Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.
Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam.
Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.
Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.
Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.
Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả… cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.
Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.
Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.
Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.
Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.
Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.
Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.
Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phũ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.
Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác,ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.
Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.
Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. ất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.
Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.
Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù.Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?
Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.
Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.
Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.
Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?
Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.
Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.
Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?
Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?
Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.
Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.
Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.
Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.
Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử.. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.
Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.
Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.
Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.
Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.
Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án.. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.
Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.
Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)
Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?
Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?
Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.
Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.
Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.
Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.
Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thủy của Việt Nam.
Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.
Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Línhchúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Línhở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.
Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.
Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề “xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản”. Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ?Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.
Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà…. Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ
như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc,
thì dân tộc ta mới mong có được những
truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai….
Nguyễn thị Thảo An
Thư Đại Tướng John M. Shalikasvili, Chủ tịch Hội Đồng Liên Quân Hoa Kỳ (Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Hoa Kỳ)
gởi Ngô Kỷ và ký tặng tấm hình lưu niệm
Thư gởi Ngô Kỷ của Đại Tướng John W. Vessey, cựu Chủ tịch Hội Đồng Liên Quân Hoa Kỳ, và là Đặc Sứ của
Tổng Thống George Bush.Ông nắm giữ vai trò quan trọng trong việc về Việt Nam để thảo luận vấn đề tìm kiếm
Tù Binh Mỹ Mất Tích, và chính sách đón nhận các vị Cựu Tù Nhân Chính Trị VNCH được rời Việt Nam qua định cư tại Mỹ.
Đại Tướng William C. Westmoreland và Ngô Kỷ
TƯỚNG WESTMORELAND XIN LỖI CỰU QUÂN NHÂN QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA
“Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của
Quân Lực Miền Nam Việt Nam vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn.”
(On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize
to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys.)
Tại sao Chính Phủ Pháp Ðịnh Việt Nam Cộng Hòa ra đời quá trễ ?
Tại sao Chính Phủ Pháp Ðịnh Việt Nam
Cộng Hòa ra đời quá trễ ?
(Xin vui lòng phổ biến rộng rãi)
Kính thưa quý vị,
Tại sao Chính Phủ Pháp Ðịnh Việt Nam Cộng Hòa ra đời quá trễ ?
Ðây là một câu hỏi của nhiều người và của cả người viết bài này. Sau khi tìm hiểu, chúng tôi xin trình bày theo sự hiểu biết của cá nhân chúng tôi.
Khi một nước bị kẻ địch xâm lăng, chính phủ hợp pháp của nước đó có thể phải lưu vong ra ngoại quốc. Trong khi chưa có điều kiện để bầu cử lại, chính phủ mới được gây dựng bởi những người trong nội các cũ để nối tiếp công quyền thì chính phủ mới được gọi là Chính Phủ Pháp Định hay là Chính phủ được ấn định bởi Pháp lý (De Jure Government).
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt cộng cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa. Họ đã mang tội xâm lăng một nước độc lập, có lãnh thổ, có chính quyền, dân số riêng. Họ đã vi phạm Hiệp định Paris 1973, Ðịnh Ước quốc tế ngày 2 tháng 3 năm 1973, Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, điều 2.4 và nhiều hiệp định khác mà họ đã ký kết.
- Vào những năm đầu sau 1975, một số vị trong Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã cố gắng tiếp xúc với các chính khách và chính quyền Hoa Kỳ, nhưng kết quả không như mong đợi. Lúc đó Hoa Kỳ đã kết nối được với Trung cộng nên cố tình bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa.
- Sau đó, các vị trong Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cố gắng đi tiếp xúc với người người Việt tị nạn cộng sản nhưng cũng không thành công. Ðiển hình là cuộc gặp gỡ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và đồng hương San Jose khoãng năm 1990. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị chỉ trích gay gắt và bị đặt hai câu hỏi rất nặng nề: 1- Tại sao ông mang 16 tấn vàng ra đi ? 2- Tại sao ông bỏ nước ra đi sớm, để lại quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản giam cầm, đày đọa trong lao tù ?
a- Với câu hỏi về 16 tấn vàng thì tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã trả lời rất dễ dàng. Vì đơn giản là ông không có lấy số vàng đó. Chính tên Lê Duẩn đã đã cho xe vào chở tất cả vàng bạc và tài sản quốc gia ra ngoài miền Bắc. Bọn chúng không hề về ghi tài sản đó vào ngân khố quốc gia của Việt Cộng. Sau này khi Bùi Tín hỏi về số tiền đó thì tên Lê Duẩn chỉ khoa tay múa chân rằng tiền đó đã xài hết rồi, trong những năm nghèo khó. Trên thực tế, tên Lê Duẩn đã cho người thân mua rất nhiều tài sản, nhà cửa khu phố ở bên nước Anh.
b- Câu hỏi thứ hai thì tổng thống Thiệu cũng bị hỏi với giọng điệu rất là hằn học. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trả lời rằng ông phải ra đi vì nhiệm vụ của ông đã chấm dứt, ông đã từ chức. Lúc đó bọn Việt cộng tung tin rằng họ chỉ nói chuyện với tướng Minh, nếu ông Thiệu còn lại họ sẽ không chịu đàm phán hòa bình. Tổng thống Thiệu cũng nghĩ rằng cụ Trần Văn Hương trước sau gì cũng phải đi tới một chính phủ Liên hiệp, mà điều đó trái với nguyện vọng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nên ông đành phải ra đi.
Tuy rằng tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã trả lời rất là bình tĩnh, hòa nhã nhưng nhưng thái độ hằn học của đồng hương lúc đó có thể đã làm nản chí các vị trong chính phủ VNCH, khiến họ ngại ngùng khi đứng ra gánh vác việc chung.
(Chắc cũng cần nhắc thêm là đêm 27 tháng 04 năm 1975, Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa đã họp khẩn cấp và duyệt cho ông Dương Văn Minh lên làm tổng thống với hy vọng ông Minh sẽ đàm phán hòa bình với Việt cộng. Thực ra lúc đó ông Dương Văn Minh chỉ là một ông Tướng về hưu đã được móc nối trong mạng lưới tình báo của cộng sản. Việc phê chuẩn của Quốc hội hoàn toàn vi hiến nên ông Dương Văn Minh không phải là Tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa, chiếu theo điều 39 và điều 52 của Hiến pháp VNCH.)
- Ðến năm 2002 thì Ủy ban Định Ranh Thềm Lục Ðịa của Liên Hiệp Quốc yêu cầu các quốc gia nạp hồ sơ biển đảo để họ cứu xét nới rộng thềm lục địa thêm 150 hải lý, ngày hết hạn là tháng Năm năm 2009. Rất sớm, Trung cộng đã nộp hồ sơ của họ mà trong đó họ có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Bọn Việt cộng thì ngồi yên trong thái độ của kẻ bán nước, chắc là đã nghe theo lời quan thầy Trung cộng. Cho đến khi chỉ còn 6 tháng nữa là hết hạn, thì các vị nhân sĩ VNCH cùng với thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn thấy thiệt thòi cho đất nước Việt Nam mình, nên gấp rút lập hồ sơ biển đảo của VNCH và nạp lên Ủy ban Định Ranh Thềm Lục Ðịa. Lúc đầu họ không chịu nhận vì họ chỉ nhận đơn ở cấp quốc gia và các quốc gia này phải có ký vào Hiệp ước Luật biển (UNCLOS) vào năm 1982. Nhưng may mắn là thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn còn giữ Sắc lệnh bổ nhiệm chức vụ Thủ tướng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, cộng thêm lời giải thích rằng Việt cộng đã cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa năm 1975 nên VNCH không có cơ hội để ký vào luật biển năm 1982. Với hai sự việc trên, Liên Hiệp Quốc đã nhận hồ sơ biển đảo của Việt Nam Cộng Hòa do Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đệ nạp, một hình thức gián tiếp nhìn nhận chế độ Việt Nam Cộng hòa còn hiện hữu với tư cách là chính phủ Việt Nam Cộng Hòa Pháp Định.
- Một điều đáng buồn là thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn vì quá vui mừng sau khi nạp được hồ sơ, cộng thêm tuổi già sức yếu, ông đã vĩnh viễn ra đi 9 ngày sau đó. Đây là một sự thiệt thòi rất lớn cho Chính phủ Pháp Ðịnh Việt Nam Cộng Hòa.
- Sau đó các ông Thiếu tướng Nguyễn Văn Chức và Thứ trưởng Nguyễn Thanh Liêm đã tiếp nối công việc của thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn để lo về những vấn đề về pháp lý của Chính phủ VNCH. Nhưng rồi hai ông này cũng lần lượt qua đời, để lại một khoảng trống chính trị cho VNCH.
- Ðến năm 2015, Ðệ nhất Quốc Vụ Khanh của thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn là luật sư Lê Trọng Quát đang sống ở Paris nước Pháp bước ra đảm trách vai trò Thủ tướng của Chính phủ Pháp Ðịnh Việt Nam Cộng Hòa. Thủ tướng Lê Trọng Quát và các cộng sự viên đã đi tìm nhân sự và vào năm 2017 đã có Sự vụ lệnh bổ nhiệm nhiều Tổng trưởng và Bộ trưởng vào trong Chính Phủ Pháp Ðịnh để làm việc. Ðến thời điểm này CPPÐ mới có một hội đồng Nội các tương đối đầy đủ.
- Thủ tướng Lê Trọng Quát đã đại diện Việt Nam Cộng hòa gửi thư cho Tổng thống Hoa Kỳ cũng như gửi thư lên Liên Hiệp Quốc. Ðiển hình là vào tháng tư năm 2020, Trung cộng dùng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam lập nên hai huyện Tây Sa và Nam Sa cho TC. Thủ tướng Lê Trọng Quát đã gửi kháng thư đến Tập Cận Bình. Bản sao đã được gửi Liên Hiệp Quốc, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cùng trên 10 quốc gia khu vực Đông Nam Á. Một lần nữa, CPPÐ VNCH lại dấn thân làm việc nước.
- Hiện nay CPPÐ đang vận động Hoa Kỳ kỳ và 8 nước trọng tài đã ký tên vào Ðịnh ước quốc tế ngày 2 tháng 3 năm 1973 cam kết tôn trọng sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Chúng ta muốn các nước nầy áp lực ngăn cản Trung cộng xâm lăng Việt Nam hoặc mang Trung cộng vào bàn hội nghị quốc tế để chấm dứt sự xâm lăng của Trung cộng. Công tác này không dễ dàng, vì Việt cộng là kẻ nội thù đang bán nước cho giặc. CPPÐ VNCH cần đến sự hợp tác của rất nhiều hội đoàn người Việt quốc gia, cũng như cần một lực lượng người Việt Quốc Gia hùng hậu đứng sau lưng CPPÐ. Hiện nay CPPÐ đang kêu gọi đồng bào Việt Nam Cộng Hòa trên toàn thế giới ghi tên vào Hội đồng Cố vấn hoặc vào Lực lượng Hỗ trợ cho CPPÐ để chính phủ có một tiếng nói mạnh mẽ trên chính trường quốc tế.
Kính mời đồng hương vào link dưới đây để ghi tên vào Hội đồng Cố vấn cũng như Lực lượng Hỗ trợ cho Chính phủ Pháp Định VNCH.
Link: GhiDanhHDCV.
Lúc đầu, những người trong Nội các Việt Nam Cộng Hòa rất e dè, ngần ngại đứng ra ra gánh vác việc chung, vì họ bị phê phán khá nặng nề. Tuy nhiên, khi quyền lợi của đất nước và dân tộc bị xâm phạm, lòng yêu nước giúp họ vượt qua những khó khăn về tâm lý để chung tay làm việc, bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ quyền lợi đất nước. Ngày hôm nay họ vẫn tiếp tục âm thầm làm việc cho quê hương, cho đất nước. Họ có tổ chức thành những Bộ, Ban ngành để làm việc nhưng đó chỉ là các chức vụ tình nguyện, không có lương. Họ không hô hào dân chúng đóng góp, họ cũng không ban phát những chức vụ tướng tá giả hiệu để lừa người dân. Cũng như chính phủ Việt Nam Cộng hòa khi xưa, Chính phủ Pháp định âm thầm làm việc. Làm mà nói ít, hoặc không biết nói. Một số người có thể vì hiểu lầm đã lên tiếng chê bai, chế giễu CPPÐ. Những hành động vô ý thức nầy có thể ngăn chận, làm trở ngại sự cố gắng đoàn kết dân tộc, bảo vệ đất nước trước sự xâm lăng của Trung cộng.
Kính xin đồng hương, đồng bào trong và ngoài nước tiếp tay với Chính phủ Pháp định tạo một lực lượng dân tộc, để họ dễ dàng lên tiếng trước quốc tế, bảo vệ đất nước, bảo vệ quê hương trước sự xâm lăng của Trung cộng và sự tiếp tay bán nước của Việt Cộng.
Link: VNCHPD.
Kính thư,
ĐIẾM NHỤC GIA PHONG
Trung tâm Thánh mẫu La Vang – Việt Nam (1798 – 2013)
************************************
DIỄN ĐÀN PHỤNG SỰ XÃ HỘI
************************************
Trung tâm Thánh mẫu La Vang – Việt Nam (1798 – 2013)
************************************
DIỄN ĐÀN PHỤNG SỰ XÃ HỘI
************************************
Lính miền Nam.
|
Khóc người đồng chí
Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy
Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !
Lê Phú Khải
Trong túi ta một gói thuốc chuồn
Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Ðể thấy miền Nam lính hiền ghê gớm…
Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp
Ta trèo lên cây hỏi rừng cho biết
một nơi nào hơn ở Việt Nam ?
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ?
Khóc người đồng chí
Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy
Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !
Năm tháng đi qua
Gần hết cuộc đời tôi mới ngộ ra
Không giọt máu Việt Nam nào là ngụy
Trừ những thằng bán nước – đi đêm
TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN THIỆU (1923 - 2001)
Ngày 29-9-2020
Kính Thưa Quý Vi Cao Minh,
Xin phép tôi Forward.
Như môt email trước đây và trong Đặc san Phố Hiến Hưng Yên,khi tôi làm PHT/Hội này.
Chúng tôi có khoe Thi Xà Hưng Yên Phố Hiến có thời là nơi ở và làm việc cũa cựu Tổng Thống VNCH
Cụ Nguyễn Văn Thiệu,vì khi đó Trung Tướng Tướng Thiệu là Trung Úy Ban 3,thường ra Vườn Nhà tôi thăm
và nói chuyển với Trung Úy Tâm và Thiếu Úy Tuấn(nay không biết Quý Cụ này còn hay không vàởđâu)
tất cả mấy Vịđó làm việc tại Khu Chiến Hưng Yên,(mà con của DeLatre de Tassigny mới là Thiếu Úy đồn Trưởng
bốt Cầu Ngàng Kim Đông,mấy Vịđó thích Khu Vườn Nhà tôi),Vì vườn rộng,nhiều cây như Cam,Nhãn và mát mẻ..trái cây free..
Nay,thấy Vị nào pút Tiễu Sử Cụ Nguyễn văn Thiệu,tôi xin phép forward cho mọi Người biết thêm, ví cá nhân tôi
yêu quý câu nói lịch sử<Đừng nghe cái gí chúng nó nói, Hảy nhìn cái gì chúng nó làm.>
vả lại trong Hồi ký của cựu DB DVB,về phần anh em ,DB DVB có viết khác.
Cá nhân tôi là công chức từ thời Cụ NDD,tới thời Cụ NVTh NCK,TVJ,DVM,tôi là lính,nên lúc nào cũng Biết ơn và Cám ơn quý Vịđó.
KÍnh
NDN
cưu SVK24 BBTD
——
TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN THIỆU -
TỔNG THỐNG đệ Nhị VIỆT NAM CỘNG HÒA
TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN THIỆU (1923 - 2001)
(Tài liệu trích từ sách "LƯỢC SỬ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA”
Tác giả: Trần Ngọc Thống. Hồ Đắc Huân. Lê Đình Thụy, trang 217 đến trang 221)
***
Số quân 43/300.661
Sanh ngày 05-4-1923 tại Tri Thủy, Tân Hải, Thanh Hải, Ninh Thuận (là em út của 7 anh chị em gồm 5 trai, 2 gái)
Thân phụ: Cụ Nguyễn văn Trung (từ trần năm 1969 tại Saigon)
Thân mẫu: Cụ Bùi thị Hành (từ trần tại Pháp)
Phu nhân: Bà Nguyễn thị Mai Anh (sanh năm 1930 tại Mỹ Tho), thành hôn 18-7-1951, là ái nữ của cụ Phạm Đình Thưởng, quê ở Mỹ Tho, từ trần năm 1964).
Sanh hạ 4 người con, gồm 2 trai và 2 gái.
