Quantcast
Channel: Books-Hoi Ky.
Viewing all 675 articles
Browse latest View live

Tại sao Việt cộng tàn ác đến như vậy?

$
0
0
 

Một khung cảnh quá khủng khiếp hiện ra trước mắt, đã làm cho máu tôi ứa trào
lên. Tại sao Việt cộng tàn ác đến như vậy?
Đó là câu hỏi đầu tiên hiện ra trong trí tôi. Những cái ác mà tôi không thể tưởng
tượng nỗi, không thể chịu đựng nỗi, không thể chấp nhận được. Tôi vốn là một
Phật tử mà. Nhưng dù là một Phật tử, máu tôi không thể không sôi sục dâng trào
trước cảnh tượng bất nhân, tàn ác đó.
Trên mặt đường nhựa, xác người dân nằm la liệt, ngổn ngang. Thây người chết ở
mọi tư thế khác nhau, nằm sấp, nằm ngửa, nghiêng. Xác thì chân tay dang ra, xác
thì chân hay tay co lại. Xác nầy chồng lên xác kia, dồn đống, có xác một mình co
quắp bên lề đường… Cái mất đầu, cái mất tay, mất chân

From:

----- Message transmis -----

 
dongsongcu posted: " Lam Hà Buồn!... Lam Hà là bút hiệu của cựu Đại Uý, cựu Học Sinh TH Phan Chu Trinh Đà Nẵng, Sĩ Quan Tuỳ Viên cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh QĐ1/QK 1 /VNCH. Bài dưới đây trích từ Nhật Ký của một Tuỳ Viên Tưởng Ngô Quang Truởng. Ngày 23 tháng "
Respond to this post by replying above this line


New post on dòng sông cũ


Sắp đến ngày 30 tháng 4. Nhìn lại một góc của chiến trường xưa.