Trưởng nữ: Nguyễn thị Tuấn Anh (phu nhân của Nguyễn Tấn Triều, Cao đẳng Thương mại Pháp, quý nam của ông Nguyễn Tấn Trung, Tổng Giám đốc Hàng không Việt Nam).
Trưởng nam: Nguyễn Quang Lộc (phu quân của Lục Hồng Kim Oanh, ái nữ của Thiếu tá Lục Sĩ Đức số quân 60/101.183. Sanh tháng 2-1940 Vũng Tàu. Khóa 16 Ấp Chiến lược trường Võ Bị Quốc gia Việt Nam.
Thứ nữ: Nguyễn thị Phương Anh
Thứ nam: Nguyễn Thiệu Long
Anh: Ông Nguyễn văn Hiếu (Cử nhân Luật tại Pháp. Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Tòa thánh La Mã).
Chị: Bà Nguyễn thị Phiếu (phu nhân của ông Phạm văn Tôn, từ trần năm 2004 tại Hoa kỳ)
Anh: Ông Nguyễn văn Kiểu (Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Trung Hoa Dân Quốc)
Chị: Bà Nguyễn thị Phận (phu nhân của ông Trần Phú Đường)
Chị vợ: Bà Marceline Nguyễn
Chị vợ: Bà Nguyễn thị Kim Xuyến (phu nhân của ông Phạm văn Mỹ)
Em vợ: Bà Nguyễn thị Hảo (phu nhân của ông Nguyễn Xuân Nguyên)
Học sinh trường Tiểu học Phan Rang
Học Trung học Pélerin Huế, kỹ thuật Lê Bá Cang Saigon
1946- 1947: Sinh viên Sĩ quan trường Hàng Hải Thương Thuyền
1949: Theo học Khóa 1 Bảo Đại (sau cải danh Phan Bội Châu) Trường Võ Bị Huế
Ngày 25-9, tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy
Trung đội trưởng đồn trú Mõ Cày, Bến Tre
1949-1950: Tu nghiệp lớp Căn bản Bộ Binh tại Trường Võ Bị Liên Quân Saint Cyr, Pháp
1951: Đầu năm, Trung úy học khóa Chỉ Huy Chiến thuật tại Trung tâm Huấn Luyện Chiến thuật Hà Nội
Ngày 1-7, Trung Đội trưởng Trung Đội 12, khóa sinh khóa 5 Trường Võ Bị Liên quân Đà Lạt
1952: Giữa năm, học khóa Tiểu Đoàn trưởng và Liên Đoàn trưởng lưu động tại Hà Nội
Phụ tá Trưởng Phòng 3 Khu Chiến Hưng Yên
1953: Trưởng Phòng 3 Khu Chiến Hưng Yên do Trung tá Dương Quý Phan Chỉ Huy Trưởng
Cuối năm, bàn giao Trưởng Phòng 3 Khu Chiến Hưng Yên lại cho Đại úy Cao văn Viên
1954: Đầu năm, Thiếu tá Chỉ huy trưởng Liên Đoàn Bộ binh số 11 (thành lập 1-12-1953, giải tán 15-12-1954 để thành 1 Trung Đoàn Bộ binh)
Tham dự Chiến dịch Atlante từ 20-1 đến 20-7-1954
Sau 20-7, Trưởng phòng 3 Đệ Nhị Quân khu Trung Việt Huế do Đại tá Trương văn Xương làm Tư Lệnh
Tháng 9, bàn giao Trưởng phòng 3 Đệ Nhị Quân Khu lại cho Thiếu tá Trần Thiện Khiêm
Tháng 10, Tham Mưu Trưởng Đệ Nhị Quân Khu Trung Việt
Cuối năm Tiểu Khu trưởng Ninh Thuận thay Thiếu tá Đỗ Mậu
1955: Đầu năm, bàn giao Tiểu khu trưởng Ninh Thuận lại cho Thiếu tá Thái Quang Hoàng
Tháng 3, Trung tá Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt thay Trung tá Nguyễn Văn Chuân (thời gian làm Chỉ huy trưởng đã tổ chức 3 Lễ mãn khóa 11, 11 phụ và 12)
1957: Tháng 7, bàn giao Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt lại cho Đại tá Hồ văn Tố để du học khóa Chỉ huy và Tham mưu cao cấp Leavenworth tại Kansas, Hoa Kỳ
1958: Tái nhiệm Chỉ huy trưởng trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt thay Đại tá Hồ văn Tố làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung
1959:
Tháng 2, bàn giao Chỉ huy trưởng trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt lại cho Thiếu tướng Lê văn Kim để du học khóa Tình báo Tác chiến tại Okinawa Nhật bản
Tham Mưu trưởng Hành quân tại Bộ Tổng Tham Mưu
Ngày 26-10, thăng Đại tá tạm thời (Nghị Định số 413/QP ngày 27-10-1959 của Bộ Quốc Phòng)
Du học lớp Phòng không tại trường Fort Bliss, Texas, Hoa Kỳ
1961: Đầu tháng 10, Tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh thay Đại tá Nguyễn Đức Thắng làm Tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh
1962:
Ngày 8-12, ban giao Tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh lại cho Đại tá Đỗ Cao Trí, Chỉ huy trưởng Trường Hạ Sĩ quan QĐVNCH
Ngày 20-12, Tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh thay Đại tá Nguyễn Đức Thắng làm Trưởng phòng Kế hoạch Hành quân Bộ Tổng Tham Mưu
1963:
Ngày 1-11, tham gia cuộc đảo chánh do Trung tướng Dương văn Minh cầm đầu
Ngày 2-11, vinh thăng Thiếu tướng
Ngày 5-11, Ủy viên Hội Đông Quân Nhân Cách Mạng
Ngày 8-12, tháp tùng phái đoàn ngoại giao do Ngoại trưởng Phạm Đăng Lâm hướng dẫn công du Nam Hàn tham dự lễ nhậm chức Tổng thống của Trung tướng Phác Chánh Hy
1964:
Ngày 30-1, tham gia cuộc Chỉnh lý Nội Bộ do Trung tướng Nguyễn Khánh Tư lệnh Quân Đoàn I cầm đầu
Ngày 31-1, Tổng Thư ký Hội Đồng Quân Nhân Cách mạng do Trung tướng Nguyễn Khánh làm Chủ tịch
Ngày 2-2, bàn giao Tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh lại cho Đại tá Đặng Thanh Liêm, Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung
Cùng ngày nhậm chức Tham Mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng Tham Mưu thay thế Trung tướng Trần Thiện Khiêm
Ngày 8-2, kiêm Thứ trưởng Quốc phòng trong Nội các do Trung tướng Nguyễn Khánh thành lập
Ngày 9-9, từ nhiệmThứ trưởng Quốc phòng
Ngày 15-9, bàn giao Tham mưu trưởng Liên Quân lại cho Thiếu tướng Cao văn Viên Tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù
Cùng ngày, nhận lãnh Tư lệnh Quân Đoàn IV và Vùng 4 Chiến thuật thay thế Trung tướng Dương văn Đức (bị giải nhiệm do cầm đầu cuộc biểu dương lực lượng vào ngày 13-9-1964)
1965:
Ngày 1-1, vinh thăng Trung tướng nhiệm chức (do Đại tướng Nguyễn Khánh gắn cấp bậc mới tại Bộ Tư lệnh Quân Đoàn IV và Vùng 4 Chiến thuật nhân ông chủ toạ lễ mừng kỷ niệm Đệ Nhị Chu niên ngày thành lập Quân Đoàn IV và Vùng 4 Chiến thuật tại Cần Thơ).
Ngày 18-1, Đệ Nhị Phó Thủ tướng trong nội các cải tổ của chánh phủ Trần văn Hương (Sắc lệnh số 9/QT/SL ngày 18-1-1965)
Ngày 20-1, bàn giao chức Tư lệnh Quân Đoàn IV và Vùng 4 Chiến thuật lại cho Thiếu tướng Đặng văn Quang Tư lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh
Ngày 18-2, Đệ Nhất Phó Thủ tướng trong nội các chánh phủ Bác sĩ Phan Huy Quát kiêm Tổng trưởng Quân Lực thay thế Trung tướng Trần văn Minh (Sắc lệnh số 040/QT/SL ngày 16-2-1965)
Ngày 3-3, Tổng Thư ký Ủy ban Thường Vụ Hội Đồng Quân Lực
Ngày 5-5, rời khỏi chức Tổng Thư ký Ủy ban Thường Vụ Hội Đồng Quân Lực khi Hội Đồng Quân Lực tự giải tán (do tuyên cáo số 7/HĐQL ngày 5-5-1965)
Ngày 11-6, vì chánh phủ dân sự gặp bất đồng chính kiến trong việc bổ nhiệm vài Bộ trưởng không thể giải quyết được, nên lúc 8 giờ đêm trong cuộc họp tại Phủ Thủ tướng, Quốc trưởng kỹ sư Phan Khắc Sửu và Thủ tướng bác sĩ Phan Huy Quát tuyên bố cùng từ nhiệm và giao quyền lãnh đạo quốc gia lại cho quý vị Tướng lãnh.
Quý vị Tướng lãnh chấp thuận sự từ nhiệm của nhị vị Quốc trưởng và Thủ tướng
Ngày 14-6, Đại hội Quân Lực gồm 50 thành viên Tướng lãnh họp tại trại Phi Long, Bộ Tư lệnh Không quân trong căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt, cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia (Quốc trưởng) và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh Không quân, giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành Pháp Trung ương (Thủ tướng)
Lúc 10 giờ 45 phút sáng, ngày 19-6-1965 tại Hội trường Diên Hồng lễ ra mắt của Đại hội Đồng, Ủy ban Lãnh Đạo Quốc gia và Nội các chiến tranh.
1966
Khởi đi từ 1966 ngày 19-6 hằng năm được Ủy ban Lãnh Đạo Quốc gia chọn làm ngày Quân lực
Ngày 6-2, hướng dẫn phái đoàn tham dự hội nghị Tối cao Honolulu từ ngày 7 đến ngày 8-2-1966 với Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Baines Johnson.
Ngày 23-10, hướng dẫn phái đoàn tham dự hội nghị Thượng Đỉnh Manila từ 24-25/10/1966
Ngày 31-10-1966, khánh thành Dinh Độc lập
1967
Ngày 19-3, hướng dẫn phái đoàn tham dự hội nghị Quân sự Guam với Tổng thống Hoa kỳ Johnson từ 20-21/3/1967
Ngày 1-4, ký ban hành Hiến pháp thay thế Hiến pháp 26-10-1956 tại tiền đình Dinh Độc lập (đã được Quốc hội Lập hiến thông qua ngày 18-3-1967 với số phiếu 102/117)
Ngày 15-6, ký ban hành Luật:
+ 01/67 bầu cử Tổng thống
+ 02/67 bầu cử Thượng viện
Ngày 30-6, nộp đơn đứng cùng ứng cử viên Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ (do dàn xếp của Hội Đồng Quân Lực). Sau đó đắc cử.
Ngày 31-10, nhậm chức Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (trước Hội trường Diên Hồng, trụ sở Quốc hội)
XIN BẤM "READ MORE"ĐỂ ĐỌC TIẾP
1971
Ngày 3-6, ký ban hành luật Điều kiện ứng cử Tổng thống nhiệm kỳ 2: 1971-1975
Nộp đơn ứng cử Tổng thống nhiệm kỳ 2 cùng với ứng cử viên Trần văn Hương
Ngày 3-10 tái đắc cử Tổng thống nhiệm kỳ 2: 1971-1975 (tại công trường Lam Sơn, Saigon)
Ngày 31-10, tuyên thệ nhậm chức Tổng thống nhiệm kỳ 2: 1971-1975 (tại công trường Lam Sơn, Saigon)
1972
Ngày 22-10, do áp lực của phong trào phản chiến Mỹ và cuộc bầu cử Tổng thống của Ông Nixon sắp đến, Mỹ cần phải rút quân về gấp và để có thể cắt viện trợ theo ý đa số Quốc hội Mỹ, Ngoại trưởng Kissinger đã cố ép Việt Nam phải ký Hiệp Định Paris nhưng bị Tổng thống Thiệu và Hội Đồng Nội các Việt Nam quyết liệt phản đối. Kissinger đã dọa: "Mỹ có thể ký Hiệp Định riêng với Hà Nội. Tôi không bao giờ trở lại Saigon nữa. Trong ngành ngoại giao chưa bao giờ tôi bị thất bại nặng nề như lần này". Khi nghe Kissinger nói, ông Thiệu xoay lại chỉ lên bản đồ nói: "Mỹ mất Miền Nam là mất điểm nhỏ trên bản đồ thế giới, nên không coi đó là điều quan trọng. Nhưng chúng tôi mất Miền Nam là mất nước. Nếu Mỹ không tiếp tục chiến đấu ở đây, thì chúng tôi chiến đấu một mình cho đến khi hết phương tiện rồi chúng tôi chết. Nếu tôi ký Hiệp định là tôi tự sát" (V.N nhân chứng của Tướng Đôn, trang 411)
1973
Ngày 23--1973, vì sức ép của Mỹ và quá tin lời hứa hẹn của Tổng thống Nixon, Miền Nam đã bất đắc dĩ phải ký Hiệp Định Paris.
1975
Tháng 1-1975, Cộng sản biết Mỹ đã cắt viện trợ quân sự và kinh tế của miền Nam. Cộng sản đã chiếm Phước Long, kế đến chiếm Banmêthuột, nhưng Mỹ và các nước Tây phương đều không lên tiếng phản đối cộng sản vi phạm Hiệp định Paris.
Ngày 14-3, Tổng thống Thiệu họp ở Cam Ranh ra lệnh triệt thoái vùng Cao nguyên để bảo toàn lực lượng. Vì cuộc triệt thoái này làm quân đội thiệt hại, mất hết tinh thần đưa đến sụp đổ toàn Miền Nam Việt Nam!
Ngày 21-4, lúc 7 giờ 30 tối, ông Thiệu lên đài truyền hình cay đắng tố cáo Mỹ phản bội, từ nhiệm Tổng thống và bàn giao lại cho Phó Tổng thống Trần văn Hương
Ngày 25-4, lúc 8 giờ đêm, rời Saigon bằng phi cơ C.118 qua Đài Loan
Sau ngày 30-4, định cư tại Winabledon, ngoại ô Luân Đôn, thủ đô Anh quốc
1985: Đoàn tụ gia đình với các con, ban đầu tại Newton, sau về Fox Borrough, ngoại ô Boston, Massachusettes, Hoa Kỳ.
2001
Ngày 29-9, từ trần lúc 10 giờ 20 phút đêm tại bệnh viện Beth Israel Deaconess Medical Center, Boston, Massachusettes, Hoa Kỳ. Hưởng thọ 78 tuổi
Linh cữu được quàn tại Eaton, Mackay Funeral Home ở số 465 Center Street, Newton, Massachusettes
Ngày 6-10, thánh lễ lúc 11 giờ trưa tại Thánh Đường St. Ignatius De Loyda, Boston và hỏa táng lúc 12 giờ 30 phút trưa. Tang lễ được tổ chức rất trọng thể với sự hiện diện của nhiều vị Tướng lãnh và các nhân vật đã từng tham chánh trong nền Đệ Nhị Cộng Hòa cùng với các chiến hữu và đồng bào định cư trong vùng và các nơi khác tham dự.
Trong quyển hồi ký "Ending Vietnam War" (trang 314), ngoại trưởng Kissinger nhận định về Tổng thống Thiệu như sau: "Ông Thiệu là một người ái quốc và rất thông minh. Ông đã phục vụ xứ sở ông trong một cuộc chiến tàn khốc với khả năng và lòng tận tụy".
Trong cương vị Tổng thống, Trung tướng Nguyễn văn Thiệu đã để lại những lời tuyên bố đã đi vào lịch sử:
"ĐỪNG NGHE NHỮNG GÌ CỘNG SẢN NÓI, HÃY NHÌN KỸ NHỮNG GÌ CỘNG SẢN LÀM"
"ĐẤT NƯỚC CÒN, CÒN TẤT CẢ, ĐẤT NƯỚC MẤT, MẤT TẤT CẢ"
Tài liệu: Trích từ sách "LƯỢC SỬ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA”
Tác giả: Trần Ngọc Thống. Hồ Đắc Huân. Lê Đình Thụy
Trang 217 đến trang 221
Người chép lại: Như Thương FL
.
Source: https://mauaotran.blogspot.com/2020/09/trung-tuong-nguyen-van-thieu-tong-thong.html
——
ĐHS.
Sent from my iPad
--
You received this message because you are subscribed to the Google Groups "PhucHungViet" group.
To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to PhucHungViet+unsubscribe@googlegroups.com.
To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/PhucHungViet/4F7A3F5A-D5D6-415F-866C-4C51AF188814%40yahoo.com.
__._,_.___
MỘT CUỘC CÁCH MẠNG 1-11-1963 “BỎ TÚI”
MỘT CUỘC CÁCH MẠNG 1-11-1963 “BỎ TÚI”
Cách-Mạng 1-11-1963 gồm có phần chính là cuộc đảo-chính quân-sự tại Thủ-Đô Sài-Gòn, và phần phụ là sự hưởng-ứng thể-hiện bằng công-điện của các Tư-Lệnh Quân-Đoàn/Vùng Chiến-Thuật, Sư-Đoàn, Tỉnh-Trưởng, Thị-Trưởng, từ vĩ-tuyến 17 đến Mũi Cà-Mau, lần-lượt gửi về “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mang” tại Trung Ương.
Thế nhưng, tại Tỉnh Quảng-Đức xa-xôi hẻo-lánh này, đồng-bào các giới trông đợi cả tuần vẫn không nghe thấy động-tĩnh gì trong tỉnh mình.
Vì nôn-nóng quá, có một trung-sĩ thuộc ngành An-Ninh Quân-Đội, tên Nguyễn Đình Khôi, đã đứng ra cầm đầu một số hạ-sĩ-quan bạn, lập thành một lực-lượng “Cách Mạng 1-11-1963” cho tỉnh mình.
Trong một buổi tối, họ đã đi tước khí-giới, cô-lập, và cử người khác lên thay, các cấp cầm đầu Chính-Quyền và lực-lượng quân-sự tại Thị-Xã Gia-Nghĩa là tỉnh-lỵ của tỉnh địa-phương: Trưởng Ty An-Ninh Quân Đội, Trưởng Ty Cảnh-Sát Quốc-Gia, Tỉnh-Đoàn-Trưởng Bảo An, Tiểu-Khu-Phó, và cả Tỉnh-Trưởng.
Trong đêm, họ dùng phương-tiện của Ty Thông-Tin kêu gọi đồng-bào sáng sớm hôm sau dự cuộc mít-tinh trên Đồi Gia-Nghĩa, trung-tâm tỉnh-lỵ nhà.
Cũng nội trong đêm, họ đã thực-hiện được một khán-đài, với những biểu-ngữ, bích-chương, dàn máy vi-âm và loa phóng-thanh, cùng với bản thảo công-điện kiến-nghị gửi về Trung Ương, đồng-thời gửi thư mời dự đến các Trưởng Phái-Bộ Viện-Trợ Kinh-Tế và Cố-Vấn Quân-Sự Hoa-Kỳ.
Sáng sau, đúng theo chương-trình đã định, dân-chúng tụ-họp dưới sân, và các nhân-vật Hoa-Kỳ cùng với một số hạ-sĩ-quan thành-viên “Lực-Lượng Cách-Mạng 1-11-1963” của Tỉnh Quảng-Đức ngồi trên khán-đài, trung-sĩ “Chủ-Tịch Lực-Lượng Cách-Mạng Tỉnh Quảng-Đức”cầm máy vi-âm tuyên-bố toàn-quân toàn-dân trong tỉnh hưởng-ứng cuộc Cách-Mạng tại Thủ-Đô Sài-Gòn, rồi bắt Đại-Tá Hồ Nghĩa, là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng “chế-độ cũ” ra nhận tội trước mọi người và ký biên-bản rời khỏi chức-vụ tức-thời.
Đặc-biệt là viên Trưởng Phái-Bộ Viện-Trợ Kinh-Tế Hoa-Kỳ của Tỉnh cũng lên máy phát-biểu ủng-hộ “Chính-Quyền Mới” tại địa-phương.
Sau cùng, trung-sĩ Chủ-Tịchđọc bản kiến-nghị.
Sau khi được mọi người hiện-diện đồng-thanh hô lớn thông-qua, anh ta ký tên, cho Phòng Truyền-Tin của Tiểu-Khu gửi bản kiến-nghị ấy vào “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng”, đồng gửi vào Đài Phát-Thanh Sài-Gònđể phổ-biến cho toàn-quốc đều nghe.
Thế là cuộc Cách-Mạng 1-11-1963 bỏ túi của Tỉnh Quảng-Đứcđã thành-công.
Viên trung-sĩ nói trên đương-nhiên trở thành người cầm đầu mọi việc trong tỉnh.
Đến mấy ngày sau, Hội-Đồng Tướng-Lãnh Cách-Mạng Trung-Ương mới nhớ đến Tỉnh Quảng-Đức, lấy bức công-điện ra xem thì thấy Nguyễn Đình Khôi là một cái tên lạ hoắc, lại có kèm theo cấp-bậc, chỉ là một hạ-sĩ-quan, hỏi quanh không ai biết gì, liền vội ra lệnh điều-tra.
Bộ Tư-Lệnh Sư-Đoàn 23 Bộ-Binh/Khu 23 Chiến-Thuật (đóng ở Buôn Ma Thuột, thuộc Tỉnh Darlac) mà hoạt-vực bao gồm cả Tiểu-Khu/Tỉnh Quảng-Đức, được giao trách-nhiệm giải-quyết vụ này.
Trung-Tá Đặng Hữu Hồng, Trưởng Phòng 2 Sư-Đoàn, đích-thân tổ-chức một cuộc hành-quân quy-mô, vì phải đối-phó với một Tiểu-Khu tức Tỉnh, tức là với mọi lực-lượng quân-sự và bán-quân-sự hiện có trong tỉnh này.
Nhờ một mưu-kế, Trung-Tá Hồng bắt sống được Trung-Sĩ Khôi, đưa lên trực-thăng chở về Sư-Đoàn.
Thế là Trung-Tá Hồngđược thưởng công, cho ở lại làm Tiểu-Khu-Trưởng kiêm Tỉnh-Trưởng Tỉnh Quảng-Đức luôn.
Về sau, Trung-Sĩ Nguyễn Đình Khôi bị Quân-Đội truy-tố về mặt quân-kỷ và bị đưa ra xét-xử trước Toà Án Quân-Sự Tại Mặt Trận ở Nha-Trang.
|
__._,_.___
THĂM CAMP ZAMA, TỔNG HÀNH DINH LỤC QUÂN HOA KỲ VÀ CHỈ HUY TRƯỞNG THIẾUTƯỚNG LƯƠNG XUÂN VIỆT
Kính chuyển để kính tường. Xin chuyển tiếp nếu có thể. Nếu xem hình không rõ, xin xem attachments. Đa tạ.
THĂM CAMP ZAMA, TỔNG HÀNH DINH LỤC QUÂN HOA KỲ THÁI BÌNH DƯƠNG
VÀ CHỈ HUY TRƯỞNG THIẾU TƯỚNG LƯƠNG XUÂN VIỆT
* Triều Giang
Lịch sử thành lập Camp Zama
Và bối cảnh Thái Bình Dương nổi sóng hôm nay
Trái: Bảng hiệu của Camp Zama trên trang nhà. Phải: TT. Việt ngồi trong văn phòng làm việc
Trước sự hung hăng của Trung Cộng (TC) tại Biển Đông và nhiều nơi trên thế giới, Hoa Kỳ không thể tiếp tục tin vào lời hứa của TC là sẽ phát triển trong hòa bình , chính sách ngoại giao và quân sự của Hoa Kỳ dưới thời TT. Trump đã thay đổi hầu như hoàn toàn. Ngoại trưởng Pompeo vào tháng 7, 2020 vừa qua đã chính thức bác bỏ tất cả những yêu sách tại Biển Đông của Trung cộng và công khai ủng hộ các nước trong vùng như Đài Loan, Phi Luật Tân, Nhật Bản, Nam Dương, Ấn Độ, Viêt Nam…Nhưng một câu hỏi đã được một số người đặt ra rằng: nước Mỹ cách xa biển Đông tới nửa vòng trái đất, làm thế nào để có thể huy động và điều hành một liên minh quân sự gồm nhiều quốc gia trong cả hai vùng biển: Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương để đối đầu hữu hiệu với TC ?
Camp Zama, Tổng Hành Dinh Lục Quân Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương
Thống tướng Douglas McArthur ký hiệp ước đầu hàng của Nhật Hoàng trên tàu USS Missouri đậu tại vịnh Tokyo ngày 2/9/1945
(Hình trang nhà của Camp Zama)
Trở về lịch sử thời cuối Thế chiến Thứ hai, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Tướng Douglas McArthur tiếp nhận hiệp ước đầu hàng của Nhật Bản trên chiến hạm USS Missouri đậu tại vịnh Tokyo, sau khi hai quả bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima và Nagasaki trong tháng 8, 1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Theo Hiệp ước đầu hàng, Nhật Bản không có quyền vũ trang, quân đội đồng minh, đứng đầu là Hoa Kỳ với sự hỗ trợ của các nước trong khối Thịnh vượng chung của Anh chiếm đóng Nhật trong 7 năm tới tháng 4, 1952. Trong thời gian này Tướng McArthur đã giúp Nhật tái xây dựng và trở thành nước dân chủ tự do nhưng vẫn chưa có quyền vũ trang.
Để giữ gìn an ninh cho Nhật Bản cũng như sự ổn định trong vùng biển Thái Bình Dương, đơn vị nhận trách nhiệm quan trọng này là Quân đội Hoa Kỳ Nhật Bản (USARJ), tiền thân là Lực lượng Lục quân Viễn Đông (AFFE), được thành lập tại Manila vào tháng 7 năm 1941 do Tướng MacArthur chỉ huy. Trụ sở chính của USARJ được chuyển đến Melbourne, Úc vào năm 1942. Sau 1945, trụ sở ban đầu chuyển đến Tokyo, rồi đến Yokohama vào năm 1953, và cuối cùng đến địa điểm hiện tại, Camp Zama vào tháng 10 năm 1953. (Zama trước đây là doanh trại của quân đội Hoàng gia Nhật).
Camp Zama từ đó không chỉ là căn cứ chỉ huy của Lục quân Hoa Kỳ tại Nhật mà nó còn nắm vai trò quan trọng là ổn định an ninh toàn vùng Thái Bình Dương. Từ căn cứ này Quân đội Hoa Kỳ Nhật Bản (USARJ) với sự tiếp tay của đồng minh giải quyết những cuộc chiến tranh giành độc lập từ phát xít tới các thực dân của các nước Triều Tiên, Phi Luật Tân, Trung Hoa, Đài Loan, Nam Dương, Mã Lai Á, Việt Nam… Thành tích và kinh nghiệm trong việc điều hành các lực lượng quân sự đa quốc gia để đối phó với kẻ thù của USARJ đã chứng minh thực lực của nó.
Điều đặc biệt đáng nói ở đây là người đang đứng đầu USARJ hiện tại để đối phó với tham vọng điên cuồng của TC tại vùng biển Thái Bình Dương đang dậy sóng hôm nay là Thiếu tướng người Mỹ Gốc Việt Lương Xuân Việt, một hậu duệ của Quân lực VNCH. Cha ông là cố Thiếu tá Lương Xuân Dương thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. TT. Việt là vị Tướng chỉ huy trưởng thứ 37 của Hoa Kỳ tại Camp Zama. Người đầu tiên là danh tướng, Thống tướng Douglas McArthur.
Thăm TT. Lương Xuân Việt và gia đình
Mặc dù người viết có phần giới thiệu khá chi tiết về lịch sử thành lập camp Zama cũng như bối cảnh hiện tại của Zama, nhưng trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ muốn gói ghém về cuộc thăm viếng của chúng tôi với TT. Việt và phu nhân để nói về đời sống và một chút tâm tình của họ khi họ mới rời Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn Tám tại Camp Humphreys, nước Đại Hàn đến nhận nhiệm sở mới tại đây cách đây đúng 2 năm.
Chúng tôi đáp máy bay từ Đài bắc đến phi trường Tokyo vào quá trưa, người đón chúng tôi là ông Nguyễn Đức Kiên, một doanh nhân và cũng là nhà hoạt động từng là sinh viên thời VNCH đi du học và được lưu lại tại đây sau khi miền Nam thất thủ. Cùng đi với ông có người bạn trẻ du sinh từ Việt Nam.
Camp Zama cách phi trường Tokyo khoảng 40km về hướng Tây Nam, nằm trong tỉnh Zama giữa sông Sagami và dưới chân rặng núi Tanzawa Mountain Range. Thường thì chỉ mất khoảng hơn 1 giờ đồng hồ nhưng vì nạn kẹt xe vào giờ cao điểm nên mãi tới gần 5 giờ chiều chúng tôi mới tới cổng sau của doanh trại. Chúng tôi liên lạc với đội lính gác cổng, họ chỉ đường cho chúng tôi đi vòng ra cổng chính. Loay hoay cũng mất thêm nửa giờ đồng hồ nữa. Khi chúng tôi vào bên trong phòng trình giấy tờ thì không gặp khó khăn vì tên tuổi, số xe, đời xe của chúng tôi đã được khai báo chí tiết khoảng 2 tuần trước khi tới. Vừa lúc TT. Lương Xuân Việt trên đường đi làm về ghé lại, đón chúng tôi tại cổng và hướng dẫn xe của chúng tôi bằng chiếc xe Utility.
Từ cổng chính vào tới ngôi biệt thự của TT. Việt khoảng một cây số. Nơi đây bao gồm những văn phòng làm việc của trên 2,000 binh sĩ trực thuộc 4 đơn vị khác nhau nhưng đều được đặt dưới quyền chỉ huy của TT. Lương Xuân Việt. Đó là: Lục Quân Hoa Kỳ tại Nhật (United States Army, Japan), Tiểu đoàn hàng không lục quân Nhật Bản, (U.S. Army Aviation Battalion Japan), Lữ đoàn 500 tình báo quân sự Hoa Kỳ, (500th Military Intelligence Brigade (United States), Quân đoàn công binh Hoa Kỳ (United States Army Corps of Engineers), Lực lượng phòng vệ Lục Quân Nhật Bản (Japan Ground Self-Defense Force).
Liền với doanh trại, là hai khu gia binh rộng lớn bao gồm một trường Tiểu học, Trung học cấp II và cấp III, sân vận động, khu shopping, PX bán nhu yếu phẩm cho binh sĩ và gia đình, những khu triển lãm những di tích về doanh trại đã gần 80 tuổi, khu sinh hoạt của các tổ chức, hội đoàn tôn giáo, thể thao cũng như dân sự. Nơi đây như một xã hội thu nhỏ dành cho trên 4,000 người gồm binh sĩ, những công chức Hoa Kỳ và gia đình của họ có thể sống và sinh hoạt một cách độc lập với bên ngoài nếu cấn.
Căn biệt thự mái màu xanh lục.
Trái: Địa chỉ nhà. Giữa: Mặt trước biệt thự mái ngói xanh lục. Phải: từ trái: TT.Việt, bà Kimberly, Nancy Bùi, Triển Bùi
Hai bên đường vào trại, sau những hàng rào cây cao xanh rì là những bờ cỏ xanh mướt màu lá mạ, được tô điểm bởi những cây kiểng cắt sắc sảo theo hình tròn lớn nhỏ trông rất đẹp mắt và tạo ra một khung cảnh tươi mát cho doanh trại. Chúng tôi đi ngang những dãy nhà làm văn phòng, rồi những khu triển lãm những chiếc máy bay và những chiến cụ, sân vận động và căn biệt thự mái ngói xanh lục với tường trắng xinh xắn, nổi bật ở cuối trại. Trước biệt thự có cổng Torii mini màu đỏ xinh xắnđề tên Gen. Luong bằng tiếng Anh và tiếng Nhật, và đó là nơi cư ngụ của TT. Việt và gia đình từ tháng 8, 2018 cho đến nay.
TT. Việt xuống xe mời chúng tôi vào nhà và dẫn chúng tôi đến phòng khách rộng mênh mông theo suốt chiều dài phía sau của căn biệt thự với hàng cửa kính nhìn thông ra mảnh vườn rộng. Phía trái của vườn là hồ cá kiểng với chiếc cầu nhỏ cũng được sơn màu đỏ nổi bật trên nền cây xanh cuối vườn, Từ cuối vườn bạn có thể phóng tầm mắt xa xa tận cuối chân trời là dãy núi Tanzawa xanh thẩm. Phía phải của khu vườn là những cây cổ thụ cao và rậm lá. Dưới chân cổ thụ được trang hoàng bằng những cây cảnh được cắt tỉa gọn gàng bao quanh. Ngồi trong phòng khách được trang hoàng với những bình hoa lan tím thơ mộng, nhìn ra phía sau nhà là một khung cảnh tươi mát, hùng vĩ đem lại cảm giác thoải mái như trút hết âu lo của một ngày dài làm việc.