Lam Hà
Buồn!...
Lam Hà là bút hiệu của cựu Đại Uý, cựu Học Sinh TH Phan Chu Trinh Đà Nẵng, Sĩ Quan Tuỳ Viên cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh QĐ1/QK 1 /VNCH. Bài dưới đây trích từ Nhật Ký của một Tuỳ Viên Tưởng Ngô Quang Truởng..
Ngày 23 tháng 10, năm 2010, tôi đi dự lễ tiễn đưa Đại Tá Đặng văn Phước về nơi an nghỉ cuối cùng. Ông là Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51, và chính ông là người đã nhận tín hiệu cuả tôi qua cái đèn bấm và cái Samsonite, ông đã can đảm đáp xuống cột cờ BTL/HQVI Duyên Hải để cứu Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lịnh Quân Đoàn I và tôi, ra khỏi vùng nguy hiểm vào khoảng 2 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975.
Sau đó chúng tôi ghé núi Sơn Trà bốc Chuẩn Tướng Khánh, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân, rồi trực chỉ phi trường Non Nước để nhập cùng anh em Thủy Quân Lục chiến Việt Nam.
Tôi muốn giữ im lặng sau cuộc chiến, như bao nhiêu chiến binh chuyên nghiệp khác. Nhưng tôi không thể nào quên được bài báo của Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng đã đăng trong tuần báo Viet Tide cuả ông Vũ quang Ninh (chủ nhiệm) và cô Mai Khanh (chủ bút).
Là người học sử, hay viết sử, phải tôn trọng “sử xanh”, và là những người có phương tiện truyền thông để dẫn dắt dư luận quần chúng, xin diễn đạt vô tư, chính xác, và nhất là để cho các thế hệ con cháu biết sự thật là tại sao thế hệ cha ông phải chiến đấu và đã chiến đấu như thế nào.
Bài báo đã đăng ở trang 71 (Viet Tide số 421)
Lá thư tôi hỏi và trang báo xin đăng đã bị phớt lờ.
Chúng tôi, những người đã tận tình phục vụ quê hương xứ sở, quên cả thân mình, cha mẹ, vợ con cùng thân bằng quyến thuộc, đã làm hết khả năng và bổn phận của người quân nhân trong cuộc chiến, rất buồn lòng khi bị đánh giá sai sự thật.
Hôm nay, giờ này, khi tôi đang viết những dòng chữ nầy thì có nhiều người đã ra đi, có nhiều người ở lại quê nhà, và cũng có nhiều người đang chịu trăm cay nghìn đắng trong khắp bốn phương trời ở xứ người.
Trong lúc đó những ngưòi bạn cũ cũng như quân thù đã tìm cách bôi nhọ, hay đổ tội cho QLVNCH , để nhằm mục đích tự tôn vinh hay che dấu mặc cảm phản bội đồng minh.
Ba câu hỏi của tôi không được trả lời thì bây giờ tôi cũng xin được nói lên để mọi người cùng biết:
1. Khi Đà Nẵng đang cơn hấp hối, tôi đã theo sát Tư Lệnh Quân Đoàn I cho đến ngày ra khỏi nước.
2. Tương quan lực lượng đôi bên.
2a. Lực lượng quân đội Cộng Sản:
Những lực lượng Tiền Phương Cộng Sản đang bao vây Đà Nẵng gồm:
- Các Sư đoàn 324B, Sư Đoàn 325,
- Một Trung đoàn chiến xa,
- Hai Trung Đoàn Pháo làm nỗ lực chính.
Tất cả theo Elephant Valley tấn công phía Bắc Đà Nẵng.
- Một nỗ lực thứ hai là Sư Đoàn 711 cùng Mặt trận 44 tiến chiếm khu Kỹ Nghệ An Hòa (quận Đức Dục) và quận Đại Lộc rồi tiến về phía Nam Đà Nẵng.
Thành phố coi như nằm giữa hai gọng kềm của địch.
Tôi nhớ một phái đoàn dân chính gồm có các đại diện dân cử, đảng phái và thân hào nhân sĩ khoảng 10 người, trong số nầy tôi biết dân biểu Phước (cựu HS Phan Chu Trinh và chúng tôi thường gọi là Phước Lít), Giáo sư Trần ngọc Quế (giáo sư trường Phan chu Trinh và là một người cuả một đoàn thể chính trị), họ đến để yêu cầu Tư Lệnh Quân Đoàn có biện pháp quân sự để Đà Nẵng không nằm chịu trận địa pháo như lòng chảo Điện Biên Phủ.
Những đơn vị địch ở phía bắc đèo Hải Vân như:
- Các Sư Đoàn 304, SĐ 308, SĐ 320 B và SĐ 312 đang ở đâu? Có phải chúng đang ở sau lưng những nổ lưc chính không?
Đó là chưa kể những đơn vị địch ở Quân Khu II dồn lên vì QĐ II đã mất trước rồi.
2b. Lực lượng phía QĐVNCH gồm có:
- Sư Đoàn 3/BB, Sư Đoàn /TQLC trừ (vì Lữ Đoàn 147 xem như đã xoá sổ ở phía bắc đèo Hải Vân).
- Không Quân thì tất cả máy bay phải xuôi nam theo lệnh Bộ Tổng Tham Mưu.
- Pháo binh còn vài khẩu.
- Hải Quân chỉ có khả năng vận chuyển hạn chế.
- Sư Đoàn Dù thì đã hoàn toàn rút về Nam.
Quân thất trận đi tìm gia đình, dân lánh nạn từ phía Bắc và phiá Nam đổ về Đà Nẵng, khoảng 1.5 triệu người. Bình thường Đà Nẵng chỉ có khoảng 300,000 dân. Người đi đứng chật đường không thể chen chân được; dĩ nhiên trong số hổn loạn nầy có cả đặc công cùng tiền sát viên pháo binh Cộng Sản..
Đến đây thì Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng cùng quí độc giả đã thấy được quân số tham chiến đôi bên.
Sơ lược những biến cố cuối cùng tại Huế và Đà Nẵng:
- Đêm 25 tháng 3, 1975 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh các lực lượng ở Huế rút về ĐN.
- Ngày 26 tháng 3 Trung Tướng Trưởng và tôi bay trực thăng dọc theo bờ biển và tôi thấy tận mắt quân dân bồng bế, gánh gồng dẫn dắt nhau di chuyển về phía Nam. Đi đầu là ĐPQ/NQ tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Kế đến là SĐ 1 rồi đến TQLC. Dân chúng thì chạy lẫn lộn trong đoàn quân và phiá sau. Đa số trong số họ là gia đình quân nhân. Trông thảm thương như cảnh Lưu Bị dắt dân Tân Dã chạy về Diễn Châu trong chuyện Tam Quốc Chí.
Trung Tướng Trưởng muốn tôi lên tầng số để Trung Tướng nói chuyện với Đại Tá Lương, Lữ Đoàn Truởng LĐ 147. Về sau tôi được biết qua Trung Tâm hành Quân QĐI là đoàn người đến cửa Tư Hiền thì tan tác vì không qua được cửa Tư Hiền. Hải Quân và Công Binh nhận lãnh công tác đánh đắm một chiếc tàu Hải Quân làm cầu nổi như dự định trong buổi họp trước đó tại BTL/QĐI, nhưng họ đã không thực hiện được.
Thêm nữa đoàn người bị VC tác xạ và mạnh ai nấy chạy. Bộ Binh và ĐPQ/NQ về đến Đà Nẵng được khoảng 1/3; Nhưng số nầy tan hàng trong hổn loạn để lo đi tìm gia đình nên không còn kiểm soát được.
Sư Đoàn 1 coi như bị xoá sổ cùng với ĐPQ/NQ ở phía Bắc đèo Hải Vân.
Trong ngày 26 tháng 3, 1975 Lữ Đoàn 147 TQLC không bốc được nên Lữ Đoàn đã chiến đấu đến khi hết đạn. Một số tự tử và một số bị địch bắt.
Ngày 26 tháng 3, 1975 Huế xem như đã mất.
Tình hình phía Nam đèo Hải Vân cũng bi đát chẳng kém gì Huế.
Ngày 10 tháng 3 thì hai quận Hậu Đức và Tiên Phước bị tràn ngập bởi Trung Đoàn 52 và Sư Đoàn 711 của Việt cộng.
Ngày 24 tháng 3 Tiểu Khu Quảng Tín rút chạy về Đà Nẵng, và cũng ngày nầy Tiểu khu Quảng Ngãi rút về Chu Lai.
Ngày 26 tháng 3 Sư Đoàn 2 rút ra Cú Lao Ré. Thành phố Đà Nẵng lên cơn sốt hỗn loạn. Cướp bóc đã xảy ra tại kho gạo gần thương cảng.
Sáng ngày 28 tháng 3 Tư Lệnh Quân Đoàn cho triệu tập các cấp chỉ huy để tìm biện pháp vãn hồi trật tự và tái trang bị cho những đơn vị có mặt trong thành phố. Nhưng kế hoạch không thi hành được vì không đủ quân số tác chiến, và hầu như một số lớn sĩ quan đã bỏ phòng sở để đi lo chuyện gia đình. Tôi thấy chỉ có văn phòng Tư Lệnh còn làm việc còn tất cả phòng ban trong bộ tư lệnh hầu như ngừng lại hết.
Vào khoảng 2 chiều ngày ngày 28 tháng 3 Tiểu khu Quảng Nam xem như mất liên lạc. Trung Tướng Trưởng và Tôi chỉ bay đến chi khu Hoà Vang rồi phải trở lại BTL/QĐ. Chi Khu Hòa Vang ở sát phi trường Đà Nẵng. Như vậy QĐI chỉ còn lại Thành Phố Đà Nẵng và Phi Trường chưa bị Việt cộng chiếm mà thôi.
Lực lượng đáng kể để phòng thủ Đà Nẵng chỉ còn Sư Đoàn 3 và 3 Lữ Đoàn TQLC mà thôi.
Trong suốt những tháng ngày ở Mỹ, Trung Tướng Trưởng vẫn thường gặp và đặt giả thuyết với các cấp chỉ huy thuộc quyền rằng nếu khi ấy chúng ta tử thủ Đà Nẵng thì chúng ta có giữ được không? Và việc gì sẽ xãy ra.?
Bây giờ tôi xin chuyển câu hỏi nầy lại cho quí độc giả.
Đến đây tôi cũng xin nhắc đến Sư Đoàn 3:
Sư Đoàn được thành lập với chủ lực là Trung Đoàn 2 cuả SĐ1 BB cùng với quân nhân đủ mọi thành phần: quân nhân văn phòng, quân phạm, hay bị trù dập và bị tống ra Sư Đoàn 3, và Sư Đoàn nầy ra trấn ải địa đầu giời tuyến. Sư Đoàn bị mang tiếng “chạy làng” khi Việt cộng ồ ạt tràn qua vùng giới tuyến phi quân sự, để tấn công quân ta. Ai giỏi hơn ai để không “chạy làng”?
Khi lực lượng Đồng Minh chưa rút đi, thì lực lượng cuả họ gồm:
- Sư Đoàn 3/ TQLC/ Hoa Kỳ
- Thêm Trung Đoàn 1/ TQLC/ Hoa Kỳ tăng phái.
- Sư Đoàn 101 Nhảy Dù/ HK,
- Lữ Đoàn 5 Cơ Giới.
Một tiểu đoàn cuả họ vừa tăng phái lẫn cơ hữu vào khoản 1,500 quân nhân – bằng quân số một trung đoàn chiến đấu của ta.
Hoả lực cuả một Sư Đoàn / Hoa Kỳ chấp cả Hoả lực cuả QĐVNCH không địch nổi. Họ có hỏa lực cuả Không, Hải, Lục yểm trợ tối đa. Mất một sư đoàn là rung chuyển cả nước Mỹ. Một sư đoàn chiến đấu nhưng cả 250 triệu người yểm trợ cả phương tiện lẫn tinh thần. Ngày tôi theo Tiểu Đoàn 3/1 TQLC /Hoa Kỳ hành quân ở vùng Quảng Nam thì một hồi chánh viên nói cho biết rằng các đơn vị Việt cộng rất sợ đụng trận với Mỹ. Tôi hỏi lại anh ta: vậy chúng tôi, QLVNCH, đánh giặc dở hơn Mỹ phải vậy không thì anh ta trả lời rằng không phải vậy - Chúng tôi ít sợ các anh vì các anh bắn ít hơn nhiều, còn Mỹ thì họ bắn như mưa. Anh xem các cây trong làng, có cây nào không đầy vết đạn chằng chịt. Thế nhưng ngày tôi theo Tiểu Đoàn 2/1 TQLC / Hoa Kỳ, tăng phái cho Sư Đoàn 3 / TQLC / Hoa Kỳ, tại phía nam Cồn Thiên vẫn phải chịu trận pháo kích 61 và 82 ly cuả quân chính qui Việt cộng mấy tháng trời.
Đám quân sinh Bắc tử Nam còn dám tấn công các đơn vị Mỹ ở vùng phi quân sự như ở Cồn Thiên, Khe Sanh huống gì một Sư Đoàn tân lập như Sư Đoàn 3?
Những ngày cuối cùng cuả Đà Nẵng nếu không có Sư Đoàn 3, thì Sư Đòan / TQLC / VN không rút xuống tàu được. Sư Đoàn 3 đã bị hi sinh ngăn chận địch và không có kế hoạch bốc Sư Đoàn 3.
Tổng Thống Thiệu đã đặt câu hỏi cho Trung Tướng Trưởng là nếu rút, thì rút được bao nhiêu quân? . Ưu tiên vẫn là rút Sư Đoàn Dù, Sư Đoàn /TQLC để có lực lượng làm hơi thở cuối cùng cuả VNCH.
Lữ Đoàn I Dù còn lại sau cùng chỉ được dùng để ứng chiến nhằm nâng cao tinh thần quân dân mà không được phép xử dụng tác chiến. Sư Đoàn / TQLC cũng vậy; phải làm sao rút được về Sài Gòn.
Khi Tư Lệnh Sư Đoàn 3 về họp lần cuối cùng đêm 28 tháng 3 tại BTL / Hải Quân/ VIDH thì chỉ được biết bất ngờ là phải rút về vùng Horse Shoe gần sông Thu Bồn mà không thấy nói di tản Sư Đoàn 3.
Phương tiện và tình thế chỉ có thể lo cho 2 Sư Đoàn tổng trừ bị mà thôi. Đến đây tôi xin trả lời nghi vấn cuả Đại Tá Phạm Bá Hoa trong “Đôi Dòng Ghi Nhớ” rằng không có quan Xịa nào khuyên đừng đánh cả. Phiá Việt cũng như Mỹ và kể cả Trung Tướng Trưởng chỉ muốn bảo toàn lực lượng để lo chuyện khác về sau, và khả năng chỉ có thể lo cho hai Sư Đoàn Tổng Trừ Bị mà thôi. Sư Đoàn 3 đã bị làm con chốt thí.
Trong quân sử chiến tranh Cao Ly: khi chí nguyện quân Cộng Sản Trung Hoa ồ ạt tấn công thì quân Mỹ và Nam Hàn phải rút về phiá Nam. Sư Đoàn 1/ TQLC/ Hoa Kỳ phải làm nút chận cho quân bạn rút lui . Sư Đoàn nầy đã chiến đấu oanh liệt; nhưng họ phải trả một giá quá đắt: hơn 800 Sĩ Quan và nhiều ngàn binh sĩ hi sinh sau khi họ tự giải cứu và rút sau cùng.
Sư Đoàn 3 cuả chúng ta không làm được như vậy, không có quân bạn gíúp đỡ, để dựa lưng, trưóc mặt là địch, sau lưng là bạn. Sư Đoàn đã phải tứ bề thọ địch.
Hơn nữa chính phủ và nhân dân cuả Sư Đoàn 1 / TQLC / Hoa Kỳ không bỏ rơi họ, trong khi các bạn (Sư Đoàn 3) hoàn toàn bị bỏ rơi. Các bạn ( Sư Đoàn 3) đã chiến đấu oanh liệt trong một hoàn cảnh nghiệt ngã. Xin đứng nghiêm kính chào các chiến hữu Sư Đoàn 3 đã nằm xuồng, hoặc đang quằn quoại đau thương tại quê hương Quảng Đà!
Giờ phút cuối cùng tại Đà Nẵng:
Sáng sớm ngày 29 tháng 3, năm 1975 chúng tôi tiến ra bờ biển để lội lên tàu. Ngoài TQLC ra, tôi đếm BB có khoảng 13 người: Tr/T Trưởng, Tôi , Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ (Tỉnh trưởng Thưà Thiên), Đại Tá Kỳ (Tỉnh Trưởng Quảng Trị), Trung Tá Tuân (Phòng 3 QĐI) và mấy người nữa tôi không nhớ tên.
Tôi đi lòng vòng để tìm một cái phao cho TR/T Trưởng nhưng không tìm được. Các phi cơ trực thăng và Chinooks đang tiếp nhiên liệu bằng cái mũ sắt. Họ phá hai chiềc để lấy nhiên liệu đổ vào một chiếc. Đi đến đâu thì những người trên phi cơ cũng đều chĩa súng vào tôi.
Tôi gặp Thiếu tá Hiếu, người trước đây từng lái trực thăng cho Tr/T Trưởng, và ông la to:
“Đừng bắn nó, nó là bạn tao,”
Ông hỏi: “Mầy có đi thì lên đi với tao.”
“Không,” tôi trả lời”
Thiếu tá có cái phao nào cho tôi một cái cho Tr/T Trưởng.”
“không, tao không có.
Mầy có đi không?” Ông lại hỏi
“Không, tôi còn phải lo cho Tr/T Trưởng “ tôi trả lời.
Ông chúc tôi may măn và tôi cũng chúc lại ông may mắn.
Tôi trở lại tìm TR/T Trưởng thì thấy Thiếu Tá Phương (TQLC) đã nhường cái phao mang cho Tr/T Trưởng mặc dù Th/T Phương không biết lội. Đại Tá Trí kẹp Tr/T trưởng một bên, một bên thì Th/T Phương kẹp. Tôi vớ một khúc gỗ cuả một cái bunker cũ để làm cái phao. Một tay tôi nắm thắt lưng TR/T Trưởng để đẩy ông, một tay ôm khúc gỗ và cả ba chúng tôi dìu ông lội ra tàu.
Biển động, sóng lớn, không có cầu tàu. Nhiều lúc sóng phủ tôi bị chìm lĩm. Chúng tôi lội đến vừa lút đầu thì lên được tàu.
Sau khi lên đến nơi thì TR/T Truởng mê sảng và tôi cũng ngất đi một khoảng thời gian dài vì một phần đói, một phần uống nhiều nước mặn khi sóng phủ, một phần vì quá mệt.
Theo Trung Uý Bình, Hạm Phó LST 404, thì Tr/T Trưởng đã nói trong lúc mê sảng:
“Bây giờ Tổng Thống biểu tôi phải làm gì?”
“Làm như vậy thì làm sao tôi nói với các Tướng dưới quyền tôi được.”
Khi tàu đang lênh đênh ngoài khơi Đà Nẵng thì chúng tôi nhận được lệnh Tổng Thống Thiệu “phải tái chiếm ĐN”.
“Bây giờ tôi đi với ai và lấy gì để tái chiếm.”
Tr/T Trưởng nói một mình và ông ra lịnh cho HạmTrưởng đưa ông và TQLC xuôi Nam.
Trên đường xuôi Nam, tôi và Chuẩn Tướng Khánh, mỗi bữa hai người chia nhau nửa muỗng cơm và nửa muỗng nước của anh em hải quân nhịn miệng để dành cho. Chúng tôi không có thực phẩm và nước uống. Theo anh em HQ cho biết tàu vừa xong công tác và trên đường về bến thì nhận được lệnh quay trở ra Đà Nẵng vận chuyển QĐ I nên không có tái tiếp tế.
Về đến Saì Gòn thì Tr/T Trưởng đã kiệt lực nên được đưa vào Tổng Y Viện Cộng Hoà. Vài ngày sau ông tỉnh táo lại và đã khóc khi tôi đứng bên giường bệnh cuả ông, và ông đã than thở rằng: “Nhờ trời giúp tôi với Hòa mới vào được tới đây.”
Còn nhiều chi tiết nhưng bài báo giới hạn. Một ngày nào thuận tiện tôi sẽ viết nhiều hơn. Trước khi tạm chấm dứt bài nầy tôi xin thưa rằng trong sách “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” cuả Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến “Sư Đoàn 1 tự động tan hàng ở Huế” là không đúng. Đối với Tr/T Trưởng một đôi khi một đaị đội BB do một Thiếu Úy chỉ huy đang chạm địch ông cũng đáp xuống xem xét và tôi đã toát mồ hôi hột vì sợ không bảo vệ được ông. Chuyện một đại đơn vị cấp Sư Đoàn tự động giải tán mà Tr/Tướng Trưởng không biết, thì không thể nào có thể xảy ra được. Chuyện lệnh lạc tiền hậu bất nhất cuả Tổng Thống Thiệu thì có và đúng “solid 100%”. Tôi còn vài tài liệu để chứng minh điều này.
Ngày tháng qua đi, qua đi…Mọi sự rồi cũng chẳng còn gì cả. TT. Thiệu đã ra đi, Đại Tướng Viên đã ra đi, vị tướng tài ba và đức độ Tr/T Ngô Quang Trưởng ngày nào của lòng tôi kính mến cũng đã ra người thiên cổ. Các niên trưởng cuả tôi như Chuẩn Tướng Khánh, Đ/T Duệ, Đ/T Phước cũng đã ra đi, và rồi chúng tôi cũng sẽ mờ dần theo năm tháng… Nếu có còn chăng là đôi dòng lịch sử vậy xin tôn trọng “sử xanh” và đừng bẻ cong ngòi bút vì bất cứ lý do nào.
“Biết thì nói rằng biết, không biết thì nói rằng không biết.” Nếu dẫn chứng cho lập luận cuả mình thì xin nêu rõ xuất xứ (foot notes). Xin đừng nói rằng nghe người nầy, người kia nói, là vô căn cứ.
Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng và Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã làm buồn lòng những người đã ra đi và những kẻ còn ở lại. Chúng tôi đã từ bỏ tất cả kể cả gia đình thân yêu để làm hết sức mình cho tổ quốc, cho quân đội và cho lý tưởng.
Quân đội nào cũng có một vài cấp chỉ huy hèn mọn, khi địch chưa đến đã bỏ chạy. Quân Đoàn I cũng không ra ngoài cái thông lệ tầm thường đó; nhưng không phải tất cả cấp chỉ huy đều hèn nhát bỏ chạy về đến Sài Gòn trong lúc còn 100,000 quân còn ở lại chiến đấu tại Đà Nẵng.
Tôi là một cá nhân nhỏ bé tầm thường nhưng may mắn còn sống sót sau biến cố 1975. Ở một góc độ nhỏ bé nào đó tôi đã thấy, đã nghe và đã chịu đựng những điều đã xảy ra vì vậy tôi phải nói cho những người không còn nói được nữa, hay họ không bao giờ muốn nói.
Nhìn lại một góc chiến trường xưa....
2/ Cổ Thành Quảng Trị… Trị-Thiên vùng dậy
Cổ Thành Quảng Trị
48 giờ nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ, ở ngã tư An Sương, Hốc Môn, đối với tôi, ra Saigon làm một chầu cà phê ở quán Mai Hương, Pagode thế là đủ.
Khi chưa kết hôn, 7 ngày phép với tôi là… quá dài, tới ngày thứ tư, tôi đã thấy bồn chồn, ngày thứ năm, tôi nhớ đồng đội, nhớ đơn vị… Rồi tôi không thể nghỉ phép hết ngày thứ sáu. Tôi về đơn vị, không khí ở đó mặn nồng hơn, vui vẻ hơn, so với những ngày phép ở ngoài, sao nó lạt lẽo, đôi khi vô vị. Đúng vậy, chẳng có mùi vị gì hết. Vì vậy, khi người bạn học cũ hỏi tôi:
“Mày mới từ tử địa An Lộc về, giờ lại ra Miền Trung, bộ không ngán súng đạn sao?”
“Bây chừ thì chưa, bây chừ tao thấy đi hành quân với đơn vị, anh em, mà lại còn về Huế nữa, là… vui lắm.”
Với cái vui ấy, tôi cùng anh em 81 Biệt Cách Nhảy Dù lên mấy chiếc C-130 của quân đội Mỹ, bay ra phi trường Phú Bài ngày 28 Tháng Sáu, năm 1972.
Chúng tôi phải đi gấp vì lệnh của tổng thống đấy.
Hôm đại lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm 1972, tổng thống đọc diễn văn và ra lệnh cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, trong vòng 3 tháng, phải chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị. Kể từ hôm tổng thống ra lệnh, đến ngày chúng tôi lên máy bay chỉ mới 9 ngày. Ngoài ấy, Tướng Ngô Quang Trưởng đang là tư lệnh chiến trường, ngoài các đơn vị của Quân Đoàn I, thì các Sư Đoàn Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến cũng đã có mặt rồi. Không những Quân Đội chúng ta giữ được phòng tuyến sông Mỹ Chánh, mà lại còn đang phản công ra phía Bắc con sông nầy.
Xuống ở phi trường Phú Bài, chúng tôi được quân xa đưa thẳng ra PK.17, tức là Đồn Cây Số 17, như dân chúng thường gọi. Đây là căn cứ của Trung Đoàn 3, Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Trung Đoàn đã ra trận, chỉ còn một ít binh sĩ ở lại phòng thủ doanh trại.
Đêm đó, như thường lệ, trước mỗi cuộc hành quân, chúng tôi nhận 7 ngày lương khô và được Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn chỉ thị nhiệm vụ cho từng đại đội. Ông đã được vinh thăng đặc cách đại tá tại mặt trận Bình Long, An Lộc, cũng như về sau này tất cả quân nhân khác trong đơn vị có tham dự tại chiến trường An Lộc, mỗi người đều được thăng một cấp.
Tôi, đại đội trưởng Đại Đội 4, cùng Đại Úy Nguyễn Ích Đoan, đại đội trưởng Đại Đội 1, được lệnh đưa hai đại đội ngày mai lên đường tăng phái cho Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù của Thiếu Tá Lê Văn Mễ. Đơn vị nầy mới từ Charlie về, vừa bổ sung tái huấn luyện, ra Quảng Trị hồi đầu tháng 5, ngay sau khi thành phố Quảng Trị bị mất, nay đang hành quân từ phòng tuyến Mỹ Chánh, tiến dọc theo các ngọn đồi sát chân núi Trường Sơn, phía Tây Quốc Lộ 1. Mục tiêu của Tiểu Đoàn 11 Dù là Nhà Thờ La Vang. Tiểu Đoàn 11 Dù đã hoàn thành nhiệm vụ.
Đại đội tôi được quân xa chuyển đến gần ngã ba đường vào xã Ưu Điềm, từ đây chúng tôi men theo hai bên Hương Lộ, để di chuyển về hướng Mỹ Chánh, vượt qua cầu Mỹ Chánh vào khoảng trưa, Đại Đội phân làm 2 cánh, tiến ra hướng Bắc, ở hai bên Quốc Lộ mới do Công Binh Mỹ vừa xây xong.. Đường nầy không đi qua Diên Sanh, Phủ Lỵ Hải Lăng cũ. Trong một ngày đường là chúng tôi tới khu vực Đại Lộ Kinh Hoàng.
Một khung cảnh quá khủng khiếp hiện ra trước mắt, đã làm cho máu tôi ứa trào lên. Tại sao Việt cộng tàn ác đến như vậy?
Đó là câu hỏi đầu tiên hiện ra trong trí tôi. Những cái ác mà tôi không thể tưởng tượng nỗi, không thể chịu đựng nỗi, không thể chấp nhận được. Tôi vốn là một Phật tử mà. Nhưng dù là một Phật tử, máu tôi không thể không sôi sục dâng trào trước cảnh tượng bất nhân, tàn ác đó..
Trên mặt đường nhựa, xác người dân nằm la liệt, ngổn ngang. Thây người chết ở mọi tư thế khác nhau, nằm sấp, nằm ngửa, nghiêng. Xác thì chân tay dang ra, xác thì chân hay tay co lại. Xác nầy chồng lên xác kia, dồn đống, có xác một mình co quắp bên lề đường… Cái mất đầu, cái mất tay, mất chân.
Có xác đàn ông, có xác đàn bà, có xác trẻ em, có xác không còn nhìn ra là đàn ông hay đàn bà nữa. Không thể nào tả hết được!!!
Đoạn đường Việt Cộng giết người nầy, xảy ra ngay ngày Việt Cộng chiếm thành phố Quảng Trị, ngày 1 Tháng Năm, năm 1972 và những ngày tiếp sau đó.
Vậy là đồng bào nằm đây đã gần hai tháng, da thịt đã rữa. Có nơi xương trắng đã bày ra, sọ, tay chân hay xương sườn. Dù quân nhân mặc đồ trận hay thường dân, thì đồ trận, áo quần cũng đã phai màu, mục nát. Mái tóc dài của mấy mẹ, mấy chị, mấy cháu đã tróc khỏi sọ não, bay là đà theo từng cơn gió thoảng, trên mặt cát còn xông đầy mùi tử khí.
Họ là những người trốn chạy, dù họ là dân sự hay quân nhân. Họ trốn chạy Cộng Sản. Họ trốn chạy chiến tranh. Họ trốn chạy tên bay đạn lạc, dù không biết rõ của phe bên nào. Giết chết những người trốn chạy! Vậy là vô nhân đạo, là vô lương tri, là kẻ giết người dã man, họ đã đi tới chỗ tận cùng của lương tâm.
Trên mặt đường và cả hai bên vệ đường, bên cạnh xác người là lỗ chỗ các hố sâu của đạn súng cối, đại bác, hỏa tiễn mà giặc cộng đã nhẫn tâm rót xuống để giết hại đồng bào và những trẻ thơ vô tội.
Xe cộ nằm dọc theo đường đi, mũi xe hướng về Nam, xe quân đội, xe dân sự, xe hàng, xe đò chở khách, xe lớn nhỏ đủ các loại. Nhiều chiếc bị cháy sạm đen, nhiều chiếc bị đạn pháo bắn hư hại một phần hay hoàn toàn. Rải rác đây đó là các loại xe gắn máy, Vespa, Lambretta, Honda, Mobylette và khá nhiều xe đạp, hầu hết, bị hư, cong vành bể lốp chỉ còn là đồ phế thải.
Dù là một người lính trận, từng vào sinh ra tử, tôi không dám nhìn kỹ những cái xác ấy. Kinh hoàng quá! Kinh hoàng quá! Tàn ác quá! Tàn ác vô cùng tận!!!
Chúng tôi lặng yên di chuyển trong đau buồn và tức giận, vừa sẵn sàng súng đạn để phản công nếu địch phục kích, lại cũng vừa để tránh địch phát hiện. Chúng sẽ pháo, pháo dồn dập nếu thấy chúng tôi.
Đêm mùa Hè, trời tối chậm, chúng tôi được lệnh dừng quân nghỉ qua đêm. Tôi cho lệnh các trung đội đào hố cá nhân phòng thủ ở cả bốn hướng, trải rộng dọc theo hai bên Quốc Lộ 1, để tránh tổn thất khi bị địch pháo kích, đồng thời là để phản ứng ngay nếu bị địch tấn công. Tôi và Ban Chỉ Huy Đại Đội đóng cạnh một chiếc xe GMC của phe ta bỏ lại.
Đêm trôi đi trong bóng tối tĩnh mịch, thỉnh thoảng có ngọn gió thổi qua, tôi thấy dễ chịu đôi chút. Nhưng suốt cả đêm, tôi chỉ chợp mắt từng chặp. Tôi không sợ chết, nếu thần chết có đến, tôi sẽ chống lại, như cái bản năng sinh tồn của muôn loài muôn vật.
Chính tôi đã viết trên tường Đài Tử Sĩ ở An Lộc: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.” Nói câu đó, và khắc viết lại câu nói đó của người xưa, tức là tôi đã chấp nhận cái kỷ kiến ấy rồi, có chi mà tôi phải thắc mắc.
Nhưng những thây người nằm ngổn ngang đang rửa mục, trên đoạn đường đi qua hồi chiều ám ảnh tôi, làm tôi không ngủ được. Chiến tranh là tàn ác. Những người đi đánh trận như tôi, vì Tổ Quốc, vì đồng bào, tôi chấp nhận nó. Nhưng với những người nằm chết kia, tôi thấy tội nghiệp cho họ, hay như câu Mạ tôi thường nói: “Tội vô cùng.” Tội cho họ quá, không làm sao một con người còn có lương tâm, có thể chấp nhận được.
Sáng hôm sau thức dậy, nhìn vô thùng xe, nhìn chung quanh lại đầy rẫy xác người chết khô, nằm co quắp, nằm dọc dài trên thảm cát, bên vệ đường.
Thật là quá thương tâm, não ruột. Tôi không kềm chế được nỗi xúc động, hai dòng nước mắt ứa trào.
Đại đội tiếp tục tiến ra hướng Bắc, tới một cây cầu, có phải là Cầu Dài như tên dân chúng thường gọi, đã bị sụp đổ, chúng tôi phải trầm mình lội nước vượt qua sông.
Tôi xem lại bản đồ, bên cạnh Quốc Lộ 1, về phía trái hướng Tây, song song với Quốc Lộ là đường xe lửa Saigon-Đông Hà. Bên kia đường xe lửa là khu đồi hoang, lúp xúp cây dại, cây mua và cây sim. Có lẽ vùng nầy tới mùa hoa nở, hoa mua và hoa sim phủ kín ngọn đồi. Nó giống như những ngọn đồi miền Trung, Bình Trị Thiên hay Thanh Nghệ Tĩnh vậy. Đây là “Những đồi hoa sim, màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt.” Tiếc rằng, tôi cũng là người chiến binh, không có thì giờ lang thang qua những đồi sim nầy để thấy màu tím của quê hương.
Di chuyển thêm chừng cây số nữa, bên trái là một căn cứ pháo binh của Sư Đoàn Dù, tình cờ tôi gặp Chuẩn Úy Hoàng Công Thức, Khóa 25 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, là em một người bạn học cùng xóm, con trai Thầy Hoàng Văn Ngũ, giáo sư Sinh Ngữ Trường Trung Học Công Lập Nguyễn Tri Phương, Huế. Anh là Tiền Sát Viên Pháo Binh của Sư Đoàn Nhảy Dù, đang hoạt động vùng nầy.
Sau cùng, đại đội tôi cũng đã tiếp cận tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, tôi trình diện Mê Linh, tức là Thiếu Tá Lê Văn Mễ, tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 11 Dù. Cùng gặp Mê Linh với tôi sau đó là Đại Úy Nguyễn Ích Đoan, đại đội trưởng Đại Đội 1 Biệt Cách Nhảy Dù.
Mê Linh giao nhiệm vụ cho hai đại đội Biệt Cách Dù là tái chiếm Nhà Thờ La Vang, tên mới là Vương Cung Thánh Đường La Vang: “Đại đội các anh phải chiếm lại nhà thờ nầy và giữ nó, không cho địch chiếm lại.” Có nghĩa là Dù đã chiếm nó. Đó là công lao của “Hùng Móm,” nhưng Hùng phải bỏ nó lại đi tiếp xuống để đánh vào thành phố Quảng Trị, thừa cơ hội đó, VC chiếm lại mục tiêu nầy.
Con đường tiến quân của Cộng Sản đánh vào Quảng Trị là con đường từ Ba Lòng xuống Như Lệ, Phước Môn, bên hữu ngạn Sông Thạch Hãn, theo một con đường bỏ hoang đã lâu, có cái tên cũ là đường Bảo Đại. Nó không giống như con đường Trần Lệ Xuân ở Phước Long, con đường đi lấy gỗ rừng của dân xe be khai thác gỗ.
Ở đây, đường Bảo Đại là con đường đi săn của nhà vua trước năm 1945, khi ông vua ham săn bắn nầy còn ngồi trên ngai vàng. Quân Cộng Sản đã theo con đường này, đưa quân chiếm lại Nhà Thờ La Vang. Nó cũng có nghĩa là khi Tiểu Đoàn 11 Dù từ hướng Tây đánh vào thành phố, thì coi như Tiểu Đoàn đưa lưng ra cho địch từ sau đánh tới. Trong ý nghĩa đó, hai đại đội Biệt Cách Dù có nhiệm vụ lấy lại Nhà Thờ La Vang, và giữ nó là nhằm mục đích bẻ gãy ý đồ của địch.
Bây giờ chúng tôi lại phải áp dụng chiến thuật sở trường: đánh đêm.
Vị trí giữa địch và ta đã thay đổi. Trước kia, chúng ta ở trong đồn, VC công đồn, chúng phải đánh ta vào ban đêm, chúng ta khó phát hiện địch. Bây giờ thì chúng ta phải công đồn, chúng ta cũng đánh đêm, địch không thể phát hiện được ta.
Nhà Thờ La Vang mặt quay về hướng Đông. Đại Đội 1 đánh từ hướng Tây Tây Nam, phía có Hang Đá Đức Mẹ. Đại Đội 4 tôi cũng đánh từ hướng Tây, Tây Bắc, phía có con đường đi lên Nhà Thờ Phước Môn ở phía Tây Nhà Thờ La Vang, gần chân núi Trường Sơn hơn.
Vào nửa đêm, chúng tôi âm thầm hai cánh quân tiến sát vòng đai Nhà Thờ La Vang, vừa dàn quân lại gặp một trận mưa lớn, chúng tôi án binh bất động.
Trời vừa sáng, dứt cơn mưa, quan sát các bố phòng của địch, tôi điện báo cho Đại Úy Đoan để phối hợp tác chiến, rồi bắt đầu phát lệnh xung phong, tấn công chớp nhoáng, ào ạt, địch quá bất ngờ, nên một số đã bị tiêu diệt, một số vất súng đầu hàng, vài ba tên tháo chạy vào bên trong nhà thờ, dùng B.40, AK.47 tác xạ chống trả, nhưng đã bị cánh quân hướng Tây Bắc của Đại Đội 4 chúng tôi ném lựu đạn triệt hạ 20 tên và bắt sống 05 tên. Chúng tôi 03 tử thương và 12 bị thương. Thu dọn chiến trường xong, Đại Đội 1 được lệnh ở lại bố phòng Nhà Thờ La Vang. Đại Đội tôi tiếp tục tiến về hướng Đông Đông Bắc để thanh toán mục tiêu kế cận là Chi Khu Mai Lĩnh.
La Vang 1972
Chi Khu Mai Lĩnh, thuộc Quận Mai Lĩnh, tọa lạc trên đoạn đường rẽ, tên thường gọi là Ngã Ba Long Hưng, là con đường cũ đi vào thành phố, phía ngoài sân vận động Quảng Trị cũ, kế cận trường trung học Nguyễn Hoàng.
Trên con đường tiến quân từ Nhà Thờ La Vang đến Chi Khu Mai Lĩnh, đại đội tôi bị tử thương một khinh binh và một tiểu đội trưởng vì đụng chốt VC tại ngã ba đường La Vang và Quốc Lộ 1. Nhổ chốt là sở trường của Biệt Cách Nhảy Dù, theo chiến thuật của Đại Tá Huấn. Pháo Binh cho nổ một tràng vào vị trí địch, buộc địch phải lụt đầu xuống, núp trong các hố cá nhân. Các viên đạn cuối là đạn lép. Trong khi, nghe tiếng đạn đi, VC còn núp, thì chúng tôi biết đó là đạn lép, không có gì nguy hiểm, liền nhanh chóng áp sát chỗ chúng ẩn núp, nhờ đó, chúng tôi thanh toán bọn chúng không mấy khó khăn.
Đại đội tôi cũng áp dụng chiến thuật đánh đêm để tiến chiếm Chi Khu Mai Lĩnh. Đơn vị VC chốt lại đây không đông, khoảng 15 hay 20 tên, chúng nằm trong các công sự có sẵn trong Chi Khu để chống trả, và vì thế mà chúng đã không ngờ binh sĩ của đại đội tôi, một nửa ém quân bên ngoài, thỉnh thoảng tác xạ súng phóng lựu M.79 vào bên trong Chi Khu, một nửa lợi dụng trời tối đen như mực đã bò vào nằm sát bên ngoài công sự, khi chúng tác xạ chống trả đã để lộ mục tiêu, nên bị chúng tôi ném lựu đạn giết chết và làm trọng thương hầu hết.
Ở lại trấn thủ Chi Khu Mai Lĩnh được hai hôm, đại đội tôi được lệnh tăng phái cho Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Bùi Quyền, Thủ Khoa Khóa 16 Võ Bị Đà Lạt, đang hành quân ở phía Đông Thành Cổ. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đang đóng tại khu vực Thôn An Thái cách Cổ Thành khoảng 3 km về hướng Đông Nam. Trình diện danh tánh, cấp bậc, chức vụ với Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5, Thiếu Tá Bùi Quyền nhìn tôi nói đùa:
“Tôi thì nhỏ con, Trung Úy Lực thì to con, vậy tôi gọi ông là Lực Đô nhé, à… à… mà Lực Đô nói lái là Lộ Đức, vậy thì Lộ Đức là ám danh đàm thoại vô tuyến tôi đặt cho trung úy trong cuộc hành quân này, trung úy, có chịu không?”
Nói xong, Thiếu Tá Quyền cười vui vẻ vì cái sáng kiến độc đáo của ông. Nhờ ông, mà cái biệt danh Lộ Đức đã đeo đẳng theo tôi từ đó cho tới bây giờ.
Hôm sau Đại Đội 3 của Đại Úy Phạm Châu Tài cũng được điều động đến tăng cường cho Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù.
Thiếu Tá Bùi Quyền họp các đại đội trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù và Biệt Cách Dù để ban lệnh hành quân. Ông giao cho tôi nhiệm vụ tấn công chiếm cứ nhà thờ Hạnh Hoa Thôn, thuộc làng Cổ Thành, quận Triệu Phong. Đai Đội 3 là lực lượng trừ bị. Thôn nầy ở bên sông, đẹp như cái tên của nó, nằm trên con đường đất hẹp, từ phía Đông Thành Cổ ra tới bờ sông Vĩnh Định, Thôn Hạnh Hoa có những ngôi nhà cổ, vườn rộng, cây lá xanh tươi, nhiều gốc mai lưu niên, có thể là trồng từ lâu lắm, đã mấy chục đời.
Nhà thờ Hạnh Hoa nhỏ, đối diện với bên kia đám ruộng nhỏ là nhà thờ Tri Bưu cao lớn, có tháp chuông vươn khỏi những ngọn tre làng.
Địch đang chiếm cứ trong nhà thờ.
Đánh trận ở đây, khi thấy địch chiếm đóng nhà thờ, tôi thường nhớ lại một câu trong bài hát: “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”:
“Từ khi giặc tràn qua Xóm Đạo,
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương.”
Vâng, tôi là người chiến sĩ giữ quê hương và tôi đang đuổi giặc ra khỏi xóm quê nầy, mặc dù tôi chẳng có một em nhỏ nào cả “để nghe khe khẽ lời em nguyện” mà chỉ có “Luyến thương chan chứa Tình Quê Mẹ” mà thôi.
Hình như quân Cộng Sản chỉ quen với chiến thuật tấn công hơn là chiến thuật phòng thủ. Nhờ vậy chúng tôi lần nữa sử dụng kỹ thuật đánh đêm. Tôi bung bốn trung đội men theo các nhà dân bị đổ nát, song hành tiến sát nhà thờ Hạnh Hoa Thôn.. Lại một trận mưa rào đổ xuống đã giúp xóa bớt tiếng động di hành của chúng tôi, và nhờ đó mà đại đội đã vào chiếm cứ nhà thờ không một tiếng súng nổ. Đáng buồn là khi trời hừng sáng, địch đã nổ súng phản công và trong lần đụng độ này, tôi mất người hiệu thính viên mà tôi rất thương mến: Hạ Sĩ Chấn. Anh đã hy sinh ngay khi đang cầm ống nghe liên lạc báo cáo với Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, thì bị một viên đạn địch bắn trúng đầu.
Vào ngày hôm sau, từ tờ mờ sáng đại bác của VC tác xạ liên hồi từ hướng Tây vào các vị trí phòng thủ của các đơn vị Nhảy Dù, đại đội tôi và rải rác quanh khu vực phía Đông của Cổ Thành. Vừa ngưng pháo thì VC bắt đầu mở cuộc tấn công qui mô với một đơn vị Cộng quân đông hơn quân số đại đội tôi tới khoảng 5 lần.
Bọn chúng từ một ngôi làng ở hướng Bắc Thôn Hạnh Hoa, ồ ạt xung phong biển người tấn công vào nhà thờ Tri Bưu và nhà thờ Hạnh Hoa. Chúng tôi sử dụng hết hỏa lực của mình để ngăn giặc. Nhưng kỳ lạ chưa? Bọn chúng như điên cuồng, như rồ dại, như uống bùa mê thuốc lú, hết lớp nầy ngã xuống, lớp sau tiến lên. Lớp sau ngã xuống, lớp sau nữa tiến lên. Không những chúng tôi ngạc nhiên, thấy kỳ lạ mà còn kinh hoảng nữa, tự hỏi: “Sao bọn chúng ngu xuẩn, điên rồ vậy?” Cứ tình trạng nầy, đại đội tôi, với quân số ít ỏi, chưa kịp bổ sung sau trận An Lộc, sẽ bị chúng tràn ngập mất thôi.
Nhưng cuối cùng, trước hỏa tập TOT của Pháo Binh Dù và Sư Đoàn 1, cùng sự chiến đấu dũng cảm của các Đại Đội Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù và Đại Đội 4 chúng tôi. Bọn chúng quay đầu tháo chạy như lũ chuột, bỏ lại trên bãi chiến trường la liệt xác chết của đồng bọn, của những tên giặc cộng cuồng tín, vô thần, mất hết cả lương tri, nhân tính.
Tôi ngồi nghỉ mệt, lật tấm bản đồ ra xem lại vị trí của mình, tôi bỗng chợt nhớ câu chuyện của một người bạn cũ kể lại. Tết năm Mậu Thân, VC dùng con đường nầy để tiến quân đánh vào Thị Xã Quảng Trị, ngay tại điểm nầy, chỗ tôi đang ngồi, Thôn Hạnh Hoa, VC đụng phải một Tiểu Đoàn Nhảy Dù và thiệt hại không ít. Nhờ đó mà Quảng Trị được yên hơn Huế là vì vậy.
Hèn chi, VC cố chiếm lại nhà thờ Hạnh Hoa Thôn, là vì nó nằm trên con đường chiến thuật. Mất nhà thờ Hạnh Hoa Thôn, là chúng mất con đường tiếp cận với binh lính của chúng đang cố thủ trong Cổ Thành. Giữ được nhà thờ Hạnh Hoa Thôn là đại đội tôi đã đóng góp sức mình cho công việc tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.
Tình hình chiến sự ở khu vực cận Cổ Thành vẫn còn sôi động, súng đạn từ trong bắn ra từ ngoài bắn vào nổ liên tục. Tiểu Đoàn 5 Dù được tăng cường thêm Đại Đội 1 và Đại Đội 2 Trinh Sát Dù, đang nỗ lực tấn công chiếm Cổ Thành. Thiếu Tá Bùi Quyền ra lệnh cho Đại Đội 3 và Đại Đội 4 Biệt Cách Dù, cùng tiến lên chiếm lĩnh phòng thủ tại Nhà Thờ Tri Bưu, để phụ trách sườn cánh phải, hướng Bắc của Cổ Thành.
Tôi dẫn đại đội thi hành nhiệm vụ. Chẳng còn thằng cùi hủi nào trong nhà thờ Tri Bưu cả. Bọn chúng đã bị Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù triệt hạ hầu hết trong lần tập kích trước, nên rút chạy cả rồi.
Ngay cả nhà dân chúng chung quanh nhà thờ, dân thì đã di tản đã lâu, từ đầu trận đánh, bây giờ chẳng còn thằng nào bén mảng đến đây.
Tôi vẫn cho binh sĩ lục soát kỹ ở nhà thờ, không có gì hết, ngoài một số xác chết của đám “sinh Bắc tử Nam” bị sình thối, nằm vương vãi một vài nơi, trong và ngoài khuôn viên nhà thờ. Nhưng tôi rất buồn khi nhìn lên Bàn Thờ Thánh, tượng Chúa Giê Su còn đó, một mình trên Thập Giá. Cha xứ và con chiên chạy trốn giặc Cộng hết cả rồi. Cảnh tượng ấy làm cho tôi thấy đau lòng hơn cả câu thơ của Phạm Văn Bình: “Chúa buồn trên Thánh Giá. Mắt nhạt nhòa mưa qua!” Tôi không khóc, vốn dĩ từ nhỏ tôi ít khi khóc. Nhưng xúc động thì tình cảm của tôi không thua kém ai, nhất là khi tôi nhìn lên gác chuông nhà thờ. Gác chuông đã bị đổ sập, chỉ còn một nửa. Là một Phật tử, không mấy khi tôi vào quì lạy trong nhà thờ để nhìn lên tượng Chúa, nhưng gác chuông nhà thờ là một hình ảnh không xa lạ gì với số đông người Việt Nam. Vì vậy, khi nhìn cái gác chuông bị gãy đổ, lòng tôi xúc động hơn. Nơi đây không còn tiếng chuông nhà thờ nữa, tiếng chuông rộn rã mà tôi đã từng nghe khi tôi còn tuổi ấu thơ.
Đại đội được lệnh nằm án ngữ tại nhà thờ Tri Bưu, ban đêm bung quân ra bên ngoài, để ngăn chặn địch có thể trở lại quấy phá. Trong một lần kích đêm, tiểu đội tiền đồn của Trung Sĩ Khưu Công Quí đã bắn tử thương 02 giặc cộng đang mò mẫm đi vào hướng khu nhà đổ nát của dân, tôi nghĩ chắc để tìm kiếm lương thực (?). Không lâu sau đó, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù ra lệnh Đại Đội 3 và 4 chúng tôi đưa quân về hướng Đông, tiếp cận Cổ Thành. Có đơn vị Nhảy Dù đang chờ ở đó.
Từ nhà thờ Trí Bưu, đại đội đi lom khom, lẩn khuất trong các khu vườn nhà dân, từ vườn nầy qua vườn khác, để tránh địch phát hiện. Tới phía ngoài Cổ Thành, trong vị trí bố phòng của các đại đội Nhảy Dù, tôi nhìn thấy có một số binh sĩ Nhảy Dù tử thương, bị thương, đang nằm trên các băng ca, chưa kịp di tản. Cũng vào lúc đó hàng loạt trái đạn do Pháo Binh tác xạ, rồi tiếp theo sau là các chiến đấu cơ A.37, Skyraider của Không Quân Việt Nam đang thay nhau oanh tạc, nổ dồn dập, inh ỏi trên Kỳ Đài Cổ Thành Quảng Trị. Nhưng, bỗng dưng, không rõ từ đâu có hai chiến đấu cơ loại F.5 của Mỹ, bay vào khu vực giội bom, nổ lạc hướng về phía phòng thủ của Nhảy Dù, gây nên tổn thất nặng nề về nhân mạng cho Đại Đội 51 và 52 của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù và một ít cho hai Đại Đội 3 và 4 Biệt Cách Nhảy Dù đang bố phòng kế cận. Sự kiện nầy làm cho quân số của Nhảy Dù hao hụt nhiều hơn. Họ tham gia cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị kể từ đầu Tháng Năm cho đến giờ, vậy là đã hơn 2 tháng. Hai tháng đánh trận liên miên, ngày đêm không ngơi nghỉ, sức voi cũng không chịu nổi. Tôi nghĩ thầm mà thấy thương cho các chiến hữu của tôi.
Ngày 27 Tháng Bảy, năm 1972, ba lữ đoàn Nhảy Dù và hai Đại Đội 3 và 4 Biệt Cách Dù có lệnh triệt thối để bàn giao chiến trường cho Thủy Quân Lục Chiến. Vì là lực lượng tăng phái, Đại Đội 3 và 4 Biệt Cách Dù được rút trước. Nhảy Dù còn ở lại, chờ quân bạn tiến lên tiếp nhận phòng tuyến.
Barbara và Helène là hai cao điểm nằm ở thượng nguồn, giữa sông Ba Lòng và sông Nhùng về phía Tây Tỉnh Quảng Trị, gần Trường Sơn. Đỉnh Helène cao hơn, thường bị mây mù bao phủ sớm chiều, nhất là về mùa mưa, mây che mờ mịt. Còn Barbara thì thấp hơn một chút, ít mây mù hơn, thuận tiện công việc quan sát đường chuyển quân của Cộng Sản quanh mật khu Ba Lòng.
Rút khỏi Quảng Trị, mấy chiếc Chinook bốc thả Đại Đội 1 và Đại Đội 4 Biệt Cách Nhảy Dù xuống căn cứ Barbara, với nhiệm vụ là từ cao điểm này, tung các toán thám sát của đại đội, thâm nhập vào phía Nam mật khu Ba Lòng để theo dõi, phát hiện sự chuyển, rút quân của địch, mà hướng dẫn pháo binh tác xạ và khu trục oanh kích.
Căn cứ nầy trước kia là của quân đội Mỹ trú đóng. Họ đã rút đi, nay chỉ còn lại những công sự ngầm và hàng rào phòng thủ bao quanh phòng tuyến.
Chiến trường Quảng Trị vẫn còn tiếp diễn, nhưng có lẽ địch đã núng thế rồi, không còn hy vọng gì giữ Cổ Thành lâu hơn được nữa, do đó, các toán thám sát đã báo cáo thấy địch rút quân ra nhiều hơn là đưa quân vào tăng cường cho quân phòng thủ trong thị xã. Các toán thám sát nhận lệnh theo dõi và định vị chính xác đường mòn, căn cứ địch. Từ đó, tôi thông báo về Bộ Chỉ Huy để xin pháo binh và phi cơ tiêu diệt.
Công việc cứ tuần tự như thế cho đến khi nghe tin chiến thắng. Sư Đoàn Thủy Quân Lục chiến đã giương cao ngọn Cờ Vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc Việt Nam trên Cổ Thành Quảng Trị, hôm ấy là ngày 16 Tháng Chín, năm 1972, trước kỳ hạn ba tháng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tổng tư lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Có một điều, trong suốt gần ba tháng dài cùng phối hợp chiến đấu bên cạnh các tiểu đoàn Dù, tôi vẫn không hiểu tại sao Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù là một đơn vị tinh nhuệ, chiến đấu can trường, đã mang lại nhiều chiến công hiển hách, mà gần nhất là An Lộc điển hình, nhưng khi đưa vào chiến trường Quảng Trị lại không là một nỗ lực chính, giao phó riêng một vùng trách nhiệm như hồi Mậu Thân ở Ngã Ba Cây Quéo, Cây Thị, hay vừa qua tại An Lộc, mà lại xé lẻ, riêng rẽ từng đại đội, để tăng cường cho các tiểu đoàn Dù và đặt dưới quyền điều động, sinh sát của họ mà thôi.
Phải chi với sở trường đánh địch trong thành phố, với chiến thuật du kích, đánh đêm tài tình, điêu luyện, với tài chỉ huy mưu lược của Đại Tá Phan Văn Huấn, khi tham chiến tại Quảng Trị mà được hoạt động riêng rẽ, chắc chắn Liên Đoàn sẽ lại tái diễn thêm một kỳ công, chiến tích lẫy lừng, để sớm mang lại chiến thắng, rút ngắn thời gian tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị mà Sư Đoàn Dù đã đổ máu không phải là ít.
Thế là tàn một trận chiến. Lòng tôi vui mừng vì chúng ta đã chiến thắng, nhưng không khỏi bâng khuâng tự hỏi: “Tại sao họ không ở yên ngoài kia mà đem quân xâm lăng chúng ta, tạo ra hàng vạn, hàng vạn người sinh Bắc tử Nam.” Câu hỏi không dễ trả lời, nhưng có bao nhiêu người khi gây ra một cuộc chiến, nghĩ đến câu: “Nhất tướng công thành, vạn cốt khô!”
Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù trong đó có Đại Đội 4 Biệt Cách Nhảy Dù do tôi chỉ huy, một lần nữa đã góp một phần công lao, xương máu, để viết lên thêm một chiến thắng oai hùng, lừng lẫy trong trang Sử Chiến Tích của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để mãi mãi lưu truyền cho Hậu Thế.
***
Cùng chung chiến hào
“Mình ba đứa hôm nay gặp nhau….
Xuất thân khác quân trường
Thủ Đức hay Võ Bị,
Đều chung một con đường.
Xông pha khắp chiến trường,
Vẫy vùng nơi trận địa,
Hy sinh vì lý tưởng.
Quyết bảo vệ quê hương.
Tay buông súng đầu hàng,
Nhục hờn căm lính trận,
Tha hương chung phận số,
Kiếp lưu đày vong nô.
Bốn phương về hạnh ngộ,
Áo trận dẫu mờ phai,
Vẫn kiêu hùng phong độ.
Bất tử mãi thiên thu.
Nang Van Le
nangvanl@aol.com
dongsongcu | April 12, 2018 at 9:19 pm | Categories: Uncategorized | URL: https://wp.me/p7euFv-edZ
   Like