TT. Lương Xuân Việt tiếp chúng tôi trong phòng khách có khung cảnh mượt mà này. Đã khoảng 3 năm chúng tôi không gặp nhau, lần trước đó, ông đã đến tham dự và là một trong những Diễn giả cho buổi trình chiếu phim VIETNAMERICA mà ông là một trong những nhân vật chính của phim, tại Viện Bảo Tàng Truyền Thông Hoa Kỳ Newseum tại Hoa Thịnh Đốn. Phim VIETNAMERICA nói về chiến tranh Việt Nam và cuộc trốn chạy khỏi Việt Nam của trên 2 triệu người dân sau khi CS chiếm hoàn toàn VN vào ngày 30/4/1975 do hội Bảo Tồn Lịch Sử và Văn Hóa Người Mỹ Gốc Việt (VAHF) sản xuất năm 2015. Phim được chọn vào 15 Đại hội Điện ảnh và thắng 5 giải quốc gia và Quốc tế.
Kỷ niệm khó quên tại Nam Hàn
Mới có 3 năm nhưng TT. Việt trông khác nhiều, dù ông vẫn còn nét rắn rỏi, nhanh nhẹn của một võ tướng, nhưng nét trung niên đã khá rõ, với gương mặt ưu tư và nghiêm nghị. Mặc dù khi nói chuyện ông vẫn giữ được tính vui vẻ, chân thành, linh hoạt và có đôi khi dí dỏm, tiếu lâm. Những nét rắn rỏi và thân hình thon gọn chính là nhờ những buổi luyện tập thường xuyên với binh sĩ. Là Chỉ Huy trưởng của căn cứ với những đơn vị danh tiếng bao gồm cả Hải Lục, Không quân, nhưng vị Tướng hai sao gốc Việt vẫn dẫn đầu những cuộc chạy bộ của quân sĩ chung quanh Camp Zama, không khác gì thời ông còn là Đại tá Chỉ Huy trưởng Lữ Đoàn Nhảy dù của Sư đoàn Lục Quân 101 Hoa Kỳ, sư đoàn danh tiếng từng tham chiến tại Việt Nam, tại Kentucky mà tôi đã có dịp thăm ông và gia đình ông vào tháng 5, 2012 trong dịp ông và 7,000 binh sĩ của ông trở về từ A Phú Hãn. Đó là lý do khiến sĩ quan cũng như binh lính phục vụ dưới quyền ông luôn kính nể vị chỉ huy của họ.
Chúng tôi kể cho nhau nghe những sinh hoạt của hai bên từ lần gặp trước Ông kể về thời gian ông làm chỉ huy phó chỉ huy của Camp Humphreys tại Nam Hàn. Căn cứ này là căn cứ lớn nhất của quân đội Hoa Kỳ tại hải ngoại với khoảng trên 28,000 binh sĩ đóng quân tại đây nên sinh hoạt rất tấp nập với trên 20 đơn vị trong nhiều ngành. Ông cho biết sự giao hảo với quân đội Nam Hàn rất tốt đẹp vì hoàn cảnh lịch sử của Nam hàn cũng tương tự như Việt Nam, đất nước bị chia đôi vì nạn Cộng sản nên sự thông cảm gần gũi cũng rất tự nhiên.
Tại nơi đây, chuẩn tướng Lương Xuân Việt được vinh thăng Thiếu tướng vào tháng 2, 2018, một buổi lễ vinh danh long trọng đã được tổ chức tại Camp Humphreys để đánh dấu bước tiến quan trọng mà ông trước đó với bản tính khiêm nhường, không nghĩ rằng trong binh nghiệp của ông có thể có được. Cũng trong thời gian này, TT. Việt kể lại rằng: Hoa Kỳ và Bắc Hàn đã rất gần với chiến tranh vì những đe dọa quyết liệt của chủ tịch Bắc Hàn Kim Young Un. Đơn vị của ông và quân đội Nam Hàn luôn bị đặt trong tình huống khẩn cấp nhất để có thể chuyển tới chiến trường bất kỳ lúc nào.
Trái: Con gái Ashly Lương và phu nhân Kimberly Lương gắn lon Thiếu tướng cho cha và chồng tại Camp Humphreys, Đại Hàn Phải: Buổi lễ tiễn đưa khi TT.Việt rời khỏi Đại Hàn để sang Nhật nhận nhiệm sở mới tại Zama, Nhật Bản. (Hình của 8th Army Public Affairs)
Chuyến viếng thăm cố hương Việt Nam
Vừa lúc phu nhân của TT. Việt, bà Kimberly Lương, ra gặp chúng tôi, bà xin lỗi vì bận giải quyết một vài công việc trước khi ra tiếp khách. Cả hai người kể cho chúng tôi nghe về chuyến viếng thăm Việt Nam của ông bà trong thời gian họ còn ở Nam Hàn để hội họp với các tướng lãnh Việt Nam hòng chuẩn bị trước cho cuộc họp thượng đỉnh giữa Mỹ và Triều Tiên. Ông kể:
“Chúng tôi chưa bao giờ trở lại Việt Nam từ năm 1975, nghe nói rất nhiều về Hà Nội nên cũng rất háo hức muốn được thăm phần đất quê hương này. Chúng tôi muốn đi thăm như một người thường để có cảm nhận của người du lịch chứ không phải là quan chức, nhưng họ vẫn sắp xếp người đi giữ gìn an ninh cho chúng tôi. Hà Nội có nhiều nhà cửa phố xá mới xây bên cạnh những căn nhà cũ kỹ nên cảnh phát triển không đồng đều. Người rất đông và ồn ào không mấy trật tự nên cái cảm giác bất an như bủa vây chúng tôi”.
Bà Kimberly chia sẻ:
“Khách sạn chúng tôi ở tương đối tốt. Những tiếp viên ở đây khá lịch sự và thân thiện. Điều khiến tôi cảm thấy không thoải mái mỗi khi ra đường là có những người dân tò mò ra xem chúng tôi, họ vẫy tay chào vui vẻ, hoặc khi chúng tôi đi vào những khu bình dân chật hẹp, thì những người lính bảo vệ an ninh cho chúng tôi cầm baton xua đuổi và còn đánh người nữa.
Chúng tôi đã từng đi nhiều nơi trên thế giới nhưng chưa bao giờ gặp cảnh này. Nay về đến quê hương mình cảm thấy nó không thoải mái chút nào! Cảnh tượng làm cho tôi liên tưởng đến cảnh mấy ông Tây thời Pháp thuộc đi đến đâu là có lính hầu đến đó và họ dẹp đường bằng cách đánh ngưới dân như trong sách vở mà tôi đã được đọc. Cái khó chịu đến muốn nổi gai ốc là mình bây giờ chính là hình ảnh của những quan chức Pháp thuộc đó”. Bà Kimberly kể tiếp:
“Khi vào tới miền Nam thì không khí có vẻ thoải mái hơn vì người miền Nam thân thiện hơn. Nhưng nói chung chuyến về thăm quê hương sau bao năm xa cách không để lại nhiều kỷ niệm đáng nhớ.”.
Có một điều tế nhị tôi muốn hỏi nhưng lại thôi, đó là cảm tưởng của TT. Việt ra sao khi ngồi họp đối mặt với các Tướng CS Việt Nam để bàn về chuyện quân sự phòng thủ tại biển Đông trước sự xâm lăng hung hãn của TC? Tôi nghĩ mình sẽ hỏi ông trong một dịp khác thích hợp hơn.
Chef Cordon Blue nấu phở Việt Nam
Trái: Phòng khách. Giữa: Phòng ăn. Phải: Bữa ăn chia tay tại nhà hàng Nhật trong phố Zama
Với chiếc áo đầm màu đỏ, trông bà Kimberly tươi trẻ, thư thái hơn lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau tại doanh trại của Sư đoàn 101 Hoa Kỳ tại trại Fort Campbell, tiểu bang Kentucky. Khi ấy, đời sống của bà và 3 người con, hai trai một gái đang ở tuổi “teen” là những ngày tháng dài của chinh phụ đợi chờ người chồng, người cha còn ở ngoài mặt trận A Phú Hãn. Khi ấy bà Kimberly ngoài việc lo toan việc nhà, kể cả những việc không dễ cho phụ nữ như thay bóng đèn điện, thay lốp xe, cho đến việc bếp núc hay chăm sóc các con, bà còn phải ủy lạo thăm viếng, an ủi những người vợ và gia đình của các chiến binh dưới quyền của chồng, đặc biệt là trong dịp chồng của họ bị thương, bị mất tích hay chẳng may tử trận. Bà đã tâm sự:
” Mình buồn và sợ phải đối đầu với những người vợ, người con đang phải lo lắng hay khổ đau vì sự mất mát người thân, trong khi chính bản thân mình lòng cũng đang tan nát vì lo sợ cho người chồng của mình không biết có an toàn hay không?”.
Nhưng bà đã không để một người vợ nào phải buồn và cảm thấy bơ vơ vì không được nâng đỡ. Những lo lắng đó đã nhẹ bớt rất nhiều vì mặc dù Camp Zama đang trong những ngày căng thẳng nhưng chiến tranh còn ở mức độ chuẩn bỉ. Hiện bà có những công tác xã hội như thăm viếng trường học hoặc tham dự những ngày lễ hội cùng với những phu nhân các vị tướng người Nhật hay các phái đoàn ngoại giao của những nước khác. Bà chia sẻ:
” Các bà tướng của Nhật phần đông họ lớn tuổi hơn mình nên họ cũng rất thân thiện và cởi mở. Những dịp lễ lớn thì các bà diện Kimono. Còn mình thì có dịp diện áo dài, vui lắm”.
Về áp lực con cái cũng giảm nhiều cho bà; Lương Thị Thu Diễm Ashley, cô con gái đầu lòng đã hoàn tất trường Luật và đang ôn bài để thi lấy bằng luật sư (Bar Exam), Lương Xuân Huy Brandon,,con trai lớn đang theo học năm cuối của Đại học, và Lương Xuân Quốc Justin,con trai út cũng vừa vào Đại học. Cả 3 đều có mong ước được phục vụ trong quân đội để nối nghiệp cha.
Riêng về việc sinh hoạt hàng ngày tại Zama, ít người biết là những phúc lợi của một vị Thiếu Tướng của Hoa Kỳ cũng gia tăng so với cấp Đại tá. Những công việc trong nhà như dọn dẹp lau chùi, cắt cỏ có người đến làm mỗi tuần một số giờ, còn lại vẫn là do một tay bà Kimberly quán xuyến, và nếu không phải đi công tác xa thì TT.Việt vẫn chia sẻ với vợ. Tuy nhiên, vì nhu cầu ngoại giao, phải đón tiếp nhiều phái đoàn, TT. Việt được cung cấp môt đầu bếp chuyên nghiệp. Ông chia sẻ:
” Mình thì thích thức ăn Việt Nam nhưng danh sách những đầu bếp chuyên nghiệp gửi đến không có người Việt Nam. Thường thì Tướng trong quân đội Hoa Kỳ là người phương Tây, nên những đầu bếp thường là gốc Âu Mỹ. Trường hợp của tôi là cá biệt. Trong danh sách có một Chef người Á châu gốc Nam Dương nên có người nhiệt tình giới thiệu với hy vọng anh ta có thể nấu những món Á châu. Nhưng thật là “tổ trác”- TT. Việt nói đùa-:
“Anh ta là người Á Châu nhưng không nấu được món Á vì anh tốt nghiệp từ trường Cordon Blue là trường dạy nấu ăn các món Âu Tây nổi tiếng. Anh ta nấu các món Tây thật tuyệt, ngang hàng hay còn hơn các tiệm ăn Tây nổi tiếng. Ngon thì ngon thật nhưng nếu ăn tới ngày thứ hai là ngán chết luôn. Vì thế bà xã tôi phải huấn luyện cho anh ta nấu một số món Việt Nam.”
Bà Kimberly tiếp lời: “Anh ta cũng bắt đầu nấu được phở, tuy chưa ngon lắm nhưng cũng tạm được. Bây giờ mình đang tính dạy anh ta món bún bò Huế vì món này là một trong những món tủ của anh Việt. Nhưng phải đi tìm xem các món gia vị có bán tại Nhật không?”
Ông Kiên mau mắn cho biết sẽ tìm những gia vị nấu bún bò Huế rồi giới thiệu với bà Kimberly. Với kinh nghiệm sống nửa thế kỷ tại Nhật chắc chắn ông Kiên biết rõ ngọn ngành về thực phẩm cũng như nhiều thứ khác tại Nhật.
Văn phòng của chỉ huy trưởng
Trái: Văn phòng làm việc. Phải: Quân đội Nhật tại Camp Ychigaya dàn chào TT. Việt trong một chuyến viếng thăm Camp vào tháng 9/2018. (Hình phải của Kiyoshi Tokeshi-USARJ)
TT.Việt sau đó dẫn chúng tôi sang thăm văn phòng làm việc của ông. Văn phòng thật rộng rãi nằm trong tầng 2 của 7 tòa nhà hai tầng được sắp đan vào nhau theo hình chữ nhật. Trước tòa nhà có cột cờ lớn treo cờ Hoa Kỳ và cờ của USARJ. Bước lên nhiều bậc tam cấp để đi vào Đại sảnh, giữa đại sảnh trưng bày 4 lá cờ, cờ Mỹ, và cờ của USARJ hai bên, hai lá cờ giữa là cờ của hai đơn vị trực thuộc trong trại, Lên lầu, rẽ sang tay phải trước khi vào văn phòng của Chỉ huy trưởng, trên tường trưng bày hình ảnh của 37 vị Tướng từng là chỉ huy trưởng Zama cho đến nay; đầu tiên là hình của danh Tướng McArthur, và cuối cùng là TT. Chỉ huy trưởng đương nhiệm Lương Xuân Việt. Ngay giữa tường là hình của Tổng Tư lệnh tối cao của quân đội Hoa Kỳ;TT. Donald Trump, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng và các vị tướng lãnh cao cấp nhất của quân đội Hoa Kỳ.Trên tường còn trưng bày những hình ảnh quan trọng của doanh trại từ khi thành lập cho đến nay.
Phòng làm việc của vị Chỉ Huy trưởng rộng rãi nhưng trang hoàng giản dị và trang nhã. Trên bàn hình chữ L có bảng tên, một bản đồ lớn đặt dưới lớp kính, một khay đựng văn thư cần xét duyệt. Phía cánh trái là hai màn hình lớn của 2 computers, phía trên là một bức tranh. sau bức tranh còn trưng bày một cây kiếm và có một cái giá treo chiếc mũ cao bồi đen có giải màu vàng của Thiếu tướng chỉ huy trưởng. Trên bàn còn có một cuốn sách TT. Việt đang đọc dở dang. Trau dồi thể lực và trí lực là điều quan trọng ngang nhau của TT. Việt. Ông đọc rất nhiều về binh pháp. Phía trước bàn làm việc có một chiếc tủ kính trưng bày những tặng phẩm đẹp mắt và ngộ nghĩnh của văn hóa Nhật.
Đây là nơi vị chỉ huy trưởng Zama, ký những văn bản gửi đến cho những đơn vị trực thuộc tại Zama, đến các đơn vị liên hệ trong nước Mỹ, các cơ quan tại Nhật, và cơ quan liên hệ tại các quốc gia đồng minh trong vùng Thái Bình Dương, Ấn độ Dương và khắp nơi trên thế giới. Cũng tại văn phòng này bao quyết định liên quan đến sự thay đổi nhân sự, những công tác phòng thủ tại những căn cứ Lục quân trực thuộc tại Nhật, tại vùng Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. TT. Việt cho biết ông cũng thường đi thị sát 2 vùng biển này bằng trực thăng hoặc phi cơ quân đội. Ông cũng phải liên tiếp đi những chuyến đi xa như trở về Mỹ để hôi họp. Những chuyến đi dài cả hàng chục giờ nhiều lần trong một tháng cũng tiêu hao sức khỏe dù là một võ tướng.
Sau khi thăm văn phòng, TT.Việt và bà Kimberly mời chúng tôi đi ăn tối tại một tiệm ăn ngoài doanh trại. Phố xá của thành phố Zama bắt đầu lên đèn. Cảnh sinh hoạt sầm uất. Với mật độ dân số trên 7,000 người trên một cây số vuông nên các chung cư san sát nhau. Tuy vậy đường phố rất sạch và người Nhật không sống ồn ào. Với không khí mát mẻ của đầu mùa thu dễ chịu khiến cho du khách có cái cảm giác thoải mái và bình an. Bà Kimberly có vẻ quen thuộc với nhà hàng, bà giới thiệu thực đơn cho chúng tôi và cuối cùng chúng tôi kêu món mực chiên làm khai vị để ăn chung và mỗi người kêu một tô mì Udon. Bữa ăn giản dị nhưng ngon miệng. Thực phẩm của người Nhật luôn cho người thưởng thức sự an tâm vì sạch sẽ và được chế biến cẩn thận.
Sau bữa ăn chúng tôi chia tay nhau và hẹn ngày gặp lại. Bà Kimberly nhắn nhủ, “nếu đến được trong mùa hoa anh đào thì đẹp lắm!”.
Chuyện thần thoại của thế kỷ 21
Xe TT. Việt đi trước để dẫn lối ra, chúng tôi vẫy tay chào nhau tại khúc quanh vào xa lộ. Nhìn từ xe của chúng tôi về chiếc xe của vị Tướng hai sao gốc Việt đang khuất dần khỏi tầm mắt, một niềm cảm phục, hãnh diện, và quý mến ngập tràn trong lòng tôi. Mỗi khi tôi có dịp gặp gỡ hay viết về họ. tôi luôn cảm thấy như mình đang gặp hay viết về những nhân vật trong một chuyện thần thoại. Theo cha mẹ và sáu chị em di tản khi Sài gòn thất thủ, ông là con trai duy nhất trong gia đình, khi mới được 9 tuổi, ông đã phải đối diện với biết bao khó khăn. Cha ông dù là một sĩ quan Quân lực VNCH trước 1975 tại VN, nhưng sang đến Mỹ thì tất cả chỉ là quá khứ. Ba mẹ ông phải đi làm những công việc nặng nhọc và dài giờ để nuôi một gia dình 9 miệng ăn, có chị lớn phải đi làm thêm để phụ gia đình nhưng mọi người còn trong tuổi đi học. Không có nhiều giờ cho con cái nhưng TT..Việt chia sẻ:
” Những lời dạy bảo của ba tôi về đạo làm người, về tình yêu mến quê hương VN, yêu gia đình thấm sâu vào lòng tôi”.
Nên dù lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn trong khu ngoại ô nghèo tại thành phố có cái tên là “Thành phố của những Thiên thần”, Los Angeles. Vâng thiên thần thì có nhiều nhưng quỷ giữ cũng không ít. Những năm tháng tại tiểu và trung học được ông kể lại:
“Những năm đó tôi không học nhiều, phần lớn thời gian tôi dành để tự vệ trước những bắt nạt của một số bạn trong trường. may mà tôi đã được học võ Vovinam khi còn ở VN nên tôi đã vượt qua”.
Trái: TT. Việt nhận vật lưu niệm từ Tướng Koji Yamazaki nhân ngày nhận nhiệm sở mới. Phải: Một buổi họp với các tướng lãnh Nhật. (Hình của Kiyoshi Tokeshi-USARJ).
Nhờ vào thông minh, ông vẫn tốt nghiệp với điểm cao để vào được Đại học USC (University of Southern California). Sau khi tốt nghiệp Đại học, ông vào quân đội và chọn binh chủng nhảy dù. Quyết định này cũng do ảnh hưởng của cha ông vì cha ông luôn khuyên rằng binh nghiệp sẽ là môi trường tốt nhất để phục vụ, và ông muốn phục, quê hương thứ hai đã đón nhận ông và gia đình ông vào khúc quanh ngặt nghèo của cuộc đời. Ông bùi ngùi nhớ lại:
“Ba tôi thường rất buồn và tự trách rằng ông đã bỏ quê hương để ra đi mà không ở lại cầm súng chiến đấu cùng đồng đội, dù ông biết rằng nếu ở lại với chức vụ Thiếu tá, ông sẽ phải ngồi tù nhiều năm, và như thế thì cả việc nhà, lẫn việc nước đều không thể chu toàn. Tôi tiếc rằng ba tôi không còn để ông được nhìn thấy thành quả của những hy sinh của ông. Lần cuối ông tham dự lễ thăng chức của tôi là lúc tôi được lên Đại Úy, ông đã khóc vì vui mừng.”
Có hai điều khiến vị võ tướng này mỗi khi nói tới ông thường xúc động và khóc; đó là cha mẹ ông và người vợ yêu quý của ông. Những người mà ông luôn nói rằng nếu không có họ, ông không có ngày hôm nay. Ông lập gia đình với bà Kimberly tại thành phố Denver khi ông còn ở cấp bậc Đại úy. Và từ ngày ấy bà Kimberly đã hết lòng hỗ trợ cho chồng, cho gia đình và con cái để ông chuyên tâm vào việc phục vụ đất nước, họ không rời nhau một bước như đôi chim liền cánh. Sự tận tâm tận lực này của bà luôn được người chồng đáp lại với yêu thương và trân trọng.
Trái: Vợ chồng TT. Việt trong một buổi dạo chơi vùng ngoại ô Zama. Phải: Hình gia đình chụp tại Camp Humpherys, Đại Hàn nhân buổi lễ thăng chức Thiếu tướng. (Hình trái trên FB của TT. LXV. Hình phải của 8th Army Public Affairs)
Tiếng trống Mê Linh trên biển Thái Bình Dương
Cuộc đời binh nghiệp của TT. Việt gắn liền với những chiến trường nóng bỏng nhất từ Kosevo, Iraq, A Phú Hãn, Đại Hàn, rồi hôm nay là Nhật Bản, vùng Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đang sôi sục. Ông lên chức nhanh nhờ vào tài cầm quân, mưu trí và một nhân cách cao quý khiến cho cấp trên tin tưởng và cấp dưới yêu mến, nể phục. Có những lúc ông được đặc cách vinh thăng nhanh đến độ chưa kịp tham dự những khóa học cho chức vụ mới như từ cấp Trung tá lên Đại tá hoặc tử Chuẩn tướng lên Thiếu tướng. Châm ngôn cầm quân của ông là “thắng nhanh nhất và ít tiêu hao nhân mạng nhất mới là chiến thắng trọn vẹn”. Tôi có hỏi ông bí quyết cầm quân của ông là gì? Ông nghiêm nghị trả lời:
“Nghiên cứu kỹ càng trân địa, lực lượng địch quân trước khi ra quân, khi ra quân thì phải đánh nhanh, bất ngờ và phải nắm chắc phần thắng”.
TT.Việt tỏ ra rất khâm phục và quý mến danh Tướng McArthur. Tuy là “quân xâm lăng” nhưng sau 6 năm đóng quân tại Nhật, những đóng góp của Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của tướng McArthur đã chuyển đổi nước Nhật từ một đất nước tan nát vì chiến tranh và một chế độ quân chủ chuyên chế kềm kẹp người dân đã trở thành một nước dân chủ lập hiến với tự do cho người dân phát triển, tiến bộ mọi mặt và trở thành con rồng Châu Á đầu tiên sau Thế chiến Thứ hai.khiến khắp bốn bể, năm châu phải nể phục. Ngày ông về nước, hàng nhiều chục ngàn người Nhật đã chạy ra phi trường tiễn đưa ông bằng nước mắt và hô vang: “Hoa Kỳ muôn năm! McArthur muôn Năm!”. TT. Việt chia sẻ:
“Tôi rất thích câu nói của Tướng McArthur:” Đã nói đến chiến tranh thì chỉ có thắng”.
Những chuyến khảo sát mặt trân Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương thường xuyên và cẩn trọng bằng trực thăng và nhiều phương tiện khác, với sự học hỏi liên tục không ngừng nghỉ, với kinh nghiệm chiến trận hơn 30 năm và sự phối hợp chặt chẽ với các lực lượng đồng minh và phương châm đánh trận của vị Tướng Gốc Việt, mặt trận Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương của Hoa Kỳ đã và đang có những người cai quản cần mẫn nhất, nhiệt thành nhất và kinh nghiệm có thừa.
Trái: Cảnh chạy bộ với binh sĩ của TT.. Việt tại Zama. Phải: Một cảnh chạy bộ tại Camp Fort Campbells khi ông còn là Đại tá chỉ huy trưởng Lữ Đoàn Nhảy dù thuộc Sư đoàn Lục quân 101. (Hình trái của USARJ Public Affairs. Hình phải của Nancy Bùi)
Một chi tiết khá thú vị cho sự thành công ngoài mặt trân của ông mà TT. Việt từng chia sẻ, đó là khi ra trận ông luôn nghe như có tiếng trống thúc quân Mê Linh của Hai Bà Trưng, tiếng trống thúc giục lòng yêu nước của quân sĩ chiến đấu để bảo vệ bờ cõi. Vì thế, ai cũng nghĩ rằng măc dù hung hăng diệu võ dương oai, nhưng TC biết rằng khó có thể đối đầu với Hoa Kỳ và quân đội Đồng minh ít nhất là trong lúc này. Nhưng đó cũng chỉ là suy đoán, cái cảnh nghênh chiến hàng ngày tại hai vùng vịnh này của TC cũng có thể có xung đột xảy ra dù không cố ý, và nếu chuyện đó xảy ra thì mặt trận Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương sẽ có tiếng trống thúc quân Mê Linh rền vang. Và biết đâu cuộc chiến tranh một mất một còn với TC, khi chúng bị đánh tan thì sẽ đem đến một giải pháp tốt đẹp cho Việt Nam?
Mong lắm thay!
Triều Giang
(10/2020)
Nguồn tham khảo:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Douglas_MacArthur
https://en.wikipedia.org/wiki/U.S.%E2%80%93Japan_Status_of_Forces_Agreement
https://en.wikipedia.org/wiki/United_States_Army,_Japan
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFm_%C4%91%C3%B3ng_Nh%E1%BA%ADt_B%E1%BA%A3n
https://www.usarj.army.mil/about/formercg/
__._,_.___
Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt
Ngày 29-11-2020 11 am,noon CA
Thưa Quý Vị Cao Minh,
Nhửng Bài Khảo cứu Công phu và Giá Tri như Email nay,
Theo Cá nhân ,nên Phỗ biến và Mời nhiều người đọc.Lịch sử,Dã sử đều là Việt Nam.Anh Hùng ca.
Năm 1948 .tản cư ,tôi có qua Ân Thi HY,nhưng không biết có đền Thờ Đức Lữ Gia( như email nói,) để đến chiêm bái,thật là tiếc,vì lúc đó còn quá nhỏ.
Cám ơn tác giả Bài Khảo cứu.Trần Gia Ninh
Cám ơn những Nhà Chuyển tiếp forward ,nhờ đó nhiều người được đọc và biết Lịch sử kiêu hùng của VN, từ đó quý trọng và nghĩ là phải phục hồi VNCH.
Kính, / FYI
MD/NDN
Dân tộc Việt Nam,một Dân tộc Anh Hùng.
Nhìn lại lịch sử và quá trình Hán hóa Bách Việt,môt ngàn năm đô hộ giặc Tàu,môt trăm năm mất nước ,nhưng không bao giờ có thể mất Việt Nam,bọn Cộng sản,bọn tay sai phải học thuộc Lịch sử kiêu hùng Viêt Nam và trả lại VNCH để mọi người tái Xây dưng VNCH lớn mạnh.
|
Khi đọc những câu hỏi “Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. Hoặc “Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?(1), nhiều người nghĩ chắc là ý kiến của những anh chàng người Việt nặng đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Nhưng thật bất ngờ, những câu hỏi này và tương tự như vậy hiện là những chủ đề nóng của các diễn đàn tranh luận trên mạng Internet của người Trung Hoa, bằng tiếng Trung chứ không phải của người Việt.
Tượng Thừa tướng Nam Việt Lữ Gia ở Linh Tiên Đạo Quán, Hoài Đức, HN.
Họ đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm, trước khi nhà Tống lên ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng có nổi dậy cũng chỉ mấy năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các triều đại Trung Hoa không thể thu phục nổi Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam, người Kinh ấy, từ đâu mà ra, hình thành từ lúc nào? Người Hán chúng ta từ cổ xưa đã có sức đồng hóa cực mạnh. Số dân tộc đã bị Hán tộc đồng hóa không đếm xuể. Tại sao chừng ấy năm đô hộ vậy mà không đồng hóa nổi Việt Nam… Nếu An Nam là thuộc Trung Quốc từ thời đó, liệu bây giờ quần đảo Nam Sa (VN gọi là Trường Sa) có thành vấn đề không? Việt Nam có còn chiếm được nhiều đảo ở Nam Sa như bây giờ không?
Là người Việt Nam, chắc ai cũng muốn chính mình tìm câu trả lời cho những câu hỏi thú vị đó. Chúng ta từng nghe nói rằng, từ xa xưa một dải giang sơn mênh mông từ Nam sông Dương Tử trở về Nam là nơi các tộc dân Việt sinh sống và phát triển nền văn minh lúa nước rực rỡ. Thế rồi ngày nay, hầu hết đều trở thành lãnh thổ và giang sơn của người Hán, dùng Hán ngữ và văn hóa Hán. Quá trình đó người ta quen gọi là Hán hóa. Vì vậy nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt, và quá trình Hán hóa Bách Việt, là một cách ôn cố tri tân hữu ích. Đáng tiếc là thời xa xưa đó lịch sử chủ yếu ghi chép lại bằng Hán ngữ cổ ở Trung Hoa, không dễ tiếp cận với đa số hiện nay. Vì lẽ đó người viết bài này cố gắng tóm tắt những gì mà sử sách cổ còn ghi lại, kết hợp với những tài liệu khoa học đã công bố của một số học giả uy tín trên thế giới, ngõ hầu cung cấp một vài thông tin hữu ích, nhiều chiều, kể cả còn đang tranh cãi.
Bách Việt là ai và ở đâu?
Vào thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc người này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ. Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋戰國 (722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là越 và粤, đều chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông), ta hay gọi 越 là Việt bộ tẩu 走 (đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ米-(lúa)2.
Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là ghi tên tộc Việt của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ米 ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese). (Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều bắt đầu bằng chữ 粤 là vì vậy).
Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần.
Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.
Thời nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.
Sách Lộ Sử của La Bí (1131 - 1189) người đời Tống viết3: Việt thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân, Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú, Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.
Hán Hóa Bách Việt - Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán
Gọi Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì lúc này làm gì đã có nhà Hán. Hai nước Ngô - Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô句吴, Công Ngô工吴,攻吾… lập quốc vào thời Chu Vũ Vương (thế kỷ 12 TCN), kinh đôở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ là Ngô Thái Bá吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差 thì bị diệt vong bởi nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách là Vu Việt 于越, tiền thân của nước Việt 越国 thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ thời nhà Thương, không tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là khá lâu trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132 - 1083 TCN). Nước Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã Kiều 馬橋文化, mà các chứng tích đã tìm thấy khi khai quật di chỉ Thái Hồ太湖地區. Nước Việt định đôở Cối Kê會稽 (Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496 - 464 TCN) thì bành trướng lên phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở rộng bờ cõi Bắc chiếm Giang Tô 江蘇, Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày nay), Đông giáp Đông Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南 (phía Nam An Huy ngày nay), hùng cứ một cõi Đông Nam. Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân nước Việt, triều vua Vô Cương, nội loạn, bèn liên kết với nước Tề齊國 tiến chiếm nước Việt, đổi thành quận Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từđó. Những sự kiện này được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋 do Triệu Diệp 赵晔 thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric Henry4.
Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau này) nhận mình là con cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên, mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên5 thì đó là năm chi: Hoàng Đế (黃帝), Chuyên Húc (顓頊), Đế Cốc (帝嚳), Đế Nghiêu (帝堯), Đế Thuấn (帝舜). Dân nước Sở tự nhận thuộc chi Chuyên Húc, họ Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ (Hán). Đất nước Sở nằm ởđoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc HồĐộng Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ Bắc - Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 - 278 TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly Tao đã viết6: Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ, /Vốn dòng vua về họ Cao Dương (Nhượng Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao Dương nam thiên đến đây, dân bản địa là tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu đời Chu (1042 TCN). Sách Sử Ký - thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di7. Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân - Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ. Như vậy là quá trình Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa) đã bắt đầu từ cuối Thương đầu đời Chu rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ nhất.
Sự Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng Khánh, Quý Châu, về sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời Chiến quốc. Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 - con gấu), vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 - hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽđây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa hóa Ngô - Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở.
Các nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dòng người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc Hán tự theo kiểu nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngôâm 呉音). Nền văn minh đó chủ yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh - tức Bắc Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo…8 Điều này chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt xưa. (Xem bản đồ).
Hán hóa Bách Việt- Giai đoạn sau thời Tần-Hán
Cho đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ nhà Chu, thống nhất Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh và đồng hóa được dải đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9, còn từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (Lưỡng Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam... gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi chung Tây Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam (Vân Nam) vẫn còn thuộc về Điền Việt, Tây Âu, Đại Lý…
Vùng Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ 12 còn độc lập, dù người Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ. Chỉ sau khi Mông Cổ chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung Hoa, lập ra nhà Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái Tổ mới bình định xong Vân Nam và cuộc Hán hóa hoàn tất rất nhanh. Ngày nay hơn 61% cư dân Vân Nam là người Hán.