Unsubscribe to no longer receive posts from dòng sông cũ.
Change your email settings at Manage Subscriptions.



__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Nghĩ về 30/4

$
0
0

Nghĩ về 30/4

TS.Mai Thanh Truyết





Mài gươm mãi đến bao giờ nhỉ
Bao giờ chém chết nỗi đau thương
Nỗi đau vẫn đó ngày Quốc Hận
30 tháng 4 sông núi ngẩn ngơ!
Thơ Huỳnh Công Ánh

Không biết tự lúc nào sau ngày 30 tháng tư năm 1975, mỗi năm vào dịp nầy lòng tôi dường như chùng xuống. Trước khi về hưu vào năm 2012, công việc hàng ngày vẫn chu toàn 8 giờ để trả nợ áo cơm, một vài giờ cho dịch vụ tư vấn về môi trường của tôi, cũng như thì giờ cho các buổi phỏng vấn hay ngồi suy tư và viết bài hoặc đi đó đi đây…tôi đã cảm nhận được một nỗi niềm u uẩn nào đó trong tôi. Nhưng bây giờ, mặc dù đã giã từ nợ cơm áo, nhưng niềm u uẩn trên vẫn tiếp tục còn trong tôi ngày càng…dai dẳng hơn thêm, càng cô đọng hơn nữa đến nỗi nhiều khi tôi chỉ muốn nói… một mình!


1. Tại sao lại có hiện tượng như vậy trong tôi?



Có lẽ, vì tuổi đời ngày càng cao, và niềm hy vọng về một ngày mùa xuân nở hoa trên quê hương còn xa vời vợi…cho nên nỗi buồn của tôi càng thêm ray rứt và điểm thêm đôi nét tuyệt vọng trong tâm tư?

Mà cũng có lẽ, theo lời của một người bạn xưa, Ngộ Không nhận xét về tôi trong bài “Thằng… chào cờ” là: "Thêm một lần với biệt hữu thiên địa phi nhân gian, và ông hiểu là gã làm như đang sửa soạn cho một chuyến đi xa… Lại thêm một lần sau ánh mắt xa vắng như vắt ngang dòng sông Bến Hải đang lặng lờ với nước chẩy đôi dòng. Dòng sông vẫn tiếp tục trôi đi, ở giữa dòng có một giải phân cách ý thức hệ tích tụ đã bao năm. Cùng một cảm hoài, ông cảm thấy thanh thản ở cái tuổi cổ lai hy nên hiểu được cuộc đời là dòng sông đã gần đến cửa biển. Mà biển là tàng thức chứa chấp mọi nhân sinh. Thời gian trên những dòng sông chính là những mảnh đời. Qua ánh mắt thằng Nam Kỳ quốc dường như đã mệt mỏi. Ông nhìn thấy ánh mắt ấy vắt qua một khoảng không gian nào đó mà gã đã từng hoài bão, kể cả những hoài vọng thầm kín như giấc mơ của một đời người với … mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự, giầy cỏ, gươm cùn ta đi đây. (Nguyễn Bính)”.

- Bỏ qua những ngày tháng nghiệt ngã còn lại ở Việt Nam trước khi vượt biên sau 30/4/1975, phải thành thật mà nói, lúc đó tôi không có thì giờ để “buồn” như hôm nay, vì miếng cơm manh áo và mãi lo “tìm đường ra đi” (cứu nước?) cho một gánh nặng với 4 đứa con dại…

- Bỏ qua những năm đầu tiên sống đời tị nạn, tôi cũng chưa thực sự quan tâm gì mấy cũng như không có thì giờ để buồn…như nỗi buồn hôm nay vì một đời sống tạm dung nơi xứ người.

Nhưng chỉ trong vòng 30 năm trở lại đây, khi gia đình tương đối ổn định và sau khi bắt đầu bước vào con đường tranh đấu cho Việt Nam qua ngã môi trường, tôi mới thực sự cảm thấy buồn. Và mỗi năm nỗi buồn đó càng se sắc hơn, ngậm ngùi hơn, vì nghiệm thấy con đường mình đang đi vẫn còn quá xa…mà ước mơ một ngày Việt Nam ơi! Quê hương réo gọi - Những người con Việt hẹn nhau về - Chung vai vá lại dư đồ rách - Cùng nhau xây đắp mảnh Tình Quê …vẫn còn quá xa…

2. Buồn để mà buồn một mình!

Không thể nào nói tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn được. Mà tôi hiểu và hiểu rất rõ nỗi buồn thực sự của tôi vì hai lý do:


- Đất Nước còn điêu linh,

- Và Bà con mình vẫn còn chìm đắm trong nỗi nhục nhằn làm công dân hạng hai cho một chế độ phản dân tộc chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam.

Nhìn lại những ngày bắt đầu từ giữa tháng tư năm 75, có thể nói cả thành phố Sài Gòn đang lên cơn sốt. Nào là chạy đôn chạy đáo thăm dò tình hình… mặc dù biết rằng miền Nam đang trong cơn hấp hối, nhưng cũng mong tìm và hy vọng một phép lạ. Nào là, đối với những người có chút tiền, lo chạy đi đổi đô la, làm…áp phe, hay do là tin tức tìm đường ra đi. Tin tức đồn đãi nhiều khi trái ngược nhau, tin vui lẫn với tin buồn.

Nhưng nỗi buồn của tôi thực sự buồn khi rời trụ sở USAID ở đường Lê Văn Duyệt sau khi làm “thủ tục”…ra đi. Cầm tấm thẻ vô tri có hình của một “ông giáo trẻ” đầy nhiệt huyết, mà khi về lại Việt Nam năm 1973, nguyện sẽ làm một cái gì cho thanh niên Việt Nam. Tôi không thiết ăn cơm chiều hôm đó. Nếu tôi nhớ không lầm, đó là ngày thứ tư 09/4/1975.

Tới thứ hai tuần sau đó, vào khoảng tuần lễ thứ hai của tháng tư, lên Đại học Cao Đài Tây Ninh, tôi gặp mấy anh chàng “CIA” trẻ đóng trên đài phát tuyến ở đỉnh Núi Bà vừa xuống chợ Tây Ninh, cho tôi biết rằng ngày mai, họ sẽ rút về Mỹ và khuyên tôi nên rời bỏ quê hương qua một giọng Bắc rất rành rọt. Suốt các buổi lên lớp sau đó, tôi nói như người mất hồn, một tâm trạng mà chính giờ phút viết lên dòng chữ nầy, tôi lại thêm một lần “phiêu diêu” nữa.



3. Đi? hay Ở?

Hai chữ nầy ám ảnh mãi nơi tôi trong suốt thời gian còn lại cho đến ngày 30/4 năm đó.

Hình ảnh Ba tôi lẩn quẩn trong đầu. Hình ảnh một ông giáo già đã về hưu từ lâu, căm cụi viết thư cho con mình đi du học mỗi buổi sáng thứ năm trong tuần, để rồi, sang sáng thứ bảy đem thư ra Bưu diện gửi đi cho kịp chuyến máy bay Air France bay về Pháp, để con mình nhận được thư đúng ngày thứ hai. Việc nầy xảy ra đúng như in, không hề sai sót suốt hơn hai năm trời sau khi tôi du học bên Pháp cho đến khi Ba tôi mất. Ba tôi mất ngày chủ nhật và thứ hai sau đó tôi vẫn nhận được thư ba viết trước khi nhận được điện tín của anh tôi.



Còn Má tôi. Một người mẹ già gặp lại và sống với con chưa đầy hai năm…sau khi tôi về nước. Mà cũng chính trong thời gian nầy, tôi luôn bận bịu với những “đam mê” cho cuộc sống, mải mê chuẩn bị cho con đường “công danh” của mình… thì làm sao tôi có thì giờ chăm sóc hay hỏi han đến mẹ già. Và mỗi khi nhìn lại mình, chính tôi cũng phải tự thú rằng mình cũng không có thì giờ để nghĩ đến mẹ mình nữa trong thời gian nầy. Tôi thật có lỗi với má tôi nhiều và nỗi ân hận vẫn còn ray rứt mãi trong tôi. Và giờ đây, khi viết những dòng chữ nầy, tôi chỉ còn biết mỗi đêm nhìn ảnh mẹ để sám hối.


Trở lại thời gian giữa tháng 4 năm xưa. Tâm trí tôi luôn bị ray rứt với tâm trang nửa Ở nửa Đi.

- Đi không đành cũng vì mẹ già đơn côi.

- Đi không đành cũng vì bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ níu kéo lại để làm một “cái gì” cho quê hương.

- Và đi cũng không đành vì một suy nghĩ non dại (mà chắc cũng có nhiều người suy nghĩ như tôi), đó là “Mình có thể đối thoại với người cộng sản, vì trước khi họ là cộng sản, họ cũng là người Việt Nam với đầy đủ dân tộc tính; vì vậy mình có thể hợp tác được”.

Một khi đã biết sai lầm thì đã muộn, tôi phải trả cái giá gần 8 năm trong nhà tù lớn Việt Nam dưới chế độ nầy. Biết là sai lầm trong giai đoạn đó, nhưng tôi không bao giờ hối hận vì quyết định trên. Vì sao? Vì chính cái sai lầm oan nghiệt nầy đã làm cho tôi hiểu được người cộng sản Bắc Kỳ như thế nào…và chính điều sau này làm cho tôi dứt khoát hơn là chúng ta, những người con Việt hiền hòa không thể nào sống chung với những người luôn mang não trạng chuyên chính vô sản và không có tình người.

Cái sai lầm nầy cũng giống như cái sai lầm của người thầy giáo Tạ Ký dạy Văn chương của mái trường thân yêu của người miền Nam; đó là Trường Petrus Trương Vĩnh Ký, mà thời tôi đi học có tên là Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký – LPK. Anh Ký khi đi “tù” về cùng ngồi uống rượu với Gs Tôn Thất Trung Nghĩa bên Trường Luật và tôi tại Chợ Đuổi nằm tại góc đường Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp năm 1981 như sau:“Hai mươi năm mới biết chuyện xưa lầm. Thì tuổi trẻ đã biến thành uất hận!”

Chiều thứ hai 28/4, khi một tên phi công (tôi không muốn nhắc tới tên nầy lên đây, vì làm sao tôi quên được tên những kẻ phản bội quê hương) dội bom dinh Độc Lập, và từ đó lịnh giới nghiêm 24/24 được ban hành. Tôi liền chạy lên nhà một người bạn vong niên trên cư xá giáo chức ở đường Tự Đức. Đó là GS Nguyễn Văn Trường, vừa qua đời ngày 3/1/2018 tại Houston.