Vùng Lĩnh Nam chiếm làm đất Trung Hoa từ thời Tần - Hán, nhưng quá trình Hán hóa thì khá khó khăn và cho đến nay vẫn chưa xong hết (!). Cổ sử Trung Hoa chép thì Lĩnh Nam có nhiều bộ tộc Việt lập quốc như Tây Âu, Lạc Việt… có nước Dạ Lang (nhưng không thấy chép Văn Lang!). Âu và Lạc10 là một tộc Việt hay là hai tộc Việt khác nhau, cho đến tận ngày nay vẫn còn tranh cãi. Sách “Hoài Nam Tử” (139 TCN) thì chỉ viết có Tây Âu11 không có nói đến Lạc chỗ nào cả. Sách “Sử Ký” (94 TCN) muộn hơn một ít thì cũng có viết Âu, không tìm thấy chữ Lạc đứng riêng một mình, mà luôn luôn chỉ có chép Âu Lạc liền nhau12. Tuy nhiên trong Lã thị Xuân Thu (291–235 TCN) sớm nhất thì có chép” Việt Lạc-越骆”13. Việt Lạc rất có thể chính là nước Lạc Việt trong sử sách sau này, Việt Lạc là ghi âm trực tiếp từ ngôn ngữ người Việt, theo ngữ pháp Việt, còn sau này ghi Lạc Việt là ghi chép qua thông dịch sang Hán Ngữ, theo ngữ pháp Hán.
Luận theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc là hai chi Việt khác nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi Việt này liên minh lại với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở Nam Trung Hoa, vùng Vũ Minh Mã đầu (Nam Ninh - Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi Hán Vũ Đế bình Nam Việt của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và trung tâm di về vùng quanh Hà Nội ngày nay.
Đồng thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà người đứng đầu trong sử chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào và Thục Phán từ đâu ra thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục Phán là hậu duệ của vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên là Thục Quốc, ở Tây Nam Trung Hoa ngày nay. Thường Cừ (347)người đời Tấn viết trong Sách “Hoa Dương Quốc Chí”14: “Nước Thục Đông giáp nước Ba, Nam giáp Việt, Bắc phân giới với nước Tần, Tây tựa Nga Ba”. Vị trí địa lý như vậy nên cư dân ở đây bao gồm người Khương, người Việt, người Hoa Hạ. Dòng họ Khai Minh làm vua nước Thục, truyền được 12 đời, đến năm 316 TCN đời Chu Thận Vương thì bị nhà Tần diệt15, hậu duệ chạy về phương Nam. Sử chép đến đây thì đứt đoạn, không nói gì tiếp. Cho nên về sau nói Thục Phán là hậu duệ Khai Minh thị, cha Thục Phán là Khai Minh Chế chiếm lưu vực Diệp Du Thủy (tức thượng nguồn sông Hồng)16, xưng là An Tri Vương vua nước Tây Âu, sau truyền ngôi cho con là Phán, cũng chỉ là một giả thuyết, chép lại theo truyền thuyết của tộc dân Đại Y17.
Lúc này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn Lang ở phía trung và hạ lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước Văn Lang, chỉ có tên một nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang không?), do dòng họ Hùng làm vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như nước Văn Lang có vua Hùng trị vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền thuyết. Tuy nhiên Thục Vương Tử tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt Hùng Vương chiếm lãnh thổ, xưng là An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung Hoa từ đầu Công nguyên.
Theo quyển “Việt sử lược”18, của tác giả không rõ tên, có lẽ là người Việt Nam khắc in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh (~1360), có viết về nước Văn Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán đánh đuổi, Phán xưng là An Dương Vương.
Sách cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại vực ký” rằng19 “… Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王, Lạc hầu 雒侯, thu phục các Lạc Tướng. Rồi đó Thục Vương Tử xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu Đường thư” dẫn lại “Nam Việt chí” chép20 “Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có vua xưng là Hùng Vương 雄王, có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân tướng ba vạn tiến đánh, diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ”. Như vậy thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc Vương, Hùng Vương, Đối Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một, chính là Lạc Vương, các tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc 雒 của Hán ngữ mà thành21. Dầu sao thì cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. Dù tên tuổi đúng sai thế nào, thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của Việt Nam, mà cũng có ghi trong cổ sử Trung Hoa. Nhân vật Thục Phán tuy nguồn cội chưa xác định, nhưng cũng có thật, đánh chiếm Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc xưng là An Dương Vương cũng là có thật, có ghi trong chính sử không chỉ của Việt Nam22.
Tần diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam, Đô Úy Triệu Đà được Tần cắt cử quản lĩnh Quế Lâm, Tượng Quận. Nhân khi nơi nơi nổi lên chống Tần, năm 204 TCN Triệu Đà bèn chiếm Lĩnh Nam lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu) và đánh chiếm Âu Lạc. Sách “Giao Châu ngoại vực ký” chép: “Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương.. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”23. Sách “Thái Bình Ngự Lãm” dẫn “Nhật Nam truyện” còn chép phóng đại hơn, nỏ một phát giết ba vạn người và còn kể tỉ mỉ chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy, chuyện mất nỏ thần, dẫn đến An Dương Vương thất bại24. Nước Âu Lạc từ đó nhập vào nước Nam Việt25. Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 203 TCN, giữ độc lập với nhà Hán được 92 năm, truyền 5 đời vua, đến đời Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia26 thì mất nước vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Một dải Lĩnh Nam và Đông Hải bị Hán chiếm và Hán hóa kéo dài hơn ngàn năm, ngoại trừ Lạc Việt, còn lại hoàn toàn trở thành Hán. Lạc Việt, sau hơn 1000 năm nô lệ và Hán hóa, vẫn giữ được bản sắc và nền văn minh Việt, cuối cùng thì giành được độc lập và trở thành Đại Cồ Việt, Đại Việt, Nam Việt và Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là một trường hợp duy nhất mà Trung Hoa không thể Hán hóa được.
Vì sao Đại Việt không bị Hán hóa?
Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1 - Đồng hóa tự nhiên: đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2 - Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của dân tộc thống trị; đây là một tội ác.27 Người Hán đã thực hiện cả hai biện pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng hóa, người Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng không thấy thuyết phục lắm. Chẳng hạn:
* Việt Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng hóa. Phản bác lại: Tại sao Vân Nam cũng xa, núi sông cách trở hơn nhiều mà chỉ trong mấy trăm năm đã bị đồng hóa hoàn toàn.
* Việt Nam ở phương Nam, nóng ẩm, người Hán không ở được. Thế tại sao Hải Nam cũng như vậy mà lại ở được, đồng hóa xong rồi.
* Tại vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam ít. Thực ra, không có bằng chứng nào là ít hơn Hải Nam, Vân Nam cả. Chỉ riêng số quan lại cai trị và số quân chiếm đóng trong hơn một ngàn năm, cũng không ít hơn số dân bản địa. Chỉ có thể hiểu người Hán ở đây đã bị Việt hóa. Cũng có ý kiến cực đoan bênh vực, nói rằng thực ra đã Hán hóa dân Việt rồi nhưng từ sau năm 1945, Việt Nam đã thanh lọc lại hết!
Cũng có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường ngày nay, xem ra cũng ít nhiều có lý, ví như:
* Người Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người Hán. Do vậy người Kinh hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một tộc người ưu tú.
* Người Hán ở Việt Nam kể cả các tầng lớp cai trị không đồng hóa được người Kinh, trái lại bị đồng hóa ngược trở thành người Việt. Người Kinh là một tộc người có năng lực đồng hóa mạnh, bằng nếu không nói là còn hơn người Hán. Hãy xem họ mở rộng về phía Nam thì rõ.
Nhưng đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường có thể nhận thấy được. Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một vấn đề khoa học lớn, rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững cả, vì vậy tạm thời không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa dân tộc là một sự tổng hòa gồm:
* Đồng hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc chinh phục và kẻ chinh phục hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi dân bị chinh phục để thay thế bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng huyết thống.
* Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng.
* Đồng hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội.
(Về vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố bảo tồn dân tộc Việt, xin dành cho bài sau).
Sự đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện.
1. Nếu một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì sự đồng hóa chủng tộc khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái.
2. Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn minh của dân tộc. Một dân tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc chinh phục, nhưng nếu trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng hóa, điển hình như tộc Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán nhưng lại bị Hán hóa.
3. Khi một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành viên bền chặt, thì dân tộc đó rất khó bị đồng hóa.
Nhìn lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố 1,2,3: Người Kinh hiện nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt, bởi lẽ khi Bách Việt bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt là mục tiêu tàn sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và nơi dung nạp họ là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Hãy xem thí dụ về ngôn ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên), đó là một bằng chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc người Kinh có sức sống mãnh liệt.
Tinh hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, chắc chắn không kém nền văn minh Hoa Hạ. Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm.
Tổ chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết cộng đồng rất chặt. Tổ chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó rất khó phá vỡ, nó tồn tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị Diên Hồng thời Trần để thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với triều đình chặt chẽ đến mức nào. Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi như Triều Mạc, cũng không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”28.
Quân Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt làm quận huyện nếu không có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi riêng bán rẻ dân tộc cho người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân Mạc Đĩnh Chi, một đại thần nhà Trần... Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu không có vua quan bán nước Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh hùng dân tộc Lê Lợi…
Than ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự ngàn xưa số những kẻ bán rẻ dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người Việt.1
CHÚ DẪN
1为什么经历了一千多年的统治,中国始终不能同化越南?“Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thểđồng hóa Việt Nam?”. http://bbs.tianya.cn/post-no05-226522-1.shtml
越南人(京族)为何难以同化“ Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khóđồng hóa như vây?” http://lt.cjdby.net/thread-1440161-1-1.html
2 Có học giả Việt đương thời theo tự dạng vội suy đoán rằng viết như vậy có lẽ chỉ tộc người vác rìu đi (chạy) săn và tộc người trồng lúa trong ruộng. Chứng tỏ thời bấy giờ tộc Việt thuộc văn minh săn bắn và trồng trọt. Có lẽ không phải đơn giản như vậy. Khảo sát lịch sử văn tự thì thấy rằng Việt 越 và Việt粵 âm đọc giống nhau, “Sử ký” viết là 越, “Hán thư” viết là粤. Âm đọc 粤 là từâm đọc của chữ Vu 于, người cổđọc 越 là于. Vu 于 viết theo lối chữ triện 篆 là亏, hài thanh là chữ vũ雨-mưa, viết lên trên thành 雩. Trong “Hán Thư” còn tồn nhiều chữ cổ, nên chữ Việt 越đều cải viết thành雩, sau theo lối chữ lệ隶, chữ khải 楷 mới viết thành ra 粤, tức biến hóa hình chữ vũ 雨đặt trên chữ Vu亏..
3 “路史”罗泌 (1131—1189) 宋朝 : 越裳, 雒越, 瓯越瓯皑, 且瓯, 西瓯, 供人, 目深, 摧夫, 禽人, 苍梧, 越区, 桂国, 损子, 产里(西双版纳), 海癸, 九菌, 稽余, 北带,仆句, 区吴(句吳), 是谓百越。
#4 http://www.sino-platonic.org/complete/spp176_history_of_yue.html
The Submerged History of Yuè. By Eric Henry, University of North Carolina
5 史記-司馬遷 (145 – 86 TCN)
6屈原在《离骚: 帝高阳之苗裔兮,朕皇考曰伯庸- Ðế Cao Dương chi miêu duệ hề, Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung.
7《史记.楚世家》记载: “封熊绎于楚蛮- phong Hùng Dịch ư Sở Man “, “熊渠曰: 我蛮夷也不与中国之号谥- Hùng Cừ nói: Ta là dân man di, không cùng hiệu, thụy của Trung quốc. Hùng Dịch (~1006 TCN) là vua lập ra nước Sở, Hùng Cừ (~877 TCN) là vua Sở về sau. Sở Man là tên nhà Thương, Chu gọi dân Kinh Sở bản địa, Man tức là Man Việt, tên tộc Việt thời nhà Thương.
8 Jerry Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301, Published by: Taylor & Francis, Ltd.
9 五岭 Ngũ Lĩnh-dãy núi phía Nam Trung Hoa chạy qua biên giới các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, có năm đỉnh cao (Ngũ lĩnh) là 越城 (Việt Thành)、都庞 (Đô Lung), 萌渚 (Manh Chử), 骑田 (KỵĐiền), 大庾(Đại Dữu).
10 Chữ Lạc có nhiều cách viết, đều đọc là Lạc. Hai chữ 雒,骆 thường dùng như nhau để chép Lạc Việt trong sách cổ. Tiếng Bắc Kinh đọc là Luo, Quảng Đông đọc lok, Đời Đường đọc lak. Nhiều học giả cho rằng nguồn gốc chữ Lạc là do người Hán ghi âm chữ Lúa, Ló của người Việt, người Mường mà ra. Người Việt là tộc người có nền văn minh lúa nước.
11《淮南子·人间训:“(秦皇)又以卒凿渠而通粮道,以与越人战,杀西呕君译吁宋。Hoài Nam Tử. Nhân gia huấn: (Tần Hoàng) cho quân đào kênh thông đường vận lương, rồi đánh người Việt, giết được vua Tây Âu là Dịch Hu Tống”.
12《史记·南越列传》赵佗上呈汉文帝的“谢罪书”:“且南方卑湿,蛮夷中间,其东闽越千人众号称王,其西瓯骆裸国亦称王。” Triệu Đà dâng thư tạ tội với Hán Văn Đế: “đất phương Nam thấp, ẩm ướt. Trong các tộc man di ở đây, (chỉ dám) xưng vương phía Đông với dân Đông Âu vài ngàn khẩu, phía Tây với nước Âu Lạc khỏa thân (ý nói đóng khố cởi trần).
13《吕氏春秋·孝行览·本味篇》:“和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌。”高诱注:“越骆,国名。菌,竹笋。” Lã thị Xuân Thu-Hiếu hạnh lãm, bản vị thiên:” Những thứ hoàn mỹ là gừng Dương Phác, quế Chiêu Diêu, Khuẩn (Măng) Việt Lạc” Cao Dụ chú giải:” Việt Lạc là tên nước, Khuẩn là măng tre”.
14 常璩(347)华阳国志-(卷三蜀志): Thường Cừ, “Hoa Dương Quốc Chí” (quyển 3-Thục Chí): “历夏、商、周,武王伐纣,蜀与焉。其地东接于巴,南接于越,北与秦分,西奄峨嶓。” Trải qua Hạ, Thương, Chu,Vũ Vương phạt Trụ, cùng có nước Thục. Nước đó đông giáp nước Ba, nam giáp nước Việt, bắc phân giới với Tần, Tây dựa Nga Ba” (vì vậy cư dân ở đây có thể là người Khương, Hoa Hạ và Việt-TGN).
#15“华阳国志·蜀志:“周慎王五年秋,秦大夫张仪、司马错、都尉墨等从石牛道伐蜀,蜀王自于葭萌拒之,败绩。王遁走,至武阳为秦军所害,其相、傅及太子退至逢乡,死于白鹿山。开明氏遂亡,凡王蜀十二世““Hoa Dương Quốc Chí, thiên Thục Chí”: “Mùa thu đời Chu Thận Vương thứ năm, các Đại Phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô úy Mặc v.v theo đường Thạch Ngưu tiến phạt Thục. Thục Vương thân cùng Gia Mạnh cự địch, bị thất bại. Vương tháo chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần hại, Thái tử thoái lui về và chết tại núi Bạch Lộc. Dòng họ Khai Minh, truyền được 12 đời, đến đây bị diệt”. Vũ Dương nay là huyện Bành Sơn,Tứ Xuyên.
16 叶榆水
17岱依人
18《越史略》卷一载:“周庄王时嘉宁部有异人焉,能以幻术服诸部落,自称碓王,都于文郎,号文郎国。以淳质为俗,结绳为政,传十八世,皆称碓王。越勾践尝遣使来谕,碓王拒之。周末为蜀王子泮所逐而代之。泮筑城于越裳,号安阳王,竟不与周通。” .: Việt sử lược: “thời chu Trang Vương, ở Gia Ninh bộ có người tài, dùng xảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Đối Vương, đô ở Văn Lang, nước là Văn Lang. Tục lệ thuần hậu, chính sự nghiêm chỉnh, truyền 18 đời, đều xưng là Đối Vương. Việt Vương Câu Tiễn đã từng đến dụ, Vương đều từ chối. Vào cuối đời nhà Chu bị Thục Vương Tử tên là Phán đánh đuổi, thay thế trị vì. Phán xây thành Việt Thường, hiệu là An Dương Vương, tuyệt giao với nhà Chu”.