Ngay từ những ngày đầu còn chập chững bước vào ngưỡng của trường ĐH Sư Phạm Sài Gòn với tâm thức đầy tự tin, Anh đã từng khuyên tôi:”Cuộc sống vốn bất toàn. Vì thế mà con người cầu toàn. Vì cầu, và muốn cho bằng được, cho nên mới có thất vọng. Cuộc sống vốn vô thường, không ngừng biến đổi. Nhưng ta lại muốn ngưng giòng đời, gói nó trong những ước vọng của ta, cho nên mới có khổ đau. Vọng tâm là duyên tạo thành, và biến đổi tùy duyên, ta lại đồng nhất mình với nó, cho nó là chân lý, căn cứ vào nó để phê phán thiệt hơn, đúng sai, phải trái. Thế thì làm sao ta không nhìn sai lệch, không sống trong giả tưởng của vọng. Cho nên, nhà Phật dạy vô trụ. Đừng trụ vào bất cứ một niệm nào, Đừng trụ vào Phật Tánh, Chân Tâm, Thiên Đàng, Địa Ngục. Đừng trụ ngay cả vào cái ý niệm vô trụ”.

4. Tôi đã chứng kiến được gì và đã học được gì?

Xin ghi lại vài dòng để chiêm nghiệm nỗi đau thương, nhục nhằn của những người con Việt trước cảnh quốc phá gia vong trong những ngày cuối cùng của Miền Nam. Đó là:

- Hình ảnh một Trung tá TQLC chạy từ Đà Nẵng về nhà người anh cũng ở cùng cư xá, hình ảnh giọt nước mắt lưng tròng khi anh cổi chiếc áo trận và cắt từng nút áo cũng như hai bông mai bạc trên cầu vai. Anh nói với người anh qua giọt nước mắt và trong từng tiếng nấc “Anh xem như em đã chết ngày hôm nay”;

- Hình ảnh từng đoàn trực thăng Mỹ chiếu đèn sáng rọi vào mặt chúng tôi trên sân thượng của cư xá trong lúc tháo chạy và chở người di tản đi ra hạm đội;

- Hình ảnh những người lính tôi không còn nhớ Dù tiếp tục chiến đấu ở cầu Phan Thanh Giản trên con đường đi ra Ngã tư Hàng Xanh. Tiếng súng bắt đầu ngay sau khi tướng Minh tuyên bố đầu hàng lúc 10 giờ 37 phút sáng 30/4. Và tiếng súng chỉ im lặng lúc xế trưa, có nghĩa là tất cả anh em binh sĩ đã chiến đấu cho đến quả lựu đạn cuối cùng.

Chuyện ĐI và Ở đã được tôi quyết định ở khúc quành định mệnh nầy, không khác chi khúc quành của nhân vật Thiệu “phải” rời bỏ khúc quành của con sông Đuống đầy kỷ niệm tuổi thơ với Yến, người bạn thời trẻ thơ mà sau nầy trở thành…người tình muôn thuở cho đến cuối đời, để di cư vào Nam tìm tự do. (trong quyển tiểu thuyết “Dòng sông định mệnh” của nhà văn Doãn Quốc Sĩ).

5. Những ngày sau đó

Qua ngày thứ năm 1/5, lệnh trên radio yêu cầu (bắt buộc thì đúng hơn) mọi công chức phải đến trình diện tại trụ sở làm việc của mình. Sáng đó, tại cư xá có mặt Ông Khoa trưởng, Ông Phó Khoa trưởng và một số giáo sư, tôi và một giảng nghiệm viên tình nguyện vào Trường Sư phạm xem tình hình.

Mọi sự có vẻ êm xuôi vì “họ” chưa có người vào tiếp quản, ngoài một số “cơ sở” địa phương thôi. Nhưng một hình ảnh khác làm bẽ bàng và làm đảo lộn những suy nghĩ tốt đẹp trong tôi khi nhìn thấy một số đồng nghiệp của mình mới chỉ vừa cách đây một ngày, nay đã mang “băng đỏ cách mạng” từ cung cách hướng dẫn chỗ để xe, cho tới thái độ trong lúc nói chuyện. Đáng phỉ nhổ nhứt là những người nầy ngày nào thưa anh, xưng em với tôi, mà nay trở mặt dương dương tự đắc tự xưng tôi, tôi, anh, anh một cách trơ trẻn. Có những chị giáo sư thước tha, dịu hiền trong khi lên lớp mà nay ngoài băng đỏ, thậm chí còn để lá cờ vàng ba sọc đỏ dưới chân bàn đạp ga xe nữa. Thế mà, rốt cuộc, họ cũng phải liều thân vượt thoát và hiện đang sống rải rác tại Canada, Hoa Kỳ, Pháp, và Úc châu. Thật là nẽ bang cho chính họ!

Và hơn nữa, có giáo sư trong suốt thời gian chưa đầy hai năm ngắn ngủi của tôi, đã xem tôi như “thần tượng” mặc dù biết rằng tôi đã lập gia đình rồi, thường xuyên đi ăn uống chung. Tết đến, cô cũng không quên hái vài trái xoài trước nhà để biếu tôi, thậm chí đã dám cùng tôi “nhậu thịt chó” nữa…Người đó bây giờ là một “công thần” của chế độ. Chính là Tôn Nữ Thị Ninh.

- Làm sao tôi quên được lần đổi tiền đợt I ngày 22/9/1975, đổi 1Đ tiền “chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam” tức tiền “ngân hàng Việt Nam” lấy 500Đ tiền Việt Nam Cộng Hòa hay “tiền Ngân hàng Quốc gia Việt Nam”. Người dân chỉ đổi được mỗi gia đình 100.000Đ mà thôi.

- Làm sao tôi quên được lần đổi tiền đợt II ngày 3/5/1978, đổi 1Đ “tiền thống nhứt XHCN” tức tiền “ngân hàng nhà nước” lấy 1Đ tiền “ngân hàng Việt Nam” và mỗi gia đình chỉ được đổi 100Đ mà thôi.


- Làm sao tôi quên được lần đổi tiền đợt III ngày 14/9/1985, đổi 1Đ tiền ngân hàng nhà nước cũ lấy 1Đ tiền ngân hàng nhà nước mới (tiền thống nhứt Bắc Nam).

- Làm sao tôi quên được lần đánh tư sản đợt I ngày 11/9/1975, cướp của và tịch thu nhà những người được cho là tư sản cùng bắt đi vùng kinh tế mới. Chiến địch nầy gọi là X1;

- Làm sao tôi quên được lần đánh tư sản đợt II, tức chiến dịch X2, từ tháng 3/1978 tới cuối năm 1990 nhắm vào tư sản tiểu thương, những nhà tiểu thủ công nghệ, ước tính trên 14.000 gia đình tại Sài Gòn;


- Làm sao tôi quên được lần đánh tư sản đợt III tức chiến dịch X3, song hành với chiến dịch X2 tại Sài Gòn nhằm mục đích trục xuất người củ ra khỏi nơi ở và điền khuyết vào bằng gia đình cán bộ ngoài Bắc vào. Đây là một âm mưu thâm độc nhằm “Bắc kỳ hóa” thành phố Sài Gòn. Tính đến tháng 9/1989, ước tính có đến 950.000 người bị đuổi khỏi Sài Gòn, và có khoảng 150.000 gia đình cán bộ Bắc kỳ được điền khuyết vào;

- Làm sao tôi quên được những đợt bị bắt buột đi “học tập cải tạo”, đáng kể nhứt là đợt cuối cùng vào tháng 6/1975, kêu gọi công quân cán chính tập trung mang theo lương thực cho một tháng…để rồi tất cả bị lường gạt và phải chịu lao động khổ sai từ một hai năm cho đến hơn 17 năm đối với những cán bộ hành chánh và quân đội cao cấp của Việt Nam Cộng hòa….

6. Những ngày hôm nay và sắp tới

Một người bạn trong nước vừa viết những nhận định của anh về CSBV như sau:

- Cuộc Cách mạng Môi trường hiện tại chưa phải là “ý chí của cả dân tộc”, đứng dậy, dứt khoát và trực diện “đối đầu” với một đảng độc tài đang đi dần đến sự tự hủy! Vì vẫn còn nhiều chữ “nếu” “nếu toàn dân đã ý thức được vận mệnh đất nước, tương lai của mình mà nổi dậy, biểu tình lớn thì …”

- Thế trận hiện tại trong nước: Thành phần trong Đảng CSBV chống đối với nhau tới cùng …” chứ không hẳn phải “thành phần thứ ba luôn “quyết tử” với đảng …”

- Đảng viên: niềm tin lý tưởng đảng Cộng sản hiện nay không phải là mối liên kết hay trở lực lớn, vấn đề chính chi phối mọi người là quyền lực và quyền lợi. Lý tưởng đảng hiện nay đã trở nên vật trang trí rẻ tiền cho toan tính quyền lợi…”

- Lớp cầm quyền: Lớp lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước, Lớp doanh nhân ăn theo, Lớp hy vọng hưởng lợi, Lớp công lực: công an, quân đội;

- Tầng lớp muốn thay đổi: cuộc sống bế tắc, ủng hộ thay đổi;


- Người Việt trong nước: Đây là một trở lực lớn khi mà người dân trong nước sau bao nhiêu năm sống trong môi trường thiếu tin tức, đã bị nhiễm độc âm mưu tuyên truyền của Cộng Sản, xem những thành phần chiến đấu cho dân chủ tại Hải Ngoại là hoạt động chống phá nhà nước, rước ngoại bang để chịu hàng phục làm nô lệ! Tuy nhiên, ngoài lực cản như trình bày thì lực lượng trí thức của người Việt nước ngoài đông đảo mang nguồn tư tưởng dân chủ tiến bộ là một nguồn lực vô cùng quí giá sẵn sàng cổ vũ sự thay đổi, xây dựng lại đất nước sau ách toàn trị.

- Quốc nội: Số ít chưa nhận ra đại họa Tàu Cộng. Trong số Dân đã nhận thức được đại họa của Quốc Dân, thì đa số Dân quá ù lì thụ động, kể cả hàng ngũ Chức Sắc các Tôn giáo, Nhân sĩ, Trí thức, chỉ thở dài thất vọng hoặc khóc, mà không biết nên làm gì (?)

- Cái khó là nhìn thấy hướng đúng, hướng phù hợp với từng người! Cái khó vạn nan kế tiếp là hăng hái bước lên đi vào hành động.

Qua sự nhận xét của một người con Việt trong nước cùng với những lời biện bạch trên, người viết xin diễn lại bức tranh vân cẩu chập chùng những ý nghĩ lộn xộn trong những ngày quốc phá gia vong và suy nghĩ miên man sau 43 năm trong cuộc hành trình chưa thấy …Điểm đến!

Xin chia xẻ cùng bà con.

Đây không phải là lời tự thú hay than thở, hay nói về mình.

Nơi đây tôi chỉ muốn nói lên vài điều suy nghĩ của một người con Việt mà thôi.

Đó là:

- Đừng bao giờ mơ tưởng những người Việt cộng sản Bắc kỳ là người Việt Nam.

Và để thoát khỏi ý nghĩ tiêu cực trong những ngày đau thương của Đất và Nước, tôi tự điều hướng cho chính mình cần phải hành xử trong tương lai như:

- Đứng trước quá khứ, hãy ngả mũ. Đứng trước tương lai, hãy XẮN TAY ÁO (H.L.Mencken) và chúng ta phải tiếp tục giữ lửa Quê Hương trong lòng mãi mãi.



- Lời ca của cố nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang đã kéo tôi về với thực tại, bài “Không phải là lúc”, bắt đầu bằng “Không phải là lúc ta ngồi đặt vấn đề”, để rồi kết thúc bằng một quyết tâm dứt khoát “…Làm việc đi không lo khen chê, làm việc đi hãy say và mê, cứ bắt tay gan lỳ, chúng ta giải quyết. Mình chậm chân đi sau người ta, mà ngồi đây nghĩ lo viễn vông, thắc mắc ngại ngùng biết khi nào mới làm xong!”

Và cũng chính vì mang quyết tâm trên mà tôi vẫn “Không đặt vấn đề với anh em, nhưng chắc chắn đứa con Việt nầy dứt khoát đặt vấn đề những người đang tàn phá Đất và Nước của Ông Cha để lại.

Và tôi ”đặt vấn đề” với người Cộng sản Bắc Kỳ, đã và đang chấp nhận và tiếp tục đóng vai trò “thái thú biết nói tiếng Việt” cho Trung Cộng thực thi “Đại Họa Mất Nước” để hoàn tất công cuộc Bắc thuộc lần thứ V.



Nhưng tôi cũng không quên dứt khoát đặt vấn đề với những kẻ cuối đời vẫn còn bon chen- danh lợi, bất kể cố ý hay vô tình, bị rơi vào cái bẫy lợi danh của Cộng sản, cái bẫy của “cây gậy và củ cà rốt” với cây gậy đập trên đầu mà củ cà rốt vẫn không cho ăn, cái bẫy của Cộng sản muốn mượn tay người Quốc gia “bôi đen” người Quốc gia chống Cộng, cái bẫy “gây rối cộng đồng” do những tay ăn bã của cộng sản; những kẻ dễ đánh mất thân phận làm “người” của mình, bất kể đó là loại “người” gì; lắm khi đó là những con “ếch” muốn làm con “bò”, cho dầu “ếch” hay “bò”, “nhỏ” hay “lớn”, vẫn không phải là... “người”.


Xin ghi lại và góp phần vào những Ngày Buồn Tháng Tư của những người con Việt.

Mùa Quốc hận tại Ottawa ngày 30/4/2018


TS.Mai Thanh Truyết

__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Tháng Tư nhớ lại: Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại Sài Gòn

$
0
0
 
Một mặt trận hai kẻ thù
Giặc cộng bán nước, tàu phù xâm lăng.

Tháng Tư nhớ lại: Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại Sài Gòn
Phạm Chi Lan

Không bao giờ chúng ta có thể ngờ được có ngày 30 Tháng Tư 1975 và không bao giờ, trước đó, chúng ta nghĩ rằng ngày 30 Tháng Tư 1975 chính là ngày vành khăn tang phủ lên đầu Bà Mẹ Việt Nam.

Đơn vị chúng tôi đang đùa giỡn với địch quân tại vùng ngoại ô Sài Gòn, khu xa lộ Đại Hàn nối liền từ ngã tư Quân Vận (Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung) đến xa cảng Phú Lâm. Được lệnh nguyên tiểu đoàn phải về phòng thủ dọc theo Quốc lộ 1 từ ngã tư Quân Vận đến ngã ba Bà Quẹo trong đêm 27 Tháng Tư 1975.

Thưa quý vị độc giả vì vài lý do riêng mà lý do chính vẫn là anh em đồng ngũ của chúng tôi, một số đông vẫn còn trong vòng kiềm tỏa của bọn Cộng Sản khát máu, vậy những tên tuổi trong cốt truyện này chỉ là tên giả cũng như tên của đơn vị chúng tôi xin được tạm quên, trong câu chuyện đầy đau thương thống khổ, cười ra, mà nước mắt lại là máu huyết của chúng tôi, vì chúng tôi tan hàng trong lúc địch quân đang bạt vía kinh hồn không hiểu chúng tôi đang ở đâu, không hiểu chúng tôi còn hay rã, nên bước chân vào Sài Gòn mà vẫn còn run rẩy. Nếu không được bọn ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản chỉ lối đưa đường thì chúng cũng chưa có hoàn hồn khi bước chân vào Dinh Độc Lập.

Và sau đó nhân loại đâu có ngờ được những sự dã man, tắm máu khô, khủng khiếp đang bao trùm lên dân tộc tôi, những đơn vị Mũ Đỏ, những đứa con chỉ biết sống chết cho vinh quang của đất nước, chết để bảo vệ quê hương “Quê Mẹ Việt Nam” đành phải gạt nước mắt tan hàng trong ngỡ ngàng, trong đau đớn tột cùng, trong tiếng cười khan pha lẫn máu bạn bè, đồng đội.
Với 15 tiểu đoàn tác chiến (chắc có người lấy làm lạ): Vâng đúng như vậy, 15 tiểu đoàn tác chiến, 4 tiểu đoàn pháo binh, 4 đại đội Trinh sát, 15 đại đội đa năng với kỷ luật cao độ, tác phong đứng đắn, lúc nào cũng hiên ngang đùa giỡn với tử thần, và châm ngôn “Thân dân, bảo vệ dân và giúp đỡ dân” được chúng tôi ghi khắc trong tâm hòa khẩu hiệu “Cố Gắng” để hoàn thành mọi vấn đề khó khăn trầm trọng.

Chúng tôi không sao quên được những cánh tay gầy guộc của bà mẹ Trị Thiên đã ôm chúng tôi run run dâng lệ vì sung sướng khi thấy chúng tôi trở lại Trị Thiên năm 1972. Các bà mẹ, các em gái đón chúng tôi tại đầu đường, không do chính quyền tổ chức mà do tình cảm của con người đối với con người: của các bà mẹ, của các em gái đón những đứa con yêu, những người anh can trường mang thân mình để bảo vệ đồng bào, quê hương đọa đầy. Ôi những em bé Huế dưới làn mưa đạn của quân thù đã đem đến cho chúng tôi những nắm cơm sấy trong biến cố Mậu Thân. Những vòng hoa chiến thắng của nữ sinh Quảng Ngãi đã choàng cho chúng tôi trong dịp Xuân 1966 sau Liên Kết 81, miền Trung đậm đà, miền Nam thương yêu, ở bất cứ chiến trường nào chúng tôi cũng tôn trọng kỷ luật của quân đội và kỷ luật sắt thép của binh chủng là phải tôn trọng dân được dân mến, dân thương thì chiến thắng quân thù chỉ còn là bước chân nhẹ nhàng để đón nhận vinh quang. Tại những vùng tiền tuyến, đi đâu dân cũng mến, dân cũng thương đoàn quân Mũ Đỏ.

Tại chiến trường cam go Quy Nhơn, Bình Định đoàn quân nào ngoại quốc tới đó cũng khựng lại, nhưng đoàn quân Mũ Đỏ dễ dàng lấn chiếm các mật khu mà chúng tự cho là đời đời bền vững. Tại miền Đông chiến khu D, tam giác sắt trở thành những vùng quang đãng, thanh bình sau khi những cánh Thiên Thần lướt qua. Tại miền Tây Cầu Kè đến U Minh, Đông Tháp, nơi nào ngập lụt, nơi nào khó khăn nhất, chúng tôi ít nhất cũng qua đó một lần trong vinh quang.
Vậy mà năm 1975, chúng tôi phải tan hàng, phải tù tội phải chịu đựng mọi sự trả thù thấp hèn, đón mạt dã man mà loài người không tưởng tượng nổi. Chúng tôi không một oán hờn với những người lầm đường lạc lối, nhưng nay đã thức tỉnh. Chúng tôi không một ngạo mạn với những bạn bè cùng chung chí hướng, những ân tình của dân chúng đã vun đắp chúng tôi thành một ý chí sắt đá nguyện đem tấm thân còn lại trở về quê hương.

Xin hãy đừng vơ đũa cả nắm, xin hãy dành một ý niệm tốt cho những thanh niên miền Nam Việt Nam, những người đã dâng hiến cả cuộc đời thanh xuân của mình cho Quốc gia Dân tộc, quyết không bao giờ lừa dối, man trá được. Xin hãy dùng tất cả mánh lới thủ đoạn, dù lớn hay nhỏ, dù hời hợt hay sâu xa cho quân thù. Xin linh hồn bạn bè hãy soi sáng cho đường đi lối về của những người con yêu của đất nước, xin hãy bỏ bớt những trò múa may quay cuồng, để gồm thâu tình nghĩa gần lại với quê hương dân tộc, xin hãy lấy tâm gan cộng tác với nhau, xin đừng gièm pha xấu xa, con đường trở về Thiên nan, vạn nan, đầy dẫy những chướng ngại của quân thù. Xin đừng giúp quân thù cài thêm chướng ngại cho chiến hữu, bạn bè.

*  *  *
Đúng 10 giờ sáng ngày 30 Tháng Tư 1975, tôi nhận được lệnh rút lui, lúc đó đại đội của tôi là tuyến đầu của tiểu đoàn tại vùng ngã tư Quân Vận đến cầu Tham Lương cách hãng dệt Vinatexco 300 mét về hướng Hóc Môn. Cùng lúc đó đứa con đầu đàn của tôi báo cáo đoàn xe địch đang di chuyển vào phòng tuyến xin lệnh tôi. Tôi xin lệnh trên, được lệnh vắn tắt (“Tiêu diệt xong rút về Lăng Cha Cả chờ lệnh kế tiếp. Không thu chiến lợi phẩm, bảo toàn lực lượng”). Tôi cũng xin một nói thêm tiểu đoàn chúng tôi rải quân như sau: Đại đội thứ 4 của tôi từ ngã tư Quân Vận đến cầu Tham Lương, đại đội thứ 3 khu Bình Thới đến ngã ba Bà Quẹo, đại đội thứ 2 từ ngã ba Bà Quẹo đến ngã tư Bảy Hiền, đại đội thứ 1 từ ngã tư Bảy Hiền đến Lăng Cha Cả và Trương Minh Ký.
Tôi cho lệnh chi tiết cho Chuẩn Úy Nhiên, trung đội trưởng Trung Đội 1 của tôi, Nhiên nhanh nhẹn trả lời, “Hiểu và thi hành.”

Đoàn xe địch dẫn đầu bằng 3 chiếc PT 76 thư thả tiến vào Sài Gòn không gặp một sức kháng cự nào, qua ngã tư Quân Vận, qua Khu gia binh của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Tôi đưa ống nhòm theo dõi từng vết xích của chiến xa dẫn đầu đang nghiền nát quê hương tôi. Hai cột khói nâng bổng hai chiến xa dẫn đầu kèm theo tiếng nổ của mìn chống chiến xa, một loạt hỏa tiễn M72 phóng ra, 3 chiến xa dẫn đầu tan nát, kèm theo 10 xe vận tải chở đầy bộ đội Bắc Việt bị lật nghiêng. Đoàn xe sau đụng nhau dồn cục gây thêm một số thương vong cho chúng. Những Cán Ngố chĩa súng bắn loạn xạ, nhưng chúng không thấy chúng tôi. Chúng tôi rút về tới ngã ba Bà Quẹo, một giờ vất vả và vô sự. Đúng lúc đó địch quân cũng đã hoàn hồn và tiếp tục di chuyển, lần này chúng thận trọng di chuyển thật chậm, vừa đi vừa bắn những chỗ chúng khả nghi. Đơn vị chúng tôi tiếp tục di chuyển về ngã tư Bảy Hiền.
Một số phóng viên ngoại quốc bu lấy tôi hỏi đủ chuyện. Lúc đầu tôi trả lời bằng tiếng của họ “Tôi không biết,” nhưng sau đó một phóng viên ngoại quốc hỏi tôi bằng tiếng Việt:
– Anh thuộc đơn vị nào?
– Nhảy Dù
– Tôi muốn hỏi anh thuộc tiểu đoàn nào?
– Anh cứ biết một tiểu đoàn Nhảy Dù đủ rồi.
Thấy tôi không muốn trả lời họ không hỏi nữa. Họ thi nhau chụp hình đơn vị đang rút của tôi rồi bỏ đi về hướng tiền quân.
Nhảy Dù! Không hiểu ai đặt ra cái luật khắt khe, “Không được tự ý trả lời phóng viên dù là tên của mình.” Quý vị thấy những đơn vị bạn có những tên thật đẹp như Cọp Vằn, Hắc Báo, Kình Ngư… Nhưng Nhảy Dù có những tên vô cùng đẹp như: Con Gà tử mị, Sư Tử mắc nước, Con Cù lần, v.v… Còn tên các tiểu đoàn trưởng như: Trưởng ấp, Xã trưởng, Bồi bàn, Cao bồi… Đại Đội Trưởng: T… sốt rét, N. Lai H… ghẻ,… Có một đại đội trưởng may mắn hơn có cái tên đẹp Út Bạch Lan. Thường những tên như vậy cấp dưới biết nhưng không ai dám gọi cả.