19《水经·叶榆水注》中注引《交州外域记》云:“交趾昔未有郡县之时,土地有雒田,其田从潮水上,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯主诸郡县。??后蜀王子将兵三万来讨雒王、雒侯,服诸雒将。蜀王子因称为安阳王。Sách “Thủy Kinh.Diệp Du Thủy chú”, dẫn theo “Giao Châu Ngoại Vực Ký” viết rằng: Giao Chỉ thời chưa có quận huyện, đất đai thì có Lạc điền, nước ruộng lên xuống theo triều, dân làm ruộng sinh sống, nên gọi là Lạc dân. Thiết đặt Lạc Vương, Lạc hầu cai quản các quận huyện. ?? về sau Thục vương tử xua quân tướng ba van đánh Lạc Vương, Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Thục vương tử xưng là An Dương Vương.
20《旧唐书·地理志》则引《南越志》云:“交趾之地,最为膏腴,旧有君长曰雄王,其佐曰雄侯。后蜀王将兵三万讨雄王,灭之。蜀以其子为安阳王,治交趾。Sách “Cựu Đường Thư” dẫn lại “Nam Việt Chí” viết rằng: Đất Giao Chỉ rất mầu mỡ, xưa có vua gọi là Hùng Vương, phò tá là các Hùng Hầu. Về sau ba van quân tướng của Thục vương đánh bại Hùng Vương. Con của Thục Vương xưng là An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ.
21 So sánh các sách thì “Giao Châu ngoại vực ký” là cổ nhất, ít nhất là trước đời Ngụy Tấn (TK3), “Nam Việt Chí” soạn sau thời Bắc Ngụy, còn “Việt sử lược” có lẽ soạn thời Hồng Vũ (~1358) nhà Minh sau này. Quân Vương của nước Lạc Việt theo sách cổ nhất (“Giao châu ngoại vực ký”) ghi là Lạc Vương 雒王, sách về sau (Việt sử lược, Nam Việt chí) thì ghi làĐối Vương 碓王, Hùng Vương 雄王. Một số học giả Trung Hoa và Quốc tế ngờ rằng ba chữ 碓, 雄, 雒 (bộ thủ“chuy 隹“) nguyên chỉ là chữ雒 (Lạc) do mấy trăm năm sau sao chép nhầm phần các chữ ghép (chữ các 各thành chữ thạch 石 hay chữ quăng 厷) mà ra. Tuy nhiên nhiều học giả Viêt Nam không nhất trí, vì cho rằng các nhà Nho Việt Nam ngày xưa đều rất uyên thâm, khó mà lầm lẫn được. Ai cũng có lý cả!
22 Các sách của Việt Nam có nói đến Hùng Vương, An Dương Vương cổ nhất như Lĩnh Nam Chích Quái 嶺南摭怪, Việt Điện U Linh Tập 粵甸幽靈集 hay Đại Việt sử ký toàn thư大越史記全書 thì cũng soạn vào thời Trần, muộn hơn nhiều so với các sách của Trung Hoa như Giao Châu Ngoại Vực Ký 交州外域记, Thái Bình Ngự Lãm 太平御览. Cho nên các sự tích và tên tuổi như Hùng Vương, An Dương Vương… chắc là chép lại từ sách Trung Hoa, vì Việt lúc đó không có chữ viết… Tất nhiên, cũng không loại trừ có những ý kiến khác.
23《交州外域记: “南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人”: Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông xuống phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”.
24《太平御览》卷348:《日南傳》曰:一發萬人死,三發殺三萬人。佗退,遣太子始降安陽。安陽不知通神人,遇無道理,通去。始有姿容端美,安陽王女眉珠悅其貌而通之。始與珠入庫盜鋸截神弩,亡歸報佗。佗出其非意。安陽王弩折兵挫,浮海奔竄: “Thái Bình Ngự Lãm, quyển 348 dẫn “Nhật Nam Truyện” viết:.. một phát giết vạn người, ba phát giết ba vạn người. Đà lui, sai thái tử Thủy hàng An Dương. An Dương không biết Thông là thần nhân, thấy (vua) không hiểu đạo lý, Cao Thông bèn bỏ đi. Thủy có tư dung đoan mỹ, con gái An Dương Vương là Mỵ Châu vì thích y đẹp mà xiêu lòng. Thủy sai Châu vào kho cưa đứt nỏ thần rồi về nước báo tin. Đà liền xuất kỳ bất ý (tiến đánh). An Dương Vương nỏ gãy binh tan, trốn chạy ra biển. (Thái Bình Ngự Lãm là sách soạn vào thời Bắc Tống (977 -984), trích dẫn “Nhật Nam Truyện” thì chắc là còn cũ hơn. “Nhật Nam Truyện” hình như đã thất truyền, chỉ thấy trích dẫn lại ở sách này-TGN).
25 Người viết bài này đã đến thăm và khảo sát khá kỹ Bảo Tàng Nam Việt Vương ở Quảng Châu. Bảo tàng xây trên khu lăng mộ của Triệu Mô, vua kế vị Triệu Đà (Thủy chết sớm, Mô là con Thủy thay). Ngôi mộ được phát hiện năm 1983, hầu như còn nguyên vẹn, đồ tạo tác rất kỳ vĩ, tinh xảo chứng tỏ trình độ văn minh của người Việt lúc đó khá cao, nếu không nói là hơn hẳn người Hán. Xem bảo tàng thấy các cổ vật trưng bày như thạp đồng, trống đồng, vũ khí… giống in và còn phong phú hơn nhiều so với Bảo Tàng Lịch Sử quốc gia Việt Nam giai đoạn lịch sử đó.
#26 Lữ Gia, Thừa tướng nắm quyền hành của nước Nam Việt, chống lại nhà Hán, thua trận bị chém chết. Lữ Gia và người ở Quận Cửu Chân (Thanh Hóa ngày nay), lăng mộ và đền thờ hiện còn ở Ân Thi, Hưng Yên
27Nguyễn Hải Hoành: Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? - http://nghiencuuquocte.org/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/#sthash.0FZriY2F.dpuf.
28 Đại Việt sử ký toàn thư - NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294.
* Người viết bài này xin bày tỏ lời cảm ơn nhà Hán học, dịch giả Trần Đình Hiến về những thảo luận, góp ý quý giá cho phần dịch các đoạn trích trong các sách sử cổ viết bằng văn ngôn trên đây.
--
You received this message because you are subscribed to the Google Groups "Toronto medical group" group.
To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to toronto-medical-group+unsubscribe@googlegroups.com.
To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/toronto-medical-group/1421367968.2309717.1606577369487%40mail.yahoo.com.
--
You received this message because you are subscribed to the Google Groups "Toronto medical group" group.
To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to toronto-medical-group+unsubscribe@googlegroups.com.
To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/toronto-medical-group/DS7PR07MB7752BD898A1F68EA646C34EEA1F70%40DS7PR07MB7752.namprd07.prod.outlook.com.
--
You received this message because you are subscribed to the Google Groups "Toronto medical group" group.
To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to toronto-medical-group+unsubscribe@googlegroups.com.
To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/toronto-medical-group/MWHPR1401MB19181DB831674C8554054048A5F70%40MWHPR1401MB1918.namprd14.prod.outlook.com.
<thankyouthumbnail_image (2).jpg>
__._,_.___
Đọc The Way of Zen in Vietnam
Đọc The Way of Zen in Vietnam
(Thiền Tông Việt Nam) của Nguyên Giác
Đây là cuốn sách viết bằng song ngữ Anh-Việt của cư sĩ Nguyên Giác. Sách dày 319 trang vừa được Ananda Viet Foundation (Nam California) xuất bản. Cư sĩ Nguyên Giác tu học với một số thiền sư tiền bối nổi tiếng trước 1975 như Thích Tịch Chiếu, Thích Thường Chiếu, Thích Thiền Tâm và Thích Tài Quang.
Cư sĩ Nguyên Giác say mê Thiền, nghiên cứu về Thiền, viết về Thiền và sống chết với Thiền. Ông đã xuất bản tám cuốn sách về Thiền. Nay ở tuổi 68, ông viết cuốn này vì sợ rồi đây sức khỏe suy yếu, không còn khả năng viết nữa. Tuy nhiên ước mơ lớn vẫn là để cho các nhà nghiên cứu ngoại quốc muốn tìm hiểu về Phật Giáo Việt Nam, nhất là Thiền, có tài liệu tham khảo vì hiện nay Anh Ngữ là ngôn ngữ phổ biến khắp thế giới.
Nếu chúng ta chỉ viết bằng tiếng Việt thì chỉ có người Việt Nam đọc mà thôi. Thậm chí giới trẻ hải ngoại ở tuổi bốn mươi, năm mươi (sinh năm 1975 và sau đó) đều không đọc được tiếng Việt. Ngay con gái tôi sinh năm 1973, nói tiếng Việt rất rành, nhưng khi khi muốn nhắn gì bằng chữ qua điện thoại hoặc viết thư thì phải viết bằng tiếng Anh. Sách Phật cũng phải cho cháu sách tiếng Anh. Sự thực nó tức cười như vậy đó. Trong một gia đình mà phải sử dụng hai ngôn ngữ. Đó là lý do tại sao chúng ta có cả mấy trăm ngôi chùa ở hải ngoại nhưng không thu nạp được Phật tử Hoa Kỳ chỉ vì các tăng/ni không có khả năng viết sách hoặc thuyết pháp bằng tiếng Anh.
Một trong những luận điểm mà tôi rất tán đồng trong cuốn sách này khi cư sĩ Tâm Diệu viết trong phần giới thiệu, “Thiền tông Việt Nam chiếm một vai trò trọng yếu trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam nói riêng và trong lịch sử nước nhà nói chung, là một sự thật mà ai nấy đều công nhận. Nhưng hỏi vì sao nó được địa vị như thế thì có người nói tư tưởng Thiền tông Việt Nam thoát thai từ tư tưởng Thiền tông Trung Hoa, nhưng khi qua Việt Nam, Thiền tông Việt Nam hòa đồng với văn hóa Việt và đồng hành cùng dân tộc việt, tạo nên một sắc thái riêng rất Việt Nam.Thế nhưng theo nghiên cứu của GS. Lê Mạnh Thát, Phật Giáo được truyền vào Việt Nam vào thế kỷ thứ hai và thứ ba từ Ấn Độ rất sớm, trước cả Trung Hoa với các thiền sư Mâu Tử và Khương Tăng Hội. Mãi cho đến thế kỷ thứ sáu Thiền tông Trung Hoa mới được truyền sang Việt Nam với thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi.”
Quả thật vậy. Những câu nói như “cửa Thiền”, “Thiền môn”, “mùi vị Thiền” trong dân gian, lưu truyền trong văn chương cho thấy Thiền đã đi vào đời sống tâm linh của các nhà tu hành đã đành, mà cả các bậc sĩ phu của dân tộc nữa. Dưới thời Đinh-Lê, Lý, Trần và Hậu Lê các vị tu hành đều được gọi là Thiền Sư.
Tác giả chia sách này ra làm 10 phần. Mỗi phần đưa ra một số Thiền sư tiêu biểu và một số nét đặc thù của vị Thiền sư này. Dưới các bài kệ tụng, tác giả đều có lời chú giải, trích dẫn kinh điển Nam-Bắc truyền và lời bình chú của chư tổ Trung Hoa liên hệ đến sinh mệnh của Thiền, nhưng khiêm tốn nói rằng đó chỉ là “ghi nhận”. Để có đầy đủ tài liệu tham khảo, tác giả đã bày tỏ lòng cám ơn tới các vị như Thiền Sư Thích Thanh Từ, GS. Lê Mạnh Thát, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, tỳ kheo Nguyễn Thế Đăng (huynh đệ với tác giả). Hầu hết các bài kệ đều trích dẫn từ sách của HT.. Thích Thanh Từ.
Phần I:
Tác giả nói về Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291), Trần Nhân Tông ((1258-1308), Khương Tăng Hội (???-280), Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi (???-594), Vô Ngôn Thông (???-826), Ni Sư Diệu Nhân (1041-1113), Vạn Hạnh (938 - 1018), Viên Chiếu ((999-1090) và Định Hương (???-1051).
Vì mỗi Thiền sư đều để lại một số bài kệ tụng bày tỏ sự chứng ngộ của mình cho nên do giới hạn của bài viết tôi không thể hài ra tất cả mà chỉ trích dẫn một số kệ tụng nổi tiếng và cũng để xem khả năng dịch thuật Anh Ngữ của tác giả:
Advising People To Enter The Way
(Khuyên Đạo Vào Đời của Tuệ Trung Thượng Sĩ)
Then spring now autumn, the four seasons revolve.
Then young now old, you see the hair turn white.
Then wealth and nobility, now a long dream.
Years and months go by, carrying ten thousand pecks of sorrow.
In the path of suffering, the wheel of rebirth rolls endlessly.
In the river of passion, we swim like bubbles forming and popping.
Now coming to the right place to learn the Way,
why don’t you touch your nose?
See that this is your very good chance of a million lifetimes.
Và bài kệ nổi tiếng của Trần Nhân Tông và cũng là tiêu biểu cho Thiền Phái Trúc Lâm
The Treasure (Kho Báu)
Living in the world, happy with the Way, you should let all things take their course.
When hungry, just eat; when tired, just sleep.
The treasure is in your house; don’t search anymore.
Face the scenes, and have no thoughts; then you don’t need to ask for Zen.
(Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền)
Rise And Decline (Thịnh Suy) của Vạn Hạnh
The human body is like a lightning flash, appearing then disappearing.
All trees bloom in the spring, then decay in the autumn.
Live accordingly with this rise and decline, and have no fear.
The rise and decline – just like a drop of dew on a blade of grass.
(Thịnh suy như lộ thảo đầu phô)
Phần II
Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Đạo Hạnh (???-1115), Thuần Chân (???-1101), Huệ Sinh (??? – 1063), Ngộ Ấn (1019- 1088), Mãn Giác (1052-1096), Ỷ Lan (1073-1117), Giới Không (Khoảng Thế Kỷ XII), Đạo Huệ (??? – 1172) và Bảo Giám (???-1173)
Sau đây tôi xin trích ra một vài bài kệ tụng nổi tiếng.
Existance and Nonexistence
(Hữu-Không của Đạo Hạnh)
Existence – there you see all things existing.
Nonexistence – there you see all things vanishing.
Existence and nonexistence are just like the underwater moon.
Cling to neither existence nor nonexistence.
(Hữu không như thủy nguyệt. Vật trước hữu không không).
Trong bước đường tu hành, khi nào hành giả không trụ vào Có (hữu) mà cũng không trụ vào Không (không có) thì đắc quả. Thấy một sự kiện mà mình nói “Có đó” hoặc “Có gì đâu?” thì rớt ngay vào vô minh và sinh tử luân hồi. Theo Viên Giác, muôn vật (vạn pháp) đua nhau xuất hiện, loạn sinh ra rồi loạn diệt mất do vô minh và do duyên khởi, do đó không thể nói Có và cũng không thể nói Không. Khi không chấp Có, không chấp Không thì tâm an trụ hay định, đó là chỗ chứng đắc của Thiền sư.
The Spring
(Mùa Xuân của Mãn Giác)
When spring goes, all flowers die.
When spring comes, all flowers smile.
In front of the eyes, all things flow endlessly.
Old age comes already over my head.
Don’t say that with the spring gone, all flowers fall.
Last night, in the front yard, a branch of mai.
(Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận. Tiền đình tạc dạ nhất chi mai).
Bài thơ này được các nhà bình luận cho rằng cái thi vị của Thiền ở chỗ chẳng có gì đáng tiếc hay đáng buồn. Vạn sự rong ruổi qua đi, chẳng có cái gì diệt mất, hãy nhìn nó như thế và hãy vui.
Wisdom
(Trí Tuệ của Bảo Giám)
To learn the way of Buddha, you must have zeal;
to become a Buddha, you need wisdom.
To shoot a target with an arrow from more than a hundred steps away, you must be strong;
to hit the mark, you need more than strength.
Lời dạy đáng ghi nhớ của Thiền sư ở đây là,”Muốn thành Phật phải dùng trí tuệ”. Xa lìa trí tuệ thì đừng mong thành Phật.
Phần III
Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Bổn Tịnh (1100 – 1176), Khương Tăng Hội (???-280), Thiền Sư Trí (Khoảng thế kỷ thứ X hay XI), Tịnh Lực (1112 – 1175), Hương Hải (1628 – 1715), Quảng Trí (Khoảng thế kỷ XVIII) và Khương Tăng Hội (???-280)..
Sau đây tôi xin trích ra một vài bài kệ tụng nổi tiếng.