Mặc dầu địch quân tiến thật chậm, và thận trọng nhưng chúng tôi nhất định không tha, nếu chúng nắm vững tình hình tiến chậm hai giờ nữa để đơn vị chúng tôi rút lui xong, thì chắc chắn chúng sẽ vào Dinh Độc Lập như vào chỗ không người. Khi tới gần Vinatexco, 2 thiết giáp đi đầu bắn xả vào những “Lô cốt” trong phi trường, nhưng các lô cốt này đã bỏ trống, đơn vị phòng thủ phi trường đã bỏ ngõ từ lúc trưa ngày 29 Tháng Tư 1975. Các loại súng trên thiết giáp thi nhau nhả đạn vào những chỗ chúng nghi ngờ. Chúng đâu có ngờ một pháo đội ngụy trang kín đáo tại vị trí vãng lai của TĐ 1 PB đang sẵn sàng tiêu diệt chúng, 4 viên đạn chống chiến xa ra khỏi nòng súng 105 ly các pháo thủ đầy kinh nghiệm chiến trường rang muối thêm 2 con cua sắt và 2 vận tải. Lần này chúng có kinh nghiệm, chúng không bị dồn cục, nên không bị tổn thất thêm, nhưng đau cho chúng là chúng không biết từ đâu để bắn lại trả thù. Xong nhiệm vụ các pháo thủ Mũ Đỏ cũng rút lui sau khi phá hủy súng.
Đối với chúng tôi, đánh giặc phải tiêu diệt chúng xong, chiếm mục tiêu, thu chiến lợi phẩm thì đơn vị mới có tổn thất, còn diễn trò như hôm nay, gây cho chúng tổn thất rồi mình chạy làng, thì không bao giờ anh em chúng tôi phải hy sinh. Nhưng trò đùa này của chúng tôi cũng làm chúng điên đầu nhức óc, mỗi lần như vậy, chúng lại phải điều quân lại, tổ chức lại đội hình thật lâu chúng mới dám dè dặt tiến quân tiếp. Chúng bắn tứ tung, mất tinh thần thấy rõ, chính vì vậy mà những đơn vị của chúng ta trước đây mỗi khi đi hành quân bảo vệ đồng bào, nếu không cẩn thận dễ bị tổn thất, vì địch không đương đầu chống lại, chúng vừa đánh vừa rút, hoặc phải đương đầu với ta là vì chúng không còn ngõ để chạy nữa. Nhất là những vùng rừng núi rộng rãi chỗ cho chúng chạy thì: Kỹ thuật tác chiến yếu, tinh thần suy sụp là đơn vị hành quân rất dễ bị nướng lắm.

Từ ngã ba Bà Quẹo dân chúng còn lại, hối hả chạy dọc theo đường hướng về phía Sài Gòn, sự sợ hãi, hốt hoảng lộ ra trên nét mặt, không còn một nu ỳcười trên môi các thiếu nữ, không còn tiếng nô đùa trên miệng các em bé vui tươi. Nhìn những khuôn mặt ngây thơ đầy u uất, lòng tôi se lại trong đớn đau nát da, đứt ruột. Đồng bào tôi đây, đang cần sự che chở của quân đội, của chúng tôi, nhưng chúng tôi lại “Khiếp nhược” rút lui! Không thể được, việc trước mắt như cứu lửa, phải bảo vệ đồng bào như một phản ứng tự nhiên. Có bao giờ chúng tôi phải rút lui cay đắng như thế này đâu? Có bao giờ đồng bào nhìn chúng tôi xong lặng lẽ chạy tiếp đâu? Bây giờ giặc đã đến ngõ cụt của thủ đô. Những giọt mồ hôi quái ác làm mắt tôi cay cứng lấy tay áo quệt mồ hôi; mặc dù chưa rõ tình hình chung, nhưng tôi biết đây là trận chiến cuối cùng để dân tộc này, quê hương này sẽ đi vào con đường u tối miên man, không một ánh sáng cuối đường hầm.
Image result for Tháng Tư nhớ lại: Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại Sài Gòn

Chúng tôi cố tình trì hoãn rút lui để đồng bào chúng tôi đi được một khoảng cách xa an toàn, tôi cho lệnh rút lui tiếp tục, đứa con đầu của tôi, trước cổng Hoàng Hoa Thám chậm chạp di chuyển về phía sau đồng bào. Tôi đang từ Trung Đội 4 trước Hội Đồng Xã Tân Sơn Hòa lướt qua Trung Đội 3, những anh em chiến hữu của tôi đã xả thân tại khắp các chiến trường đất nước, từng làm quân thù bạt vía kính hồn từ trận nhỏ đến trận lớn. Tôi nhìn vào tận mắt của từng người như cầu van tha thứ cho tôi, “Vì đã cho lệnh họ rút lui trước quân thù”; nhưng những ánh mắt nhìn tôi như oán hờn, như trách móc. Tôi cúi mặt tránh những ánh mắt thân thương, lầm lũi bước đi trên đường Lê Văn Duyệt quen thuộc, trước cổng trại Thạch Văn Thịnh (TĐII Nhảy Dù) con đường rộng thênh thang, không còn bóng người dân di chuyển, chỉ còn lại chúng tôi và một số phóng viên ngoại quốc. Tới cổng Hoàng Hoa Thám tự nhiên chân tôi chùn lại, tưởng như một khối chì nặng nề níu chân lại.
Đứng lại trong thế nghiêm tự nhiên, cay đắng nhìn cổng trại thân yêu, cách đây 10 năm tôi vui mừng rạng rỡ bước qua để chính thức trở thành một quân nhân Mũ Đỏ, chiếc cổng vô tri này nhưng ma lực của nó đã có sức hút vô cùng mạnh mẽ đối với biết bao thanh niên anh hùng ở lứa tuổi đôi mươi. Hình ảnh chiếc cổng hoang tàn với hàng rào Concertina ngổn ngang như hoang phế lâu ngày, nhìn sâu vào trong trại, tôi thấy thấp thoáng những bạn bè, chiến hữu chúng tôi đang vội vã di chuyển trong đó. Tôi không hiểu tôi đang là một thứ người gì, nhưng tôi đang đứng sững nghiêm chỉnh trước chiếc cổng như đại diện cho đơn vị, đơn vị tôi tôn thờ như thánh thần trong tâm khảm. Những ngày tung hoành ngang dọc nào có mơ ước gì hơn là tiêu diệt kẻ thù để đồng bào được yên ổn làm ăn.

Tôi đưa tay chào chiếc cổng thân yêu, các phóng viên muốn thu hình này nhưng quá muộn, tôi lững thững bước đi như xác không hồn. Nước mắt tôi giàn giụa xen lẫn mồ hôi cay đắng, cơn nấc nghẹn ngào làm tôi nghẹt thở. Giã từ Hoàng Hoa Thám, giã từ đơn vị thân yêu, đơn vị đã được chúng tôi dâng trọn cuộc đời thanh niên cho Hoàng Hoa Thám, dâng trọn cho đoàn quân Mũ Đỏ.
Bây giờ với cái thân tàn tạ, hèn nhát này, dẫn đơn vị rút lui, dù theo lệnh trên, nhưng trước sức tấn công ào ạt của địch quân vào thủ đô. Ôi những chiến tích nức lòng dân như: A Châu, A Lưới, Tân Cảnh, Quảng Ngãi, Chương Thiện, Tây Ninh, Kiến Phong, Bình Long, Kom Tum, Quảng Trị, v.v… có chăng chỉ còn là một cơn gió thoảng qua trong cơn nóng nung lửa của tâm hồn. Sự dằn vặt tột cùng của sự tháo lui. Ôi cấp chỉ huy của tôi ơi! Ôi bạn bè của tôi ơi! Ôi những chiến hữu Mũ Đỏ kiêu hùng của tôi ơi! Chúng ta đã chạy thật hay sao đây? Đồng bào của chúng ta kia! Quê hương của chúng ta đó! Doanh trại của chúng ta đây! Hồn thiêng của bạn bè ẩn hiện đâu đây có ai cảm thông nỗi thống khổ này? Những khuôn mặt của Hiền, Được, Khiêm, Nhượng, Tống, Hùng, Hòa và hàng ngàn các chiến hữu Mũ Đỏ đã ra đi giận dữ nhìn tôi.




Tôi nhắm mắt bước đi theo đoàn quân chậm chạp rút lui như tử tội nặng nề bước chân lên bực thang máy chém.
Tôi cố gắng im lặng để thanh thản bước đi nhưng hình ảnh anh em bạn bè, họ là những Chiến sĩ vô danh cứ soi mói nhìn tôi như oán trách, như căm hờn. Bảy điều tâm niệm khi mới bước chân vào quân ngũ tôi vẫn còn thuộc lòng từng câu từng chữ:
Luôn nêu cao danh dự của quân đội
………
Phải thân dân bảo vệ dân và giúp đỡ dân.
Nhưng giờ đây lúc này không phải một điều nào chúng tôi cũng giữ được, thế hệ sau sẽ nguyền rủa. Chúng tôi không phủ nhận, xin nhận tất cả tội lỗi nhưng phải làm gì khác hơn đây. Từ ngày bước chân vào quân ngũ là đã sẵn sàng chấp nhận tấm poncho gói ghém thân mình, hay vinh hạnh hơn nữa là “lá Quốc kỳ phủ lên thân,” sống chết chẳng qua là cuộc đổi đời, quan niệm như vậy nên sự sống, sự chết đối với những người Mũ Đỏ thật cụ thể và nhiệm vụ quân đội, nhân dân giao phó mới đáng kể, nhưng bây giờ nhiệm vụ của quân đội giao phó là rút lui hay sao đây? Lằn tên nào cản được bước chân chúng tôi, bom đạn nào làm chùn chân chúng tôi, quân thù nào ngang cấp số với đơn vị dám đương đầu. Thân xác chúng tôi ai mà chẳng có vết tích của chiến tranh để lại trên thân thể. Thương xót cho bạn bè, cho đồng bào, cho dân tộc không biết sẽ phải đi về đâu đây?
– Thưa Đích Thân “Ba” vừa đánh cháy thêm hai chiến xa nữa. Tiếng của Hòa người mang máy cho tôi. (Hiện nay Hòa đang ở Úc Châu.)
– Ở đâu? Tôi hỏi vắn tắt.
– Ngã ba Bà Quẹo.
Tôi vừa băng qua Đại Đội 1 của đơn vị, được lệnh trực chỉ theo đường Trương Minh Giảng về hướng Sài Gòn đến ngã ba Trương Tấn Bửu chờ lệnh.
Dọc theo bên đường dân chúng ngơ ngác nhìn chúng tôi, người chạy theo lên hướng Sài Gòn, người ngơ ngác đứng nhìn. Tôi vừa dừng chân tại Trương Tấn Bửu, trước bót cảnh sát.
– “Hai” đánh cháy 1 chiến xa và 3 xe vận tải tại ngã tư Bảy Hiền, “Ba” đã qua Lăng Cha Cả, cùng Bộ Chỉ Huy tiểu đoàn. “Một” còn nằm tại chỗ.
Tôi im lặng nghe Hòa báo cáo.
– Thưa Đích Thân, “Hai” đã qua Lăng Cha Cả.
Cùng lúc đó tôi nhận được lệnh kiếm chỗ trống trải để tập họp cả tiểu đoàn. Trung Đội 4 của Hạnh cho biết có sân trường Đại Học Vạn Hạnh có thể tập họp được. Năm phút sau Hạnh báo cáo có một xe Jeep mang huy hiệu Biệt Động Quân, nhưng do bọn mang băng đỏ bên tay trái lái. Tôi cho lệnh chận xe đó lại khai thác tin tức.
Trung Đội 4 báo cáo xe đó là của một trung tá BĐQ nhà gần đó bị bọn mang băng đỏ (Sau này đồng bào gọi là bọn 30-4 ) cướp sử dụng, trên xe có 6 tên đa số là sinh viên của Đại Học Vạn Hạnh. Chúng sử dụng súng của Nhân Dân Tự Vệ.

Đồng bào thấy chúng tôi mồ hôi nhễ nhãi, người tiếp tế nước đá lạnh, người mang ra bình trà, có người mang cả đồ ăn. Lúc đó mặc dầu khát dữ dội nhưng cầm ly nước lạnh, không sao tôi có thể nuốt trôi được; Tôi đang căm tức bọn băng đỏ, bọn đê tiện phản bội. Ý tưởng thịt bọn chúng lẩn quẩn trong đầu tôi, nhưng tôi nghĩ sau này có thể bị xuyên tạc và dân chúng sẽ hiểu lầm đơn vị, hiểu lầm Binh chủng. Một điều chúng tôi tối kỵ, làm gì cũng được, nhưng nếu danh dự binh chủng bị xúc phạm, dù có chiến thắng hay lợi lộc mấy đi chăng nữa, chúng tôi cũng phải suy xét lại. Tôi nhớ Tết Mậu Thân, đơn vị chúng tôi trên đường về giải cứu cố đô Huế, tiểu đoàn của tôi bị tiểu đoàn VC bố trí trên Cổ Thành Huế chận lại; trong khi chúng tôi ở dưới thấp lại còn vướng một dẫy lạch sâu trồng sen chung quanh Cổ Thành này.
Thành cao không thể leo lên dễ dàng, khó khăn không thể nào vượt qua, nhưng vị chỉ huy của chúng tôi cầm chiếc “nón đỏ” và nói: “Đây là lần đầu tiên nón đỏ này bị ô nhục.” Đơn vị nghe thấy máu nóng bừng bừng ai cũng tưởng như mình thêm cánh, thêm sức. Không đầy 30 phút sau sức lực huyền bí dũng mãnh của tinh thần bảo vệ danh dự đơn vị bùng lên, những thiên thần sát Cộng đã hiên ngang bay qua từng chốt của địch diệt trọn phòng tuyến chính để vào Thành nội Huế. Chính nhờ vậy chúng tôi tiếp cứu được Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I BB trong trại Mang Cá Huế.

Cùng lúc đó Hòa báo cáo “1 vừa đánh cháy một chiến xa tại Lăng Cha Cả và 2 xe vận tải.”
Vào khu Đại Học Vạn Hạnh, tôi cho lệnh đứa con thứ tư của tôi đóng chốt giữ an ninh chung quanh khu đại học và từng đơn vị vào sân Đại Học Vạn Hạnh tập họp chờ lệnh. Tôi thấy bọn băng đỏ lố nhố trong khuôn viên ĐHVH, chúng có vũ khí nhưng không một tên nào dám nhố nhăng, vì sau chúng có anh em của tôi kềm súng sẵn sàng hỏi tội chúng. Ý tưởng phải thanh toán hết bọn này lại hiện ra trong trí. Nhưng vị anh cả của chúng tôi im lặng, lầm lì quan sát, tôi thấy môi anh mím chặt, cặp mắt giận dữ nhìn chúng nhưng chưa một phản ứng, thì một tên mặc áo tu hành Phật Giáo tay cầm loa đưa ngang miệng dõng dạc trong câu nói điên rồ: “Đất nước đã thống nhất, yêu cầu các anh em Nhảy Dù hãy buông súng trở về với cách mạng, cách mạng sẽ khoan hồng cho anh em.”
Phản ứng tự nhiên, tôi rút súng chĩa về phía hắn, hắn thụt lùi vào trong hành lang, và hàng trăm cây súng sẵn sàng nhả đạn. Nhìn lên những anh em trên cao ốc, tôi thấy anh em đều chĩa súng sẵn sàng chờ lệnh. Tôi biết rằng nếu tôi siết cò súng là súng nổ rền trời ngay lập tức, để đưa bọn Cộng con về với thiên đường Cộng sản. Nhưng thấy chúng cụp đuôi khiếp vía chạy trốn tôi cho súng vào bao, thầm nghĩ may mắn cho chúng gặp tôi, chứ gặp đơn vị khác thì hẳn là ĐHVH này chắc chắn phải trở thành ĐH “Bất Hạnh” ngay lập tức…

Anh cả của chúng tôi im lặng, đứng sững như trời trồng, sau đó anh cho lệnh Đại Đội 1 tìm bãi đất trống trải để tập họp tiểu đoàn, và cả đơn vị rút ra khỏi khu ĐHVH. Đơn vị tôi là đơn vị sau cùng ra khỏi khu Vô Hạnh này. Tôi không thể hiểu nổi ngay tại nơi huấn luyện đào tạo ra lớp người Tổ Quốc mong cho mai sau lại có đuôi chồn đỏ như thế này hay sao? Thua địch quân không đau, buông súng không tủi bằng phải thua ngay những người mình hằng quý mến. Người tình lang mất người yêu chắc cũng chỉ đau đớn thấm thía như chúng tôi lúc này.
Quê hương ơi! Tổ quốc ơi! Đồng bào ơi! Lỗi tại ai đây? Tại chúng tôi hèn nhát? Tại chỉ huy tồi? Tại vận nước suy đồi? Hay nó đã ruỗng ra từ bên trong…! Chúng tôi chỉ còn là cái vỏ mỏng bên ngoài làm sao chống đỡ nổi đây? Đại đội tôi đi sau cùng và vừa ra khỏi khu phản bội được 3 trung đội, trung đội sau cùng và tôi rút ra khỏi khu Vô Hạnh mà phải đi giật lùi như trong vùng địch, cẩn tắc biết đâu chúng giở trò cắn trộm. Tâm hồn tôi chùng xuống xen lẫn cơn giận vô bờ. Bọn chồn đỏ lại ló đầu ra, tôi định cho đơn vị khai hỏa, vì cơn giận trong tôi lại bừng lên, nhưng cùng lúc đó danh dự của đơn vị trồi lên lấn át, tôi cho súng vào bao cho lệnh đơn vị tiếp tục rút lui ra vùng tập trung mới.

May cho bọn chúng nếu không nghĩ đến danh dự có thể sẽ bị hiểu lầm, bị nguyền rủa thì chắc chắn chúng phải đền tội. Nếu không thì tôi, phải chính tôi, vì căm hận chắc chắn không thù hằn, nhưng vì uất ức trước sự phản bội phũ phàng, một phút không kềm hãm được sự nóng giận, tôi chỉ cần nhẹ nhàng vẫy tay thôi bọn chúng sẽ phải theo Cáo Hồ của chúng. Ôi danh dự của đơn vị sao cao siêu quá, sao dũng mãnh quá, chế ngự được tất cả. Tôi không hiểu bọn chúng có biết rằng chúng vừa thoát chết hay không? Chúng có hiểu rằng nếu danh dự của đơn vị không chế ngự được chúng tôi thì hậu quả sẽ đến với chúng như thế nào?! Những dòng chữ này chắc chắn sẽ được một hay nhiều tên trong bọn chúng tại chốn Vô Hạnh hôm đó đọc được, để chúng hiểu rằng hôm đó không may súng nổ: Chính là vì chúng đã không khôn ngoan, đã phản bội trắng trợn, đã ngoại tình đê tiện hèn hạ trước mặt người yêu thương quý mến mình.

Bước ra khỏi khu đê hèn, hai trung đội trưởng của tôi có ý trách móc tại sao tôi không giết bọn chúng. Tôi im lặng, tôi muốn anh em giãi bày để vơi đi niềm uẩn ức của những anh em đang bị phản bội trắng trợn đê hèn. Bọn vô lương tâm đó ngày nay không hiểu chúng có còn được như Trịnh Công Sơn hay đang lần mò trong những trại giam cầm cho đáng đời bọn xảo trá gian manh.
Vùng tập họp mới của chúng tôi ngay tại ngã tư Yên Đỗ và Trương Minh Giảng. Chúng tôi vừa vào hàng ngũ, đơn vị nghiêm chỉnh trình diện anh cả của đơn vị.
Huynh trưởng của đơn vị gương mặt thiểu não nói trong nghẹn ngào. Tôi có cảm tưởng như tiếng nói của anh bị đứt đoạn nhiều lần vì tiếng nấc đau thương: “Tôi xin chào tạm biệt các anh em. Xin báo cho các anh em biết chúng ta đã nhận được lệnh buông súng đầu hàng từ cấp chỉ huy tối cao của chúng ta. Cấp chỉ huy trực tiếp của chúng ta hoàn toàn mất liên lạc từ ngày hôm qua. Nhưng chúng ta không thể đầu hàng chúng được, vì danh dự của đơn vị tôi điều động anh em đến đây để bảo với anh em một lệnh cuối cùng: Chúng ta chào tạm biệt nhau tại đây ai về nhà nấy; tất cả quân trang, quân dụng tùy anh em định liệu; quyền chỉ huy của tôi đến đây đã chấm dứt.”

Cả đơn vị im lặng không một tiếng xì xào bàn tán.
Chúng tôi lặng người trong ngỡ ngàng tột độ, những lời lẽ thiếu mạch lạc của vị huynh trưởng phát ra từ xúc động. Tiếng nói của anh chấm dứt sau 5 phút đơn vị vẫn đứng im, từ trên xuống dưới không ai muốn xa nhau, không ai muốn tan hàng. Cái im lặng xa vắng, cái im lặng khủng khiếp. Tôi cũng đã biết giờ phút này phải đến, nhưng không ngờ nó đến trong bẽ bàng thế này! Nhìn hàng quân oai hùng, súng đạn còn đủ dùng, mặt mũi âu sầu. Cặp mắt mọi người đỏ hoe, tất cả đều gục mặt như mặc niệm bạn bè, mặc niệm đơn vị. Cơn đau đớn ê chề xâm chiếm dần dần như làn hơi thổi vào chiếc bong bóng tới độ không chịu được phải phát nổ. Sự phản bội từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài như cơn lốc bạt ngàn tạt vào mặt chúng tôi, cả hàng quân đang im lặng; vị huynh trưởng vẫn còn đứng đó, anh đang cúi mặt chận cơn đau đại nạn.

Tôi biết hàng ngày anh ăn nói rất văn hoa, nhưng hôm nay làm sao lời anh cộc lốc. Anh còn muốn nói nhiều, có lẽ anh còn muốn nói thật to, gào thét thật lớn, để một lần, một lần thôi rồi không bao giờ được tâm sự nữa. Thình lình Trâm một trung đội trưởng của tôi, nước mắt giàn giụa nhảy ra ngoài hàng quân. Trâm dơ cao trái lựu đạn quát to: “Xin các vị huynh trưởng kính mến của tôi hãy ra về. Các anh em của tôi hãy tan hàng, để một mình Trâm ở lại thôi. Tôi đã thề không đội trời chung với bọn vô thần, chúng vào đây thì tôi phải đi.” Trâm vừa nói xong khoảng 10 anh em vừa bước tới chỗ Trâm vừa nói: “Để tụi tao (tụi em) chơi chung với. Chúng ta không đầu hàng và cũng không tan hàng. Nhảy Dù chỉ có tiến không có lùi.”
Hoàng, đại đội trưởng đại đội thứ nhất la lớn:
– Để tao chơi chung với tụi bay.
Vị huynh trưởng cũng chạy lại chỗ Trâm. Tiếng Trâm sang sảng nhưng nghẹn ngào đứt quãng:
– Không được Đích Thân còn nhiều việc phải lo, còn nhiều việc phải làm, nhất là gia đình của Đích Thân.
– Ai cũng có gia đình tao chỉ biết có Gia Đình Mũ Đỏ, Gia Đình của Mũ Đỏ là gia đình của chính tao.
Một số anh em khác từ từ rời bỏ hàng ngũ, súng đạn, quân phục vứt ngổn ngang. Nhất là những anh em lớn tuổi, từ từ rời bỏ bãi tập họp mỗi người một phương, tôi không biết họ có mang theo vũ khí hay không, hay bỏ lại những gì? Còn lại từng tốp một ôm nhau nói chuyện. Tôi không biết họ đang nói gì nhưng nhìn khuôn mặt ai ai cũng chứa đựng đầy uất hận hiện rõ ràng trên khóe mắt đỏ ngầu rực lửa. Trên bãi súng đạn, ba lô, nón sắt nằm ngổn ngang và trải dọc theo bốn hướng ngã tư. Con phố hiền hòa của Đô Thành nay lại chứng kiến cảnh tan hàng của một đơn vị. Tôi chắc rằng đây là một đơn vị lớn nhất và là đơn vị sau cùng của Biệt Khu Thủ Đô giã từ vũ khí, đi theo mệnh lệnh của dân tộc. Đơn vị đã tan hàng có trật tự và kỷ luật của đơn vị thực sự bãi bỏ sau tiếng nói nghẹn ngào của một huynh trưởng đơn vị. Tôi quyết định phải khuyên Trâm và anh em chúng tôi đang bu lại quanh Trâm. Tôi linh cảm thấy, chậm trễ sẽ xảy ra hậu quả không lường được. Tôi chen vào đám đông và la lớn:
– Chúng ta đàng nào cũng chết, nhưng phải chết cho xứng đáng mới được. Chúng ta hãy liên lạc với nhau trở về Long Khánh.. Lâm Đồng rồi cùng chiến đấu. Trâm đưa trái lựu đạn cho anh.

Trâm đưa trái lựu đạn cho tôi sau một hồi giằng co. Chúng tôi cùng thỏa thuận hãy tan hàng rồi kiếm kế sau. Bất chợt hai tiếng lựu đạn nổ chát chúa ở gần bức tường cuối bãi. Chúng tôi chạy vội lại quan sát. Tổng cộng 11 anh em đã ôm nhau từ giã, mắt người nào cũng mở như gửi lại những thông điệp bất khuất, không đội trời chung với Cộng Sản. Trong số 11 anh em cấp bậc lớn nhất là thiếu úy trung đội trưởng, người cấp bậc nhỏ nhất là binh nhì khinh binh. Không có thì giờ cùng địa điểm để chôn cất họ, chúng tôi chỉ còn biết sắp xếp họ nằm ngay ngắn, cùng nhau nghiêm chỉnh chào họ. Anh em đã tự chọn con đường vinh quang cho mình, tôi thầm khấn nguyện trước mặt anh em: “Chúng tôi cần phải sống, vì chắc chắn chúng tôi vẫn còn phải tranh đấu với bọn quỷ hại nước hại dân.”
Sau này tôi được tin Trâm về Bảo Lộc hoạt động nhưng bị nội phản, bị xử tử tại đó. Hoàng về Xuân Lộc hoạt động cũng bị tử thương, còn tôi lưu lạc khắp nơi, nhất quyết không trình diện bọn chúng, tôi vượt biên bằng đường bộ qua Khe Sanh, Lao Bảo, Hạ Lào. Hỡi các bạn trong Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam; Thưa các bạn quân nhân QLVNCH; Bạn bè chúng ta đã chết, một số đang bị đầy đọa cực hình, Quê hương chúng ta còn trong tay bọn quỷ đỏ. Xin các bạn đừng vì xe hơi, nhà cao cửa rộng, ham chơi phù phiếm, mà quên đi những người thân yêu, những vong hồn bạn bè đã khuất, những cô nhi tử sĩ đang đón chờ từng giờ từng phút, mong mỏi bước chân nhịp nhàng của quý bạn tiến về quê hương. Hỡi các bạn thanh niên, lịch sử 4,000 năm văn hiến không lúc nào, không thời đại nào dân tộc chúng ta khiếp vía trước móng vuốt tàn ác của quân thù, không khi nào thanh niên Việt Nam lại đê hèn, quên đi gông cùm đỏ dã man đang siết chặt dân tộc ta. Xin hãy cùng nhau bước lên tiến tới và đừng bao giờ quên bọn quỷ đỏ đang lẩn khuất đâu đây đang ra sức ngăn cản bước chân oanh liệt của chúng ta.
Nghiêm ơi, Trâm ơi, Hoàng ơi, linh hồn các bạn có linh thiêng hãy soi sáng bước chân chúng tôi, máu của các bạn đã chảy, thân xác của các bạn đã nằm xuống, nhưng tấm gương can đảm của các bạn sẽ còn mãi mãi. Trận chiến vừa qua chúng ta tạm lùi, tạm thua giặc. Nhưng chúng ta không đầu hàng giặc, đơn vị chúng ta không buông súng để qui hàng giặc.Tinh thần chúng ta còn đó, chúng ta bỏ nước ra đi bằng áp lực của ma quỷ. Xin hãy hứa cùng nhau “Chúng Ta Sẽ Trở Về.”

Phạm Chi Lan (viết theo Hùng)

30/4/1975: CÁC ĐƠN VỊ QLVNCH TỬ CHIẾN TẠI THỦ ĐÔ SÀI GÒN

Image result for Tháng Tư nhớ lại: Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại Sài Gòn
__._,_.___

Posted by: Batkhuat nguyen 

30/4/1975: CÁC ĐƠN VỊ QLVNCH TỬ CHIẾN TẠI THỦ ĐÔ SÀI GÒN

$
0
0

30/4/1975: CÁC ĐƠN VỊ QLVNCH TỬ CHIẾN TẠI THỦ ĐÔ SÀI GÒN


Vương Hồng Anh
 * Hơn 1 ngàn Cộng quân tử trận, 32 chiến xa CSBV bị bắn cháy trong trận chiến sáng ngày 30-4-1975 tại phòng tuyến Sài Gòn.
Vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975, trong khi những người lãnh đạo tối cao của quốc gia và quân đội tìm mọi cách để ra đi, thì tại mặt trận vòng đai Sài Gòn và ngay trong Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, người lính Quân lực VNCH từ anh binh nhì cho đến các trung đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng… thuộc các binh đoàn bộ chiến, vẫn giữ vững tay súng tử chiến với Cộng quân đến phút cuối cùng.
https://c2.staticflickr.com/8/7540/15655554574_653311a422_b.jpg
Từ 0 giờ sáng đến 10 giờ ngày 30/4/1975, trên các cửa ngõ vào thủ đô Sài Gòn, những người lính Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt kích Nhảy Dù, Biệt động quân, Thiết giáp, Thủy quân Lục chiến… đã đánh trận cuối cùng trong đời lính của họ: 32 chiến xa và gần 30 quân xa Cộng quân bị bắn cháy, hơn 1,000 Cộng quân tan xác… Đó là chiến tích của người lính VNCH tại mặt trận Thủ Đô Sài Gòn trong buổi sáng cuối cùng của cuộc chiến, trước khi ông Dương Văn Minh ra lệnh Quân lực VNCH buông súng vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 30/4/1975. Trong những giờ phút cuối cùng này, tại Sài Gòn, trái tim của Việt Nam Cộng Hòa, có rất nhiều sự kiện diễn ra dồn dập, những trận đánh hào hùng và bi tráng của một số đơn vị Nhảy Dù, Biệt Cách Nhảy Dù… trước giờ G.
* Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH, những giờ cuối cùng:
Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã ra đi. Đại tướng Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với Chuẩn tướng Thọ (trưởng
phòng 3); Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận ra đi vào lúc 11 giờ 30 ngày 29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệtkhu Thủ đô cũng đã “chia tay” với các cộng sự viên của mình từ sáng ngày 29/4/1975. Để có tướng lãnh chỉ huy Quân đội, tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một số tướng lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn tướng, đã về hưu từ tháng4/1974, làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng Lê Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2,làm Tư lệnh phó phụ giúp Tướng Phát; Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng cụctrưởng Tiếp vận.
Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu tập một cuộc họp với các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở lại Sài Gòn tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu “mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc vớitất cả trách nhiệm”.

* Trận chiến tại các cửa ngõ vào Sài Gòn:
Tại phòng tuyến Củ Chi, tối 29/4/1975, toàn bộ quân trú phòng và bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh mở đường máu về Hóc Môn. Riêng Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư đoàn và một Thượng sĩ cận vệ tên Ngọc đã phải thay nhau làm khinh binh với chiến thuật cá nhân để thoát khỏi vòng vây của Cộng quân. Cuối cùng vị tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh bị lọt vào tay địch khi ông và người cận về gần đến Hóc Môn.
Tại mặt Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28/4/1975, bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô không còn quân trừ bị để giải tỏa áp lực của Cộng quân. Một liên đoàn Biệt động quân đang hành quân dọc theo quốc lộ 4 phía nam Bến Tranh đã được điều động về quận lỵ Cần Đước theo liên tỉnh lộ 5A vào buổi trưa và đặt dưới quyền điều động của bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của Cộng quân tại cầu Nhị Thiên Đường (khu vực này bị Cộng quân chiếm từ rạng sáng ngày 29/4/1975).
Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi thì kho đạn Thành Tuy Hạ lại bị pháo kích nặng nề nên phát nổ nhiều nơi. Hệ thống truyền tin liên lạc với bộ chỉ huy Kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ chiều. Xe tăng Cộng quân xuất hiện tại Cát Lái và bắn vào cầu tàu chất đạn chưa được bốc dỡ.
Tại cụm phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lươn Bà Quẹo; Bình Thới-Ngã ba Bà Quẹo; Bảy Hiền-Lăng Cha Cả, đơn vị Nhảy Dù phòng ngự tại đây đã nỗ lực ngăn chận Cộng quân. Những người lính Dù không hề nao núng, bình tĩnh chuẩn bị cho trận đánh giờ thứ 25.
Tại vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu, một chiến đoàn thuộc Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù do thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân chận địch, từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa Cộng quân và nỗ lực đánh bật địch ra khỏi trận địa.
* Những trận đánh trước giờ G…
Từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa, các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân… đều đặt trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân. Tại bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan sát tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi máy liên lạc với Chuẩn tướng Tần, sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó. Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn.
Chien xa M41 va M113 thuoc Lu doan 3 ky binh di chuyen tren xa lo Bien Hoa
Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi bộ Tổng tham mưu, thì vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn Biệt Cách Dù đang tung các đợt phản công để đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu. Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Dù đã lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng, đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng lãnh và các đại tá đã họp với Thiếu tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn ai.
Chien si QLVNCH vung tay sung bao ve thu do Saigon sang ngay 30 thang 4 nam 1975
Trước tình hình đó, Thiếu tá Tài đã bốc điện thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi Thiếu tá Tài là ai” Vị chiến đoàn trưởng đã trả lời: “Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống”. Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy: “Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện gì đó”” Thiếu tá Tài trình bày: “Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội để xin quyết định.” Tướng Minh trả lời: “Các em chuẩn bị bàn giao đi!”. Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại: “Bàn giao là như thế nào thưa Đại tướng, có phải là đầu hàng không””, Tướng Minh đáp: Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập. Nghe tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay: “Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống”. Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp: “Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở bộ Tổng tham mưu.” Tướng Minh trả lời: “Tùy các anh em”.
Theo lời Thiếu tá Tài, sau này, khi bị CQ giam trong trại tù, ông đã găp trung tá Võ Ngọc Lan, Liên đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng thống Phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài: “Lúc đó, moa đứng cạnh ông tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống.”Thiếu tá Tài giải thích: “Tổng thống là vị lãnh đạo tối cao của Quân lực, phải cứu ông ra để có người chỉ huy Quân đội.”


Hệ thống “Siêu kiểm duyệt” và bản dịch “The Spy Who Loved Us.”

$
0
0
 
Hệ thống “Siêu kiểm duyệt” và bản dịch “The Spy Who Loved Us.”

Nguyễn Mạnh Trinh

 
Có rất nhiều tác phẩm viết về cuộc đời điệp báo của Phạm Xuân Ẩn. Như “Phạm Xuân Ẩn: Tên Người Như Cuộc Ðời” của Nguyễn Thị Ngọc Hải. Như loạt bài tiểu sử và cuộc đời Phạm Xuân Ẩn đăng 53 kỳ trên báo Thanh Niên. Như “Người Im Lặng” của Chu Lai, cây bút của Tổng Cục II tình báo – Việt ngữ. Như “Un Vietnamien Bien Tranquille” của Claude Pomonti, phóng viên báo Le Monde – Pháp ngữ. Như “The Perfect Spy” của Larry Berman. Như “The Spy Who Loved Us” của Thomas Bass. Anh ngữ.
Chủ trương của chế độ Cộng sản là muốn qua cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn để đánh bóng một con người yêu nước và nhân đó biểu dương tính lý tưởng của chủ nghĩa Cộng sản. Sự thực đã được cắt xén, với những sự kiện giả để phục vụ cho chủ trương ấy. Sách Việt ngữ và các tác giả bị xiềng xích trong suy nghĩ và hướng dẫn trong phong cách viết nên chỉ là những văn nô thi hành công việc chữ nghĩa của mình nên không có điều gì đặc biệt. Nếu so sánh một cách tệ hại thì cuộc đời ấy chẳng khác gì tiểu sử của anh hùng Lê Văn Tám, không có thực ở trên cuộc sống này nhưng lại được “vẽ vời” y như thực.
Còn với các tác giả ngoại quốc, thì dư âm của phong trào phản chiến khiến con người Phạm Xuân Ẩn được nhìn ngắm với nhiều nét khá lý tưởng. Larry Berman thì nhìn Ẩn như một người phân đôi giữa lòng trung thành và cá tính của một người làm tình báo tứ trùng: Phòng Nhì Pháp, CIA Mỹ, CIO Việt Nam Cộng Hòa và gián điệp của Cộng Sản Bắc Việt. Larry Berman hình như chỉ cố tình viết một cuốn tiểu sử đi gần với chủ trương của Cộng sản Bắc Việt nên ít phô bầy được những điểm gút mắc cũng như nhạy cảm với chế độ đang cầm quyền. Do đó, sách Anh ngữ được phổ biến và một năm sau khi phát hành được dịch sang Việt ngữ.
Nhưng đến Thomas Bass và “The Spy Who Loved Us” thì khác hơn. Mặc dù ông là một nhà khoa bảng phản chiến, cha là một dân cử liên bang đã chủ trương chống chiến tranh Việt Nam, nhưng qua những lần được trò chuyện và tiếp xúc đã nêu ra nhiều điểm đi ngược lại chủ trương đánh bóng Phạm Ngọc Ẩn qua sự tìm kiếm sự thật từ những câu hỏi nhiều nhạy cảm cũng như những ý nghĩ khá tiêu cực về chế độ Việt Nam hiện hữu. Do đó, sau nhiều năm, bản dịch tác phẩm này bằng Việt ngữ “Ðiệp viên Z21, Kẻ Thù Tuyệt Vời của nước Mỹ” dịch giả Ðỗ Tuấn Kiệt mới được xuất bản. Và sự hoàn tất bản dịch này là một chuỗi nỗ lực của tác giả Thomas Bass để tranh đấu với hệ thống siêu kiểm duyệt trong nước. Không bao giờ ở Việt Nam hiện nay các bản dịch chuyên chở được đúng đắn tinh thần của nguyên tác. Sẽ có “biên tập” nghĩa là cắt xén, sửa ý, thêm lời. Bản dịch có khi là một khoảng dài khác biệt so với nguyên bản. Nhiều tác giả danh tiếng muốn có bản dịch Việt ngữ cho tác phẩm của mình đã phải chịu nhượng bộ để “biên tập” lại theo đúng chủ trương chỉ đạo văn học của chế độ như Milan Kundura, một nhà văn phản kháng chống lại chế độ độc tài toàn trị theo lời kể của Thomas Bass.
Nhà văn Phạm Thị Hoài, chủ trương blog “Pro& Contra”, đã viết: “Cuốn Sách về một điệp viên không hoàn hảo” với ý nghĩ: “Khi nghe Thomas Bass, một tác giả và giáo sư văn chương ở New York, kể rằng cuốn sách của ông về Phạm Xuân Ẩn đang được dịch để xuất bản tại Việt Nam, thú thật tôi đã không chú ý lắm. Lại một cuốn nữa ư? Trong khoảng mười năm gần đây, sách báo, tài liệu, phim ảnh về nhà tình báo tài ba của Việt Nam, một “điệp viên hoàn hảo” như nhan đề một cuốn sách cũng của một giáo sư Mỹ, liên tục ra đời và chỉ khác nhau ở chỗ ngày càng rầm rộ hơn, hoành tráng hơn và thậm chí cũng giật gân hơn, có lẽ để làm ông còn hoàn hảo hơn. Song ở đất nước lạm phát cả kẻ thù lẫn anh hùng này, cách chắc chắn nhất để triệt hạ sức hấp dẫn của một nhân vật là bắc loa phóng thanh ca ngợi người đó từ sáng đến tối. Nếu cứ tiếp tục như thế, một lúc nào đó tác phẩm duy nhất còn thiếu về Phạm Xuân Ẩn sẽ là cuốn Giết một anh hùng như thế nào.”
Phạm Thị Hoài là người chịu nhiều rắc rối với hệ thống siêu kiểm duyệt trong nước nên đã viết một cách thật rõ ràng như một chứng nhân về những hiện tượng mà càng ngày càng xảy ra tái diễn một cách “tự nhiên” như một đặc tính cố hữu mà mọi người sống ở trong nước phải hiểu rõ.
“Khi được nghe kể là cuốn sách của Thomas Bass gặp rắc rối với kiểm duyệt, tôi thầm nghĩ một học giả phương Tây định in sách ở Việt Nam, dù chỉ viết, chẳng hạn, về trang phục trên đầu người Việt, khăn lá, mũ, nón cũng phải chuẩn bị tinh thần chơi mèo vờn chuột với kiểm duyệt. Chuyện đó ông phải hiểu. Mà trái khoáy nhất là trí thức phương Tây càng thiên tả, thậm chí thân Cộng hay Cộng sản nòi, càng bị xét nét. Chắc ông cũng biết chuyện những trí thức Pháp và Ðức từng đi theo Việt Minh đều lần lượt nếm mùi nghi kỵ của Việt Minh, đến tờ tạp chí văn hóa của Ðảng Cộng Sản Pháp Les Lettres Francaise một thời còn bị ngờ là “thế lực phản động” có lẽ lỗi của nó là hay hơn mức các cán bộ văn hóa Việt Nam cho phép. Tôi rất hay tự hỏi, điều gì sẽ còn lại dai dẳng nhất, sau khi tất cả những giáo điều cộng sản, những u mê, ấu trĩ và cuồng tín, những thói quen, nếp hằn và thông lệ khủng khiếp của chế độ ấy qua đi. Có lẽ là sự nghi kỵ, ngờ vực đó. Chúng ta chỉ còn cách kiên nhẫn. Tôi rộng rãi cho nó một lịch trình ít nhất là một nửa thế kỷ”
Không biết những tên trí thức “đón gió phất cờ” ở hải ngoại như Ðặng Tiến, như Nguyễn Ngọc Giao… mỗi khi ca tụng hệ thống kiểm duyệt trong nước như đã khen việc “biên tập” cuốn sách của Nguyễn Ðức Tùng, có thấysự hèn hạ của mình khi đọc những lời viết của Phạm Thị Hoài không? Hay là đợi thêm nửa thế kỷ nữa mới biết hối hận và xin lỗi.
Phạm Thị Hoài viết: “Thomas Bass nhìn thấy cái kéo kiểm duyệt là ông đã rên rỉ. Tiếng la của ông khiến tôi tò mò và bắt đầu đọc. The Spy Who Loved Us. The Vietnam War and Pham Xuan An’s Dangerous Game quả nhiên là một cuốn sách khác về Phạm Xuân Ẩn. Với thiện cảm dành cho cuộc chiến đấu giành độc lập của người Việt và sự ngưỡng mộ không che dấu cho nhà tình báo vĩ đại (đây chỉ là ý kiến riêng của P T Hoài). Thomas Bass quan tâm đến con người Phạm Xuân Ẩn đằng sau anh hùng Phạm Xuân Ẩn, đến những bí ẩn của một nhân cách đa diện đằng sau những bí mật của một cuộc đời hai mặt, đến những xung đột nghiêm trọng đằng sau trò chơi hai mang, đến những hoàn cảnh và số phận người Việt đằng sau các bản tin thời sự, đến những câu hỏi ám ảnh thời hậu chiến ngay đằng sau những sự kiện còn nóng hổi của Chiến Tranh Việt Nam, đến điều chưa và không thể nói ra đằng sau những phát ngôn chính thức. Ðến sự thật khó khăn đằng sau những lớp hỏa mù dầy dặc. Ông vẽ chân dung của một điệp viên không hoàn hảo trong một thời đại đầy lỗi lầm. Ðôi khi tôi có cảm giác, tác giả không mong gì hơn là Phạm Xuân Ẩn chỉ là một nhân vật tiểu thuyết và Chiến tranh Việt Nam chỉ là một hư cấu. Nhưng cả hai đều thuộc chắc nịch vào hiện thực, một hiện thực kéo dài mà đến lượt mình, tác giả của cuốn sách cũng bị cuốn vào…”
Sau khi bản dịch được in ở Việt Nam, Thomas Bass đã có một thái độ bất bình vì hệ thống kiểm duyệt ở trong nước. Bản dịch đã không phản ánh được nguyên tác và một đôi khi đã phản nghĩa lại những điều mà bản Anh ngữ muốn diễn tả. Thomas Bass viết: “Ðó là những ngày đen tối ở Việt Nam khi tòa án sẵn sàng kết những án tù nhiều năm cho nhà văn, nhà báo, blogger và bất cứ ai dám chỉ trích giới lãnh đạo. Ðã qua lâu rồi sự thăng hoa ngắn ngủi của văn chương Việt Nam sau khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, đó là thời kỳ dược biết đến với cái tên đổi mới. Sau hai mươi năm, bằng bút đỏ và nhà tù, các nhà kiểm duyệt đã dọn sạch một thế hệ cầm bút Việt Nam đẩy tất cả thành, hoặc câm lặng hoặc lưu vong.
Bản thân tôi cũng phải trải qua năm năm vật lộn với các nhà kiểm duyệt của Việt Nam. Họ cần mẫn cắt bỏ, viết lại rồi ngăn chặn không cho xuất bản một bản dịch tiếng Việt một cuốn sách của tôi. Ðó là cuốn The Spy Who Loved Us (2009).
Dựa theo một bài viết trên tạp chí New York Times năm 2005 tôi viết cuốn đó để kể về Phạm Xuân Ẩn, một nhà báo miền Nam Việt Nam, người có một sự nghiệp tình báo hết sức hiệu quả và lâu dài cho những người Cộng sản Bắc Việt, suốt từ thập niên 1940 cho tới lúc ông qua đời năm 2006- sự nghiệp đó đã làm ông Ẩn trở thành một trong những điệp viên lớn nhất trong thế kỷ XX. Ðược đào tạo nghề phóng viên tại Hoa Kỳ, ông Ẩn bắt đầu hoạt động điệp báo dưới cái vỏ nhà báo. Ông làm phóng viên cho tạp chí Times suốt thời kỳ chiến tranh Việt Nam và có một giai đoạn ngắn đảm nhiệm chức vụ trưởng văn phòng của Times tại Sài Gòn. Với nhiệm vụ lập bản đồ chiến trường, nắm vững các di chuyển của quân đội và đánh giá phân tích các thông tin chính trị, quân sự, nhà báo Ẩn đã tiết lộ các thông tin vô giá cho phía Quân đội Bắc Việt…”
Nhận diện con người và cuộc đời Phạm Xuân Ẩn đã có nhiều cuốn sách mà theo Thomas Bass thì có tới 6 cuốn mà trong đó ông đề cập tới cuốn The Perfect Spy của Larry Berman cuất bản năm 2007. Cuốn sách phác họa một con người yêu nước, một chuyên gia phân tích chiến lược giàu kinh nghiệm do đó đã quan sát cuộc chiến Việt Nam với con mắt bao trùm rất rộng và từ những khía cạnh tỉ mỉ nhưng xác thực. Những nhận xét của Larry Berman về cuộc đời tình báo đã chấm dứt từ khi Phạm Xuân Ẩn về hưu. Sau cuộc chiến, những người Cộng sản đánh bóng ông Ẩn, phong cấp Tướng và danh hiệu Anh Hùng quân đội và đương nhiên trở thành một đề tài cho giới viết tiểu sử khai thác.
Theo Thomas Bass, phác họa con người và cuộc đời Phạm Xuân Ẩn trong The Spy Who Loved Us có phức tạp hơn và cũng gây ra nhiều phiền toái cho ông. Ông viết:
“Tôi đã kết luận rằng ông nhà báo có khiếu nói tuyệt đỉnh này đã tạo ra một vỏ bọc thứ hai cho hoạt động tình báo của ông ấy. Tự cho mình là một người bạn của phương tây, một người trung thực chưa bao giờ nói dối một câu (dù cả cuộc đời của ông Ẩn phải sống bằng thủ đoạn) mà ông ta lại làm việc cho cơ quan tình báo quân sự không những chỉ trong thời gian chiến tranh mà còn kéo dài thêm 30 năm sau chiến tranh. Nhưng giới lãnh đạo đầy quyền lực ở Bắc Việt Hà Nội không tin tưởng về cá nhân ông Ẩn, một người miền Nam có bộ óc trứ tuyệt, đã từng có những lời chỉ trích tham nhũng và chê bai sự bất lực vô tài của chính quyền Cộng sản Việt Nam. Con đường thăng tiến trong quân đội Cộng sản của Ẩn bị chậm chạp đầy tị hiềm và phải sống nhiều năm trong sự theo dõi và giám sát của công an. Có thể lúc ban đầu, chính quyền Việt Nam cũng muốn có nhiều người Mỹ viết về “người điệp viên hoàn hảo” của họ. Mà cuốn sách của tôi là cuốn thứ hai nhưng gây ra sự thất vọng cho ý tưởng đánh bóng ông Ẩn lúc đầu tiên. Nhưng đọc sách của tôi, họ thấy có quá nhiều điều bất lợi nên đâm hoảng và chỉ thị cho các nhà kiểm duyệt phải cắt thêm nữa, chặt thêm nữa, và viết lại cho đúng yêu cầu của họ trước khi xuất bản bản dịch…”
Có nhiều nhà xuất bản muốn in bản dịch sách của tôi như nhà xuất bản Công An Nhân Dân của Bộ Công An và nhà xuất bản của Bộ Văn Hóa, hay sở Thể Thao và Du Lịch, nhưng tôi(Thomas Bass) từ chối. Sau cùng, năm 2009, Thomas Bass ký hợp đồng in bản dịch The Spy Who Loved Us vói nhà xuất bản Nhã Nam một nhà xuất bản dám in nhiều cuốn sách nhậy cảm và đôi khi một số sách của Nhã Nam bị thu hồi hay tiêu hủy.
Người dịch giả đầu tiên là ông Nguyễn Việt Long của công ty Nhã Nam phụ trách công việc biên tập. Thomas Bass trong bài “Rừng Sát: hiện tượng kiểm duyệt tại Việt Nam” viết:
“Và ông Long bắt đầu bằng việc hỏi tôi có biết không những cái dấu chính xác trong tên của người ông của Phạm Xuân Ẩn không. Những dấu đó trong tiếng Anh không có nhưng quan trọng trong tiếng Việt. Tôi cảm kích về sự chú ý tới từng chi tiết như thế của ông Long. Nhưng đáng tiếc phần còn lại của e-mail lại có giọng văn dạy bảo nặng hơn.. “Ông đã phạm một số sai lầm”, ông Long viết như thế trước khi đưa ra chỉnh sửa cho một loạt vấn đề. Nhưng rất nhiều những lỗi đó lại không thực sự là lỗi mà chỉ thuộc vấn đề diễn giải, nhận xét hoặc là các vấn đề còn đang tranh cãi về tư liệu lịch sử, Những cái đó đại loại cũng tương tự như một cuộc “bình luận bóng chày chuyên sâu” với những chi tiết nhỏ nhặt rối mù nhưng rất tốt để làm các học giả phải quay cuồng quanh các chi tiết mà quên đi vấn đề chính.”
Sau đó ông Long lại gửi e-mail xác tín “sẽ chắc chắn có kiểm duyệt, cuốn sách nhạy cảm Nhưng xin đừng lo. Chúng tôi sẽ tiếp tục trao đổi với tác giả và sẽ cố hết sức để bảo vệ nhiều nhất có thể cho sự toàn vẹn của cuốn sách”, ông Long lúc đó đang cố tâm để cuốn sách được ra đời vào dịp 30 tháng Tư, ngày chấm dứt chiến tranh Việt Nam, thời điểm thuận lợi cho cuốn sách. Nhưng sau khi đại diện của tôi nhắc ông Long phải tuân thủ hợp đồng để cho tôi xem bản dịch trước khi ấn hành thì ông Long lỡ hẹn, và rồi cứ lỡ hẹn nhiều lần việc trao bản dịch cho tôi xem, mãi đến sáu tháng sau tôi mới nhận được một bản dịch nháp. Ðiều đầu tiên tôi thấy lạ là có nhiều chú thích ở những chỗ mà bản gốc không có. Tôi đã tập họp được một số bạn bè để giúp tôi sửa lại bản dịch, đó là những người làm nghiên cứu, dịch thuật và cả một cựu nhân viên CIA, một cựu nhân viên ngoại giao có vợ người Việt. Sau khi xem họ đã cho tôi những tin tức không được khả quan lắm. Nhiều chú thích được bắt đầu bằng câu “tác giả đã lầm” và tiếp đó là những diễn giải, chỉnh sửa các “sai lầm” của tôi.
Ðúng là tôi đã hiểu lầm chức năng của các biên tập viên Việt Nam. Thậm chí trước khi phải gặp những nhà kiểm duyệt đích thực – những tay kiểm soát việc cấp giấy phép xuất bản ở Việt Nam – cuốn sách của tôi đã phải để cho người trong nhà xoa nắn trước rồi.. Ông Long là người ra tay đầu tiên, ông cắt xén càng nhiều hiệu suất thì càng được giới chức nhà nước hoan nghênh. Dĩ nhiên khi cần, chính giới chức nhà nước sẽ tự ra tay cắt bỏ thêm”.
Thomas Bass yêu cầu ông Long bỏ đi những “chú thích” ấy đi. Nhưng ông ta bị kẹt giữa hai tình thế, một sức ép của những giới chức kiểm duyệt đầy yêu sách và một sự cương quyết của tác giả. Thomas Bass và ông Long đã tranh luận về những vấn đề khá tinh tế của lịch sử và địa lý Việt Nam. Mà vấn đề đầu tiên là đối tượng chú thích về Rừng Sát- khu rừng của những sát thủ. Trong nguyên bản là Rừng Sát, khu rừng của những sát thủ là vùng hoạt động của các nhóm đạo tặc như Bình Xuyên của Bảy Viễn và sau này là sào huyệt của du kích Cộng sản. Với vị trí ở gần Sài Gòn, và là một địa danh nổi tiếng trong chiến tranh Việt Nam nên Thomas Bass đã thu thập khá nhiều tư liệu về lịch sử và quân sự để xác định vị trí của nó. Nhưng, những người biên tập đã phê trong bản dịch là tác giả The Spy Who Loved Usđã “lầm “và họ diễn giải là phải dùng chữ “Rừng Sác” mới dúng. Thomas Bass đã cho rằng như vậy đã biến “Khu rừng của những sát thủ (swamp of the assassins)” thành “Khu rừng của những bụi cây ở ven biển (Forest of seacoast shrubs)”. Forest là rừng nhưng swamp là rừng đầm lầy đúng nghĩa hơn.. Biên tập thì trả lời chính quyền mới đã đặt tên địa lý là Rừng Sác thì phải xử dụng danh từ này mới đúng. Thực ra, cách phát âm của người miền Nam thường hay lận lộn giữa “Sát” và “sác”. Nhưng, qua ý định của người biên tập thì không muốn đánh đồng giữa quân Bình Xuyên và các du kích Cộng sản qua địa danh Rừng Sát. Ðó là một điểm nhạy cảm khiến kiểm duyệt càng xét nét gắt gao hơn.
Thomas Bass còn kể lại cuộc tranh luận về nhan đề sách. Theo ông dịch The Spy Who Loved Us thành “Ðiệp Viên Yêu Nước Mỹ” hay “Kẻ Thù Tuyệt Vời Nhất của Mỹ” nhưng bị bác bỏ. Biên tập thì diễn giải “Kẻ thù tuyệt vời nhất của Mỹ” tốt đấy nhưng hơi nhạy cảm. Tại sao lại là kẻ thù tuyệt với nhất? Phải chăng muốn ám chỉ Phạm Xuân Ẩn không trung thành hoàn toàn với sự nghiệp cách mạng sao? Và rồi cả nhan đề “Ðiệp viên yêu nước Mỹ” cũng bị kiểm duyệt gạch bỏ.
Qua bản dịch nháp, Thomas Bass nhờ những thân hữu thông thạo Việt ngữ đọc và thẩm tra các đoạn, các câu chữ bị xóa bỏ cắt xén so với bản gốc. Và kết quả là một danh sách rất dài những chi tiết này. Thomas Bass gửi danh sách cho ông biên tập viên này và được hồi âm: “Tôi đảm bảo với ông là người dịch không bỏ sót một câu một đoạn nào cả. Ông ấy chỉ lưu ý những câu nhạy cảm thôi”.
Sau một thời gian chờ đợi qua hết những thời điểm nhạy cảm như Ðại Hội Ðảng hoặc các diễn biến chính trị, cuốn sách vẫn chưa ngã ngũ xong vấn đề Kiểm duyệt. Theo ông Long kể với tác giả Thomas Bass, thì về mặt chinh thức thì chỉ các nhà xuất bản thuộc nhà nước mới được làm sách in. Vì vậy một công ty sở hữu tư nhân như Nhã Nam buộc phải tham gia vào họat động gọi là liên kết xuất bản để làm sách dưới sự bảo trợ của một nhà xuất bản nhà nước. Về mặt luật pháp Việt Nam không có kiểm duyệt nhưng các giám đốc, các tổng biện tập các nhà xuất bản đôi khi được yêu cầu phải loại những chỗ nhạy cảm hoặc thậm chí họ rụt rè đến mức không dám xuất bản như cuốn sách này. Hành động ấy chúng tôi gọi là tự kiểm duyệt và đây chính là nút thắt rắc rối của ngành xuất bản tại Việt Nam.
Người biên tập thứ hai cuốn sách là cô Nguyễn Thị Thu Yến. Sau mấy tháng làm việc đã có một bản dịch thứ hai. Những đoạn phê phán Trung Quốc bị chặt bỏ, Những vấn đề nhạy cảm như trại cải tạo, hối lộ, tham nhũng, sai lầm của Ðảng Cộng sản và nhiều chi tiết cá nhân về Phạm Xuân Ẩn bị “gọt sạch sẽ”. Thế mà, bản dịch này cũng bị loại bỏ để có một bản dịch khác “sạch sẽ” hơn để thành bản được cho phép xuất bản.
Thế nhưng chưa xong. Ðó là thể lệ của giai đoạn “tiền xuất bản” mà thôi và chưa là chung kết. Kiểm duyệt không ngưng ở đó. Lại có một bản dịch khác với 333 chỗ bị cắt, Có những đoạn, những câu thậm chí cả nguyên một trang bị biến mất. Từ nhan đề sách đến lời tri ân cuối sách của tác giả. Nhiều sự kiện và nhân vật bị xổ toạt gạt bỏ. Những tên như Võ Nguyên Giáp, Bùi Tín bị bôi xóa mất tích. Những đoạn tả Phạm Xuân Ẩn và các công việc liên quan với Ðảng, quân đội, công an, Trung Quốc cũng không thấy hiện diện. Có những câu Phạm Xuân Ẩn bông đùa, trào phúng cũng bị cấm chỉ. Tóm lại, là nguyên bản của một câu chuyện khác một nhân vật khác nhiều khi là mặt phản diện của Phạm Xuân Ẩn. Thomas Bass đã dẫn một câu nói của một cựu giáo sư văn chương và là cố vấn về Việt ngữ: “Ông không thể viết sự thật ở Việt Nam được đâu. Ðất nước tôi đã mất cho sự dối trá rồi. Chủ điểm trong sách của ông là về một con người nhưng giờ đây đã bị loại hết tất cả các chi tiết đã làm cho nó trở thành một câu chuyện đặc biẹt và hấp dẫn. Ngay cả ngôn từ trong bài dịch này cũng không đẹp, Nhiều từ vay mượn của Trung Hoa.. Những từ ngữ khác thì lại là những chữ mà người Pháp gọi là “langue de bois- lưỡi gỗ”, thứ sáo ngữ của chính trị loài vẹt. Họ đã dùng những từ ngữ như thế là vì người Cộng sản cho rằng họ là người bề trên. Họ muốn kiểm soát tất cả kể cả các suy nghĩ của ông”.
Có quá nhiều thứ trong sách làm cho các nhà kiểm duyệt không thích nên họ phải cắt và cắt cắt cắt liên tục. Tôi nhức đầu khi xem và so sánh các bãn dịch này. Phạm Xuân Ẩn không được phép “yêu” nước Mỹ hay yêu cái thời gian ông ta học ở California. Ông ta chỉ được phép “hiểu” nước Mỹ thôi. Câu nói dí dỏm mà tinh tế của ông Ẩn rằng ông ấy chưa bao giờ muốn trở thành điệp viên và xem nghề đó là “công việc của lũ chó săn” cũng bị cắt. Câu ông Ẩn nói ông đã sinh vào thời điểm lịch sử bi thảm của Việt Nam với một khí quyển toàn mùi tráo trở cũng bị cắt. Tuần lễ Vàng do Hồ Chí Minh tổ chức năm 1946 để có đủ của hối lộ cho quân đội Trung Hoa rút khỏi Bắc Việt, cũng bị xóa luôn.”
Thomas Bass còn kể nhiều về thời kỳ phải đấu chiến với kiểm duyệt trong nước để cuốn sách ra đời. Có lúc ông đã nghĩ rằng những biên tập viên của hệ thống xuất bản đã “giết” cuốn sách của ông. Ở Việt Nam không có kiểm duyệt nhưng thay vào đó là siêu kiểm duyệt của những tâm ý hãnh tiến, độc tài và tầm nhìn không xa. Kiểm duyệt chặt chẽ như thế thì làm sao có thể mong có được những sáng tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa. Tất cả lịch sử bị xoay ngược bẻ quanh để phục vụ cho những ý tưởng ngạo mạn nhưng ngu dốt của một chế độ độc đoán nhưng bất lực
Nguyễn Mạnh Trinh

__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

SỐNG CHẲNG CÒN QUÊ (Bài Thứ Hai).

$
0
0
SỐNG CHẲNG CÒN QUÊ (Bài Thứ Hai).
NGUYỄN KHẮP NƠI.



Như tôi đã nói ở phần đầu, cuốn Hồi Ký của Bác sĩ Trần Xuân Dũng tạm được gọi là một cuốn Lịch Sử Việt Nam Cận Đại Rút Gọn, vậy chúng ta hãy cùng nhau . . . đi vào lịch sử mà anh bác sĩ Dũng đã gom lại trong cuốn hồi ký của ông, khởi hành từ Lạng Sơn, vùng giới tuyến địa đầu Việt Nam và Trung Cộng:

“Tôi sinh năm 1939 tại Làng Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam . . . Ba tôi theo Tây Học. Cuối năm thứ tưbậc trung học, ba tôi thi đậu bằng Diplome, ôngnộp đơn xin đi làm công chức sở hỏa xa và được gởi đi làm ở Nhà Ga Đồng Đăng. Nơi này rất nổi tiếng trong văn chương Việt Nam:
“Đồng Đăng có Phố Kỳ Lừa,
Có Nàng Tô Thị, có Chùa Tam Thanh . . .”
Ga Đồng Đăng

Ga Đồng Đăng
Từ trái qua phải, tòa nhà thứ hai là tòa nhà chính của Ga Đồng Đăng. Nửa bên phải của tầng trên là nơi chúng tôi cư ngụ (1942).

Đã có lần ba tôi đưa chúng tôi đi thăm Động Tam Thanh (Chùa Tam Thanh ở trong động Tam Thanh này). Chỉ nhớ rằng hôm đó trời rất nóng, nhưng bước vào trong động thấy mát rượi.
Giếng Tiên
Giếng Tiên.

Sau đó được đi thăm Giếng Tiên. Miệng giếng ngang với mặt đất, nước mấp mé gần miệng, ngồi xổm xuống có thể dùng một cái bát hay một cái gầu cũng múc nước được. Nếu nhiều người cùng dùng thùng liền tay múc nước, thì mực nước sẽ xuống, nhưng chỉ một hai phút sau nước lại lên cao gần miệng giếng như cữ. Vì thế người ta mới gọi là Giếng Tiên, không bao giờ cạn nước và không bao giờ tràn ra ngoài, đầy rồi thì thôi.
Đối với một cậu bé ba tuổi, nhớ được nhiêu đó chuyện là quá hay rồi.
nang-to-thi
Núi Vọng Phu có Nàng Tô Thị bồng con đứng chờ.

Từ những di tích mà anh Dũng còn nhớ, và theo nhiều trang mạng trên internet, chúng ta biết thêm rằng, trong quần thể núi đồi vùng Lạng Sơn, có một ngọn núi tên là Vọng Phu. Trên đỉnh núi này có một khối đá tự nhiên hình một người phụ nữ bồng con hướng nhìn về phương xa. Từ xưa tượng đá này đã gắn với truyền thuyết về một người con gái chung thuỷ đứng chờ chồng đi lính. Chờ mãi không thấy chồng về, nàng và con đã hoá thành đá, từ đó người dân gọi đây là tượng Nàng Tô Thị.
Ra khỏi Đồng Đăng, còn rất nhiều thứ gợi nhớ nhung, hoài niệm cho chúng ta: Quỷ Môn Quan, Ải Chi Lăng và cuối cùng là Ải Nam Quan.

Ở Đồng Đăng một thời gian, ba của anh Dũng được đổi về miền đồng bằng, đó là thị trấn Vinh của tỉnh Nghệ An.
Thành phố Vinh thật là yên tĩnh, đa số người dân đều di chuyển bằng cách đi bộ, cả tỉnh có hai chiếc xe đạp, xe hơi thì hầu như không có (thỉnh thoảng cũng có xe nhà binh của Pháp chạy ngang).
Biến cố súng đạn lớn nhất mà lần đầu tiên trong đời bác sĩ Dũng được chứng kiến xẩy ra vào ngày 9 tháng 3 năm 1945:
“Hôm đó là ngày 9 tháng 3 năm 1945, tôi đang ngồi trong cửa  sổ ăn quà sáng và nhìn ra đường.
Nghe tiếng xôn xao, tôi cũng đưa mắt nhìn ra đường: Mấy người lính Nhật đang ôm súng ngồi trên chỗ ghế của hành khách, còn những người đang kéo xe lại là những ông Tây. Cũng có cả một hai bà Đầm bị kéo xe có lính Nhật ngồi trên. Bọn lính Nhật cười nói huyên thuyên nhưng mắt vẫn theo dõi những người Pháp kéo xe.
Những người Pháp này, mới hôm qua đây, còn là những ông quan cai trị. Nhật vừa đảo chính Pháp được có vài tiếng đồng hồ trên toàn cõi Việt Nam. Bây giờ người Nhật đang lên voi, còn Pháp xuống chó.
Từ khi quân Nhật chiếm đóng vùng Đông Nam Á, nhiều người dân Việt tưởng rằng thời kỳ đô hộ của Pháp đã chấm dứt, chúng ta đã được độc lập tự do. Sự thật không phải như vậy, dân Việt vẫn phải chịu nhục đô hộ, nhưng thay vì bị người Pháp da trắng đô hộ, thì nay kẻ đô hộ chúng ta cũng là dân da vàng với nhau. Thay vì cùng là một mầu da, nhưng sự đô hộ của họ còn khắt khe và tàn nhẫn hơn nữa. Vì sự tàn bạo đó mà dân Việt đã gọi bọn họ là “Nhật Lùn”.
Tàn bạo hơn nữa, chúng còn bắt dân ta nhổ hết lúa lên để trồng đay, vì đay có nhiều chất sợi, bọn chúng cho chở về Nhật dệt thành vải may quần áo cho binh lính của họ. Nơi nào lúa đã chín thì họ tịch thu hết đem về Nhật.Ở miền Bắc, do thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh . . . gây mất mùa.Đói kém lại thêm vào bệnh tật, bệnhdịch tả lan tràn khắp nơi, người chết không có ai chôn, nên đành đào những huyệt lớn bỏ hết những thân xác vào trong đó, đổ vôi lên rồi lấp đất chôn. Đó là nạn đói năm Ất Dậu, trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, đã làm gần hai triệu người dân chết đói.
Nạn Đói Tại Việt Nam
Nạn đói này chấm dứt vào khoảng tháng 5 năm 1945, anh Dũng kể tiếp:
“Từ ngày 17 tháng Tư năm 1945, chính phủ Việt Nam đầu tiên được thành lập, do ông Trần Trọng Kim là thủ tướng. Mặc dù phương tiện và nhân lực hạn chế, thủ tướng Kim đã cố gắng cho chuyển gạo từ Nam ra Bắc để cứu đói, những nạn nhân còn sống sót được đưa vào những trung tâm cứu trợ để được săn sóc, thêm vào đó, vụ mùa tháng 5 1945 vừa đến lúc thu hoạch, dân chúng đã bắt đầu có gạo ăn.
Sau khi Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật vào ngày 6 tháng Tám năm1945, quân đội Nhật đã biến đi đâu hết, không còn thấy xuất hiên trên đường phố ở Vinh nữa.”
Đến khoảng giữa tháng Tám năm 1945, một sự kiện thứ hai đã xẩy ra trong cuộc đời của anh Dũng:
“Lúc đó vào khoảng 11 giờ sáng, một đoàn người mặc quần xóoc trắng ngồi trên xe đạp nối đuôi nhau, họ đạp từ phía nhà ga hướng về nhà tôi, tôi đếm được 15 người cả thẩy, mỗi người đều cầm một lá cờ đỏ sao vàng. Người dẫn đầu tay trái cầm một cái loa đưa lên miệng hô đi hô lại: “Ba giờ chiều nay, mời đồng bào đi ra sân vận động để dự cuộc mít tinh “.
Chẳng bao lâu, sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, ai cũng biết đến một cái tên mới của Việt Nam: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch nước. Ở mọi nơi, từ công sở cho tới trường học, ngoài chợ và trong cả nhà dân nữa, đâu đâu cũng thấy treo hình ông này.

Chuyện gì phải đến, đã đến: Việt Minh thanh toán những đảng phái quốc gia đã từng cùng nhau cộng tác chống lại sự đô hộ của người Pháp. Đầu tiên là những đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng:
“Một hôm, một số Việt Minh vác loa đi khắp tỉnh, rao lên rằng:
Xin mờ đồng bào, mười giờ sáng mai, hãy tập trung tại cửa Tả để nghe xử án.”
Ngày hôm sau, anh Ninh (Trần Xuân Ninh) và tôi ra chỗ đã dặn để xem xử án. Lúc đó, anh Ninh được 9 tuổi và tôi 6 tuổi. chúng tôi đến sớm, nhưng đám đông đã đến sớm hơn, đang chờ sẵn bên đường. Phía trước chỗ chúng tôi đứng, có đóng sẵn hai cái cọc, cao chừng hai thước.
Đây rồi, một nhóm người đang tới, tám chín người đang dẫn hai người bị trói giật khuỷu tay ra đằng sau, mỗi người này đều được mặc một bộ quần áo trắng mới tinh.
Xử Án
Một người cầm loa nói to: “Xin đồng bào chú ý nghe xử án”
Một người khác cầm một tờ giấy đọc một hơi những điều gì đó tôi không hiểu, người này đọc câu chót: “Phải xử tử hai tên Trần Văn Cống và Tống Gia Liêm này. Chúng là Việt Nam Quốc Dân Đảng.”
Anh ta hất hàm ra hiệu. Mấy người trong bọn xông lại, kéo hai người đó trói vào hai cây cột đã đóng sẵn. Xong, chúng dùng hai miếng vải trắng bịt mắt hai người lại.
Sáu người cầm súng tiến ra phía trước . . .
Người chỉ huy hô to: “Bắn”
Trên bộ quần áo trắng của hai người bị trói, nhiều khoảng máu đỏ tươi lan ra nhanh . . .
Một số người đứng xem vùng bỏ chạy, sô đẩy nhau . . .
Kể từ đó, mối nguy hiểm xẩy ra cho mọi người dân Việt, gia đình anh Dũng cũng không ngoại lệ:
“Bỗng một hôm ba tôi bị Việt Minh bắt. Mợ tôi chẳng biết phải làm thế nào.
Riêng tôi rất lo sợ. Liệu ba tôi có bị bắt mặc một bộ quần áo trắng giống như hai người đã bị bắn không?
Đến ngày thứ tư, Việt Minh cho người đến nói rằng, ba tôi hiện bị giam trong nhà tù Vinh, người nhà mỗi ngày phải đem cơm vào nuôi người tù, ngày hai bữa.
Trưa hôm sau, mợ tôi bế Minh Nguyệt vừa mới sinh, anh Ninh bế Tường Vi, tôi xách một cà mèn cơm đi tới nhà tù.
Đến 12 giờ, một người dẫn ba tôi ra tới bên song cửa sắt. Ba tôi mặc bộ quần áo tù mầu xám, có số. Tôi mừng thầm vì thấy ba tôi không bị mặc bộ quần áo mầu trắng. Mợ tôi khóc, nước mắt ràn rụa. Ba tôi mếu máo, thò tay qua những song sắt xoa đầu chúng tôi. Ba mợ tôi nói chuyện với nhau được khoảng năm bẩy phút, người kia lại đến. Tôi đưa ca men cơm vào tay ba, người kia lôi ba tôi đi về phía trái, ba tôi cứ quay đầu lại, chúng tôi cố nhìn theo.”
Vận hạn đen đủi cứ theo đuổi gia đình họ Trần mãi, mợ anh đã phải bán hết tất cả đồ đạc trong nhà để lo cho ba anh được ra tù, tìm đường trốn về quê nội ở Hà Nam, người mẹ dẫn đàn con đi theo sau.
Đói khổ, bệnh hoạn, mợ của anh dẫn đàn con về tới quê nội thì kiệt sức, đứa con gái mới sinh chết vì mẹ không có sữa cho con bú, mẹ chết vì kiệt sức. 
Không còn cách nào sống, người cha phải liều chết đưa ba đứa con chạy giữa hai lằn đạn của Pháp và Việt minh, may mắn về tới Hà Nội.

Tiếp theo kỳ tới.
NGUYỄN KHẮP NƠI.



From:anapl303@ozemail.com.au<anapl303@ozemail.com.au>
Sent: Thursday, 12 April 2018 5:00 PM
To:'ChinhNghiaViet@yahoogroups.com'<ChinhNghiaViet@yahoogroups.com>; 'DienDanCongLuan@yahoogroups.com'<DienDanCongLuan@yahoogroups.com>; 'hangnguyen@vietbao.com'<hangnguyen@vietbao.com>; 'ThoiChinhChien@Gmail.com'<ThoiChinhChien@Gmail.com>
Subject: Hồi Ký Sông Chẳng Còn Quê của Bác Sĩ Trần Xuân Dũng.

NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI
SỐNG CHẲNG CÒN QUÊ.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
1. Sống Chẳng Còn Quê
Tuần trước, tôi có dịp hàn huyên với Bác sĩ Trần Xuân Dũng và đã được ông tặng bản in đặc biệt của cuốn Hồi Ký của ông với tựa đề “Sống Chẳng Còn Quê”.
Cuốn tự truyện của Bác sĩ Dũng dầy 685 trang (A5), bìa trước in hình Quê cũ của ông, với căn nhà gỗ phên nứa, có dàn mướp leo trước nhà, bìa sau là hình ảnh “Quê Người” đang độ vào Thu với cây sồi lá đã đổi qua mầu vàng rực rỡ.
Tôi đã đọc nhiều Sách, nhiều Tiểu Thuyết, nhiều Hồi Ký, cuốn nào cũng dầy, cũng có hình ảnh, trung bình là khoảng 400 trang, ít khi có một nhà văn, nhà thơ nào dám viết, dám in một cuốn sách dầy trên 500 trang. Vậy mà Bác sĩ Dũng dám viết, dám in một cuốn Hồi Ký 685 trang (chưa kể hai trang bìa)!
3. Quê Mới
Có người dám viết một cuốn Hồi ký 685 trang thì cũng có người dám đọc hết 685 trang hồi ký đó.
Tôi đọc liên tiếp năm đêm, đọc từng trang sách, xem từng tấm hình do gia đình cung cấp và do ông tự chụp. Tôi đọc say mê, đọc không sót một chữ, xem không thiếu một tấm hình nào cả, đọc nguyên cuốn trong suốt năm đêm liên tục.
Cuốn Hồi Ký này có gì đặc biệt mà tôi phải thức năm đêm liền để đọc, mà lại đọc say mê?
Bác Sĩ Dũng
Đó là vì cuốn Hồi Ký đã kể lại cuộc đời của ông từ khi ông mới sinh ra đời (1939) cho tới khi định cư ở Úc Đại Lợi từ năm 1978 cho tới nay, 2018.
Lịch sử Việt Nam cận đại với những biến chuyển quan trọng, từ lúc giao thời của Hoàng Đế Bảo Đại (1930), của Chính Phủ Lâm Thời của Trần Trọng Kim, của Việt Nam Quốc Dân Đảng, của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, nạn đói năm Ất Dậu, cho tới cuộc di cư vào Nam của hơn một triện người Việt nam, tới cuộc chiến tranh xâm lược của Việt Cộng và cuộc di cư lần thứ hai của người dân Việt 1975. . . tất cả đều gói ghém trong cuốn hồi ký này.
Do đó, tôi có thể nói, cuốn Hồi Ký của Bác sĩ Trần Xuân Dũng là một cuốn Lịch Sử Việt Nam Rút Gọn vậy.
Đó là lý do tôi đã đọc hết cuốn Hồi Ký, đọc từng trang, đọc say mê và giới thiệu với quý vị để cùng đọc cho vui, cho biết những biến chuyển lịch sử của nước nhà.
Ngoài cái việc làm Bác sĩ ra, Trần Xuân Dũng còn có gì đặc biệt hay không?
Nhiều lắm bạn ạ!
Điều đầu tiên mà tôi phục là, sau khi tốt nghiệp Y Khoa tại Sài Gòn năm 1965, được trưng tập làm Y Sĩ Tiền Tuyến (dân y trưng tập vào Lính), ông đã dám . . . Đăng Lính Thủy Quân Lục Chiến, làm Y Sĩ Trưởng cho Tiểu Đoàn 4, đóng tại Vũng Tầu.
Trận ra quân mở hàng của ông vào năm 1966 là ở ngay phía Tây của thành phố Sài Gòn, nhưng không phải là ở văn phòng, ở Quân Y Việt đâu, mà là ở ngay tuyến đầu Bà Hom của Tiểu Đoàn 4. Lính Thủy Quân Lục Chiến được trực thăng vận đổ quân xuống xã Vĩnh Lộc, hành quân tìm và diệt địch. Người Lính đánh tới đâu, bị thương ở chỗ nào, bất kể đó là nơi tuyến đầu hay lúc xung phong, là Y Sĩ Dũng và toán quân y của ông có mặt nơi đó để lo cho anh em được an toàn, để giữ lại mạng sống cho người Lính Thủy Quân Lục Chiến.
Rời chiến trường Vĩnh Lộc, tiểu Đoàn lại được trực thăng thẩy vào ngay giữa trận địa vùng Kinh Sáng và Kinh Ba Tà để tăng viện cho một tiểu đoàn Biệt Động Quân đang chạm địch từ tối hôm qua. Khi được lệnh đi tìm và cứu những thương binh Mũ Nâu, ông và toán quân y đi hết cánh đồng này tới cánh đồng khác, chỉ thấy xác chết của Lính Mũ Nâu chứ không có một thương binh nào cả. Y sĩ Dũng đã ôm máy truyền tin thảng thốt báo cáo:
“Trận chiến không có thương binh!”
Đúng vậy!
Nhưng có nghỉa là gì?
Nghỉa là, trước khi rút lui, bọn Việt Cộng đã dã man tàn sát tất cả những chiến binh Biệt Động Quân, dù là còn sống hay đã bị thương.
Có một Hạ Sĩ Biệt Động Quân chết gục trên khẩu Đại Liên M60, Y sĩ Dũng lật ngửa xác người Lính lên để xem còn cách nào cứu anh ta hay không: Trên cổ người Lính có mang sợi giây chuyền đeo chiếc thánh giá, bọn Việt cộng đã giết anh ta bằng cách bắn từng viên đạn lên ngực anh ta, bắn chéo thành hình Chữ Thập của cây thánh giá. Người Hạ sĩ đã bị bắn khoảng hàng chục viên đạn vào ngực và một phát vào đầu. Bị bắn kiểu này không phải là bị bắn trong lúc giao tranh, mà là bị hành hình! Chắc rằng, trong khi giao tranh, bọn Việt Cộng đã bị khẩu Đại Liên này giết nhiều lắm, cho nên khi anh đã bị trúng đạn ở đầu rồi, chúng đã nhào lên bắn thêm cả chục viên đạn vào xác người Lính Biệt Động để trả thù. Những xác chết khác, đều bị rất nhiều vết đạn ở trên người, chứng tỏ rằng, khi họ chỉ bị thương, còn sống, còn có thể chữa trị, nhưng bọn ác ôn côn đồ Việt cộng trước khi rút lui, đã tàn nhẫn bắn hàng loạt đạn vào thân hình những thương binh Biệt Động Quân để hủy diệt mạng sống của họ.
Rời Tiểu đoàn 4, ông được đổi về Tiểu đoàn 6, rồi Tiểu đoàn 3 và đến đầu năm 1968, ôngđược thăng cấp Y Sĩ Trưởng của Chiến Đoàn B Thủy Quân Lục Chiến để trở lại giải cứu Sài Gòn đang bị bọn Việt cộng tấn công vào dịp Tết Mậu Thân. Đúng ngày Mùng Một Tết (30/01/1968), chiến đoàn đổ quân xuống ngay Bộ Tổng Tham Mưu để từ đó hành quân diệt Cộng tại Trường Tổng Quản Trị, Sinh Ngữ Quân Đội, Chùa Ấn Quang, đường Nguyễn Duy Dương và Bà Hạt. Chính tại nơi này, Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đã bắt được tên phiến loạn Bẩy Lém (Lốp). Tên này được coi là phiến loạn vì y không mặc quân phục của Cộng Sản Bắc Việt hoặc của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mà đã dùng vũ khí bắt chết rất nhiều sĩ quan trong Trại Gia Binh, và nhất là y đã giết hại cả gia đình của Trung Tá Nguyễn Tuấn gồm hai vợ chồng và 6 đứa con nhỏ. Chính vì lý do này mà khi Thiếu tá Ngô Văn Định (Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2 TQLC) giao hắn lại cho Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tướng Loan đã xử bắn y ngay tại chỗ.
5. Bẩy Lớp
Thiếu Tá Ngô Văn Định (cầm súng Colt) đang dẫn tên Bẩy Lốp tới gặp Tướng Loan.
Một hôm, Chiến đoàn họp hành quân, Y Sĩ Trưởng của Chiến đoàn cũng được tham dự. Khi được biết pháo binh của TQLC sẽ bắn vào khu Đồng Ông Cộ trước khi các tiểu đoàn hành quân diệt đich, Y sĩ Dũng đã hốt hoảng ra mặt, vì đó là nơi cư ngụ của gia đình ông, ba mẹ và các anh em cháu của ông, làm sao bây giờ? Sau phiên họp, ông đã xin gặp riêng vị sĩ quan pháo bịnh, nói cho ông hay cớ sự và xin rằng:
“Anh rót cho khéo nhé, lỡ lầm vào nhà tôi,
Nhà tôi ở giữa vùng Đồng Ông Cộ,
Có dàn mướp đắng, có những người tôi thương . . .”
(Hồi đó, nhạc sĩ Anh Bằng chưa sáng tác bài Dàn Hoa Thiên Lý).
Quả thật, đạn pháo binh đã né nhà ông, cả nhà được yên lành.
Sau trận Mậu Thân, Y sĩ Trần Xuân Dũng được ân thưởng Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc.
Điều thứ Hai mà tôi phục là . . .Bác sĩ Dũng làm bác sĩ theo đúng lời thề của sư tổ Nghành Y Khoa (The Hippocratic Oath), chỉ chữa bệnh cho người có bệnh và giúp người chứ không cần kiếm nhiều tiền. Thì giờ còn lại, ông dùng để viết Sử Sách cho đời sau.
Ông nói với tôi một câu đáng nể:
“Người ta thường khoe với nhau: “Tôi có bốn năm căn nhà . . . tôi lái chiếc xe Mercedes ba bốn trăm ngàn . . . Đối với tôi thì lại khác, tôi chỉ có một căn nhà cho mẹ con chúng nó ở thôi, chạy xe thì tôi chạy chiếc Jeep (Vì đây là chiếc xe đầu tiên tôi được lái ở trận tiền, sau này mua xe, cũng chỉ xe Jeep mà thôi). Nhưng tôi đã viết được hai cuốn sách lưu lại cho hậu thế:
Chiến Sử Thủy Quân Lục Chiến và
Lịch Sử Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Để cho hậu thế biết rằng, ngày xưa, có một quốc gia tên là Việt Nam Cộng Hòa Tự Do Dân Chủ, được bảo vệ bởi một quân đội tên là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Một trong những binh chủng xuất xắc của Quân Lực này là Thủy Quân Lục Chiến, họ được săn sóc bới những Y sĩ xuất xắc của Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.”
 
Hồi 1981 mới qua Úc, tôi xin làm thợ sơn xe cho hãng xe Nissan. Tôi cần việc làm nên nhận đại là mình biết sơn chứ đã có bao giờ tôi cầm tới cái chổi sơn đâu, nói chi sơn bằng máy. Vì chằng có nghề, nên cái máy sơn quần tôi thê thảm, mệt quá tôi nghỉ đại một vào ngày, tới bác sĩ Dũng xin cái giấy chứng nhận nghỉ bệnh.
Sở dĩ tôi tới ổng là vì, nghe nói ổng hồi xưa cũng là Lính, tức là . . . phe ta . . . tức là cũng có phần nào . . . Huynh Đệ Chi Binh giúp đỡ nhau. Đang ngồi chờ, gặp một thằng bạn đi ra, mặt mày buồn xo, nói với tôi:
“Tao nghỉ đi chơi hai bữa nay, tới xin ổng cái giấy chứng nhận có cảm cúm chút xíu để nộp cho hãng, ổng không những không cho mà còn lên lớp tao:
“Còn mạnh khỏe thì . . . cứ đi làm mà kiếm tiền, có bệnh thật thì tôi chứng, chứ đang khỏe mạnh như thế này, làm sao mà tôi ký giấy bệnh cho anh được.”
Tôi chia buồn với người bạn nhưng trong lòng cũng nổi lên ý kiến: Ông bác sĩ này cũng . . . ngon, có bịnh mới khám, không có bịnh thì đi chỗ khác chơi.
Tới phiên tôi, tôi khai đau tay quá, không dở lên nổi, bác sĩ Dũng nắm bắp tay tôi bóp nhẹ, tôi la làng vì đau, tức là có bịnh thiệt. Ông lấy cây đèn có ánh sáng mầu đỏ chiếu vào bắp thịt tay của tôi một hồi rồi cho thuốc giảm đau, rồi chứng nhận cho tôi cần nghỉ hai ngày. Trong khi viết toa, ông hỏi tôi hồi xưa ở Việt Nam làm gì? Tôi nói hồi xưa đăng Lính Biệt Động, ổng nói ổng cũng đăng Lính, Lính Thủy Quân Lục Chiến . . . thế là chúng tôi quen nhau.
Qua vài lần khám bệnh khác, mỗi lần nói vài câu xã giao, tôi mới biết ra là bác sĩ Dũng học cùng lớp, cùng trường Chu Văn An với anh Hiệp của tôi. Khi nhắc tới anh lớn của tôi, bác sĩ Dũng sáng mắt lên nhắc lại chuyện xưa:
“Tôi với anh Hiệp học chung với nhau từ Đệ Thất ở Chu Văn An, năm nào cũng một đứa bàn trên, một đứa bàn dưới cho đến Đệ Nhất. Vào trường Y, hai đứa cũng học chung với nhau, ra trường chọn đơn vị, anh Hiệp về Trung đội Lựa Thương Quảng Đức, tôi về Thủy Quân Lục Chiến.”
Vì anh là huynh trưởng của tôi (đi lính từ năm 1965), nay lại là bạn cùng lớp với anh cả của tôi nữa, nên từ đó, tôi gọi anh là Anh Dũng.
Trở lại cuốn hồi ký của bác sĩ Dũng,
Tiếp theo kỳ tới.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
 





30 tháng 4, đọc gì, viết gì?

$
0
0

...Ngoài những con chuột đỏ trà trộn trong làn sóng người Việt tị nạn vượt biển vượt biên ra hải ngoại sau ngày 30.4.1975, còn có thêm những loại chuột đỏ khác sau đó được khơi khơi xách va-li lên máy bay sang Mỹ...
...Có thể nói các cộng đồng người Việt ở hải ngoại ngày nay đã thực sự biến thành những “vùng xôi đậu” giữa ta và địch, không khác gì tình trạng miền Nam VN trong thời chiến tranh. Khi ấy, chính quyền VNCH có quân đội, cảnh sát, tình báo, an ninh, mật vụ mà VC còn len lỏi vào khắp nơi, ngày nay ở hải ngoại, các tổ chức cộng đồng, các đảng phái, hội đoàn lấy gì để ngăn chặn những con chuột đỏ?

stkt.jpg


Sổ Tay Ký Thiệt kỳ 195

30 tháng 4, đọc gì, viết gì?

Trích bài “Những mũi giáo đâm sau lưng, hay những kẻ nối giáo cho giặc” của ông Đỗ Hồng Ngọc:
...
Sự sụp đổ của một chế độ nhân bản không phải chỉ do người Mỹ quay lưng và “đồng minh tháo chạy”, mà còn do những mũi giáo đâm thẳng sau lưng dân tộc.
Những mũi giáo đó ẩn hiện khắp miền Nam VN. Nếu cho rằng đó là những kẻ, hay gia đình họ, đã nhờ được hưởng tự do và ít nhiều ơn mưa móc từ chế độ VNCH mà cuộc sống của họ tương đối sung túc thì họ có thể được gọi là những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.
Một số tập kết ra Bắc và nhiều tên khác ở lại nằm vùng trong Nam. Họ trà trộn, luồn lách vào các cơ quan công quyền, quốc hội và quân đội. Họ đóng vai những nhà báo khuynh tả. Họ mặc áo nghệ sĩ. Họ đội lốt tôn giáo. Họ mang hia đội mão trí thức. Họ thậm chí đi xuống tận cùng giai cấp xã hội để làm công nhân lao động nghèo khổ. Họ có khi là những người trẻ, nhẹ dạ, bị tuyên truyền, nhồi nhét những điều huyễn mị về chủ nghĩa cộng sản.
Những phần tử này được liệt vào thành phần thứ năm sau 4 cái ngu mà dân gian vẫn thường hay nói tới, khiến câu ca dao bình dân có thể được thêm vào như sau:

Trên đời có bốn cái ngu                                                                                                                           Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu                                                                                                         Thứ năm ngu nhưng lại đứng đầu                                                                                                        Đó là cuồng tín theo hầu cộng nô

Những người nổi tiếng gia nhập đảng cộng sản như:Nguyễn Thị Bình (Sa Đéc), Nguyễn Tấn Dũng (Cà Mau), Nguyễn Thị Định (Bến Tre), Nguyễn Hộ (Gò Vấp), Phan Văn Khải (Củ Chi), Võ Văn Kiệt (Vĩnh Long)…đều là gốc người miền Nam và chính họ hay gia đình họ đã từng hưởng trực tiếp hay gián