Breathing
(Thở của Khương Tăng Hội)
Breathing in, you feel you are breathing in;
breathing out, you feel you are breathing out.
Breathing in, you know you are breathing in;
breathing out, you know you are breathing out.
While you breathe, you feel; then, you know.
Thở
Hơi thở ra, hơi thở vào tự hiểu,
hơi thở ra, hơi thở vào tự biết.
Đương lúc ấy là hiểu, về sau là biết.
Hiểu là hiểu hơi thở dài ngắn.
Biết là biết hơi thở sinh diệt thô tế chậm nhanh. (Bản dịch TT. Trí Siêu Lê Mạnh Thát).
Trong phần Ghi Nhận, tác giả nói rằng, “Pháp thiền niệm hơi thở giúp tịnh tâm dễ dàng; nó cũng là một phần của thiền quán niệm.”
Watchfull
(Thẩm Sát của Hương Hải)
Watch yourself every day, constantly.
Watch yourself, be mindful, be alert.
In this dream world, don’t search for a Dharma counselor;
Watch yourself, and see the Buddha’s face on your face.
Đã từ lâu, có lẽ từ 1980, tôi rất thích thú với bốn câu kệ này:
Phản văn tự kỷ mỗi thường quan.
Thẩm sát tư duy tử tế khan.
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức.
Tương lai diện thượng đổ sư nhan.
Đừng mơ mộng rồi chạy lung tung để tìm Phật. Hãy trực chỉ nhân tâm mà suy nghĩ rồi sẽ thấy ông thầy (ông Phật) hiện ra ngay trên đầu mình.
Bạn Đạo (DharmaFriend)
Ai nói rằng tu hành không cần bạn đạo, không cần tăng/ni đoàn và có thể tu một mình xin hãy đọc kệ tụng của Thiền sư Quảng Trí (khoảng thế kỷ XVIII).
Vì vậy tu hành cần có bạn, mới phân biệt rõ ràng sạch và dơ.
Một là bạn bè ở chốn rừng núi an nhàn thì có thể giúp làm ngưng cái tâm nóng nảy.
Hai là bạn nghiêm trì giới luật thì có thể làm phai nhạt ngũ dục.
Ba là bạn có trí tuệ rộng lớn mới có thể giúp ra khỏi bến mê.
Bốn là học hành uyên bác mới có thể giải quyết những điều khó khăn nghi ngại.
Năm là bạn trầm tĩnh, mặc nhiên mới giúp thanh thản, tiến thủ được.
Sáu là hạng khiêm tốn, nhẫn nhục thì giúp tiêu trừ ngã mạn.
Bảy là hạng bạn lòng thẳng, nói ngay mới có thể ức chế được các lỗi lầm.
Tám là bạn đồng dũng mãnh, tinh tấn, mới giúp thành được đạo quả.
Chín là hạng xem thường của cải, thích bố thí mới giúp phá được tính keo kiệt, bỏn xẻn.
Mười là bạn nhân từ che chở cho muôn vật mới giúp đuổi trừ được sự chấp ta chấp người.
(Bản dịch Cư sĩ Trần Đình Sơn)
Present (Hiện tại, ngay bây giờ) của Khương Tăng Hội)
Kệ tụng này được GS. Lê Mạnh Thát phiên dịch và tác giả đã chú giải như sau,”Có ba thời-quá khứ, hiện tại và tương lai; tuy nhiên, thời gian không hiện hữu với người chứng đắc Niết bàn, bước qua khỏi vòng sinh và tử. Thời gian hiện hữu cho người bơi trong dòng sông của tham, sân, si. Thời gian không hiện hữu cho người nhìn thấy không có một tự ngã nào trong bất kỳ hiện tượng nào, người ngày và đêm nhận ra rằng họ chỉ là một tập hợp rỗng đang trôi chảy bao gồm sắc thân, cảm thọ, tưởng, hành và thức. Buông bỏ mọi thứ trong quá khứ, hiện tại và vị lai, bạn sẽ thấy toàn thân và tâm chỉ là rỗng không vô tự tánh, và thời gian sẽ biến mất.
Not Two Things (Không Hai Pháp) của Thiền sư Cứu Chỉ (Khoảng thế kỷ XI)
Khi bắt đầu tu tập, bắt đầu nhập môn thì thấy có phiền não-bồ đề, thấy có Phật-chúng sinh, đúng-sai, phải-trái, thấy có sinh-diệt, thấy có trước-sau, pháp và phi pháp…Nhưng khi chứng đắc rồi thì tất cả chỉ là Một (bất nhị).
Phần IV
Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Trí Huyền (Thế kỷ XII), Thông Biện (???-1134), Khuông Việt (933 - 1011), Chân Không (1045-1100) và Bảo Giác (khoảng thế kỷ XII),
Sau đây là một kệ tụng của Thiền sư Khuông Việt:
Fire
There is the fire in the wood.
The fire is there, then the fire is born.
If you say the wood has no fire,
how could you make fire by friction?
Trong cây sẵn có lửa,
Có lửa, lửa lại sanh.
Nếu bảo cây không lửa,
Cọ xát làm sao sanh?
Theo tác giả, “Trí tuệ nhận ra Tánh Không trong tất cả các pháp được gọi là Phật Tánh hay còn gọi là lửa trong gỗ, như các Thiền sư thường gọi.”
Phần V
Trong phần này tác giả nói tới Thiền sư Giác Hải (Thế kỷ 11-12), Minh Trí (???-1196), Nguyện Học (???-1174), Quảng Nghiêm (1121-1190), Thường Chiếu (???-1203), Y Sơn (??? - 1213), Khánh Hỷ (1066-1142), Hiện Quang (???-1221), Huyền Quang (1254-1334) và Thông Vinh (Thế kỷ 19),
Trong phần này tôi xin trích dẫn một bài kệ thật ghê gớm của Thiền Sư Quảng Nghiêm:
After arising from the cessation state, you can discuss the cessation.
After attaining the unborn state, you can speak about the unborn.
Being a human being, you should have a firm resolve as high as the sky;
Don’t step on the old footprints of the Buddha.
Lìa tịch mới bàn câu tịch diệt,
Được vô sanh, sau nói vô sanh.
Làm trai có chí xông trời thẳm,
Chớ giẫm Như Lai vết đã qua.
Bài kệ này Thiền sư muốn nói rằng mình làm trai ý chí nghiêng trời đất thì phải tu thành Phật chứ tại sao lại cứ đi theo Phật, thờ Phật mãi? Có lẽ Thiền sư đã thành Phật rồi cho nên mới dám nói như thế này.
Phần VI
Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726), Thông Thiền (???-1228), Như Trừng Lân Giác (1696- 1733), Tường Quang (1741-1830), Thạch Liêm (khoảng thế kỷ 17), Phổ Tịnh (khoảng thế kỷ 19), Tịnh Không (???-1170) và Đạo Huệ (khoảng 1190),
Trong phần này tôi xin trích dẫn một bài kệ của Thiền Sư Tường Quang lượng giá việc tu hành.
The Highest
The highest person practices the unconditioned dharmas.
The second-ranked person cultivates both merit and wisdom.
The third-ranked person does good and avoids evil.
The fourth-ranked person is a superior scholar of the Three Baskets of Buddhist Scriptures.
Người bậc nhất tu pháp vô vi
Người bậc nhì phước tuệ đầy đủ
Người bậc ba làm thiện chừa ác
Người bậc tư tam tạng tinh thông
Theo như Thiền sư thì thông hiểu kinh điển, thuyết giảng, phát hành cả trăm băng đĩa nhưng vẫn chỉ là “hạng tư” còn thua cả người tu phước làm lành lánh dữ.
Phần VII
Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Tín Học (???-1190), Trần Thái Tông (1218 - 1277), Hải Quýnh (1728 - 1811), Đại Xả (1120 - 1180) và Tông Diễn (1640 - 1711).
Tôi xin trích dẫn một vài kệ tụng của các Thiền sư:
Not For Profit (Không Vì Lợi của Thiền sư Tín Học)
To make a profit leads to implanting a desire.
To have a desire leads to craving a profit.
A bodhisattva doesn’t do anything for profit or for desire.
Not for profit and not for desire, the bodhisattvas act.
Có lợi ắt có nhiễm, có nhiễm ắt có lợi;
có lợi có nhiễm Bồ-tát chẳng làm;
không lợi không nhiễm, Bồ-tát mới làm.
Khi tâm mình bị nhiễm ô thì mình làm việc vì lợi kể cả làm việc thiện. Khi tâm mình trong trắng thì làm việc vô vị lợi.
Còn về Trấn Thái Tông, tác giả trích dẫn sách sử kể rằng trong khi đọc tới dòng chữ "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" từ Kinh Kim Cương, Trần Thái Tông hốt nhiên hiểu về Thiền Đạo. Về sau, Trần Thái Tông dùng công án Thiền để dạy môn đệ. Sách "Khóa Hư Lục" của ngài có một chương, trong đó liệt kê 43 công án với chú giải riêng (niêm và tụng) để hướng dẫn Thiền sinh về cách học, thực tập và đốn nhập vào cửa không cửa (Vô Môn Quan).
Nothing Attainable (Vô Sở Đắc của Thiền sư Hải Quýnh)
All things are formless,
unborn, undying.
Thus, there is nothing attainable.
Thus, truly the Buddha spoke.
Các pháp không tướng
Chẳng sanh chẳng diệt
Bởi không chỗ được (đắc)
Là thật Phật nói.
Bài kệ này nói đúng lời dạy trong Bát Nhã Tâm Kinh “Vô trí diệc vô đắc”.
Về Thiền sư Tông Diễn, theo tài liệu của Thiền Viện Thường Chiếu, “Vào năm 1678, Vua Lê Hy Tông vì không hiểu Đạo Phật đã cho đày tất cả tăng ni vào rừng núi. Sư rất đau lòng, quyết tâm về kinh đô thuyết phục vua. Sau bao gian khổ và mưu trí tuyệt vời, Thiền sư đã gặp được vua và dâng lên hòn ngọc quý. Hòn ngọc quý này là tờ biểu tấu giấu trong chiếc hộp kín. Sau khi đọc xong tờ biểu, vua chợt hiểu về Đạo Phật rồi phán, “Đạo Phật là viên ngọc quí, chẳng lẽ trong nước chúng ta không dùng, Tăng Ni hay khuyên người làm thiện, tại sao lại vất bỏ đi? Người đem Phật pháp khai hóa dân chúng cũng là phương pháp tốt giúp cho triều đình trị dân.”
Sau đó vua liền mời Sư ở lại chùa Báo Thiên để bàn luận đạo lý. Thượng hoàng nghe tiếng sai Trung Sứ đến nói với vua thỉnh Sư vào cung diễn giảng kinh pháp. Vua cũng đến dự nghe thấu hiểu đạo lý, liền ban cho Sư được quyền ra vào nội cung để tuyên dương chánh pháp, đồng thời ra lệnh thu hồi lệnh trước, để Tăng Ni tự ý trở về chùa mình ở đâu tùy duyên giáo hóa. Đề bày tỏ sự hối hận của mình vua cho tạc bức tượng bằng gỗ Phật ngồi trên lưng vua hiện còn trưng bày tại Chùa Hòe Nhai.
Thiền sư Tông Diễn đúng là vị thánh tăng hy hữu, có một không hai. Ngài chính là Tự Tại Vương Bồ Tát hóa thân.
Phần VIII
Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Tịnh Giới (??? - 1207), Pháp Loa (1284 - 1330), Tính Tuyền (1674- 1744), Thanh Đàm (Thế kỷ 19), Nguyện Học (???-1174), Đại Xả (1120 - 1180), Trường Nguyên (1110 - 1165) và Thủy Nguyệt (1637 - 1704)..
Sau đây là một bài kệ của Thiền sư Tính Tuyền:
Dharma Heir
One who understands that the Great Way has no words,
will enter the gate of non-duality,
and complete the countless teachings.
Who will be that future dharma heir?
Đạo cả không lời
Vào cửa chẳng hai
Pháp môn vô lượng
Ai là kẻ sau. (Bản dịch của HT.. Thích Thanh Từ)
Khi bạn không còn gì để nói nữa, khi tâm bạn trống không giống như tác giả luận bàn, “Bạn biết bầu trời mênh mông bao trùm cả hai trạng thái Có và Không Có. Và bạn biết bầu trời đó, vốn là cái Không mênh mông, vẫn bất động bất kể mây hiện và tan. Bầu trời luôn luôn ở trạng thái bất nhị. Bầu trời biểu tượng cho tâm bạn, và các đám mây biểu tượng các trạng thái ý thức.” thì bạn chính là kẻ nối pháp, tiếp dòng sinh mệnh của Thiền.
Phần IX
Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Huyền Quang (1254 - 1334), Liễu Quán (??? - 1743), Y Sơn (???- 1213), Viên Học (1073 - 1136) và Nguyên Thiều.
Dưới đây là một kệ tụng của Thiền Sư Huyền Quang:
Mountain Temple (Chùa Núi/Sơn Tự)
The night is calm, and an autumn wind breezes by the veranda.
The mountain temple leans quietly on tree shadows.
Zen is done, and the mind becomes the oneness.
The crickets chirp; for whom is the sound?
Gió thu đêm vắng thổi hiên ngoài
Chùa núi im lìm gối cỏ may
Đã được thành thiền tâm một khối
Rè rè tiếng dế gọi kêu ai?
Qua bài kệ này chúng ta thấy đời sống của sư như một ông Tiên hay Bồ Tát ẩn tu.
Rồi một bài kệ của Thiền sư Nguyên Thiều:
The Serene Mirror (Gương Lặng Lẽ)
Serene, serene – that mirror has no shades.
Luminous, luminous – that diamond has no features.
Clearly, clearly – it is something, and it is not anything.
Tranquil, tranquil – it is emptiness, and it is not emptiness.
Lặng lẽ gương không bóng
Rỡ rỡ châu chẳng hình
Rõ ràng vật phi vật
Vắng vẻ không chẳng không.
Bài kệ này làm hiển lộ lý Sắc-Không. Gương có hình mà chẳng có hình. Hạt minh châu chiếu muôn vẻ nhưng có chứa gì đâu?
Phần X
Trong phần này tác giả nói về:
Zen(Thiền)
Bodhi (Bồ Đề) của Thiền sư Pháp Loa
The Great Way (Đại Đạo) của Thiền sư Pháp Loa
Song Of The Buddha Mind (Phật Tâm Ca) của Tuệ Trung Thượng Sĩ
Living Amid Dust And Enjoying The Way (Cư Trần Lạc Đạo) của Trần Nhân Tông.
Thay Lời Kết:
Thiền làm cho Phật giáo sống động, cho thấy Phật Giáo là gì qua hình ảnh của các Thiền sư, khác biệt với những tôn giáo khác chỉ trụ vào cầu nguyện và nghi thức cúng tế. Thiền Việt Nam là linh hồn, là hình ảnh thực của Phật Giáo Việt Nam ít nhất 16 thế kỷ qua. Thiền vượt lên trên ngôn từ, kinh điển nhưng không có kinh điển nào qua Thiền. Thiền gom tất cả kinh điển vào mình nhưng không hề nói một câu, một chữ trong kinh.
Thú thực, tìm hiểu về Thiền lúc tôi nào cũng cảm thấy thong dong, thích thú. Hầu hết các tôn giáo đều bị trói buộc trong tín điều, lễ nghi, cung kính và nhiểu khi sợ hãi. Thế nhưng lạc vào Thiền chúng ta thấy có chút thi vị, thích thú, không câu nệ, giản dị. Khi nói về Thiền tôi luôn luôn kính trọng các Thiền sư, nhất là chư Tổ.
Đây là cuốn sách vô cùng quý báu mà tác giả đã bỏ bao công sức nghiên cứu, tổng hợp, bình chú rồi phiên dịch qua Anh Ngữ không ngoài mục đích để giới thiệu dòng Thiền Việt Nam, qua đó thế giới có thể biết về Phật Giáo Việt Nam thay vì họ chỉ biết đến Phật Giáo Trung Hoa, Tây Tạng, Nhật Bản, Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện…Nghe nói tác giả đã gửi biếu 35 cuốn sách tới các nhà chuyên môn điểm sách Hoa Kỳ với hy vọng họ sẽ đọc và giới thiệu tới độc giả hoặc các đại học. Xin quý thiện tri thức tiếp tay phổ biến cuốn sách này.
Quý vị có thể đọc sách tại Thư Viện Hoa Sen hay đặt mua tại Amazon hoặc liên lạc với tác giả qua địa chỉ điện thư: nguyengiac@gmail.com . Xin trân trọng giới thiệu.
Đào Văn Bình
(California ngày 20/6/2020)
__._,_.___
🔥Lisa Pham Khai Dân Trí 2/9/2022
BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP
https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/
https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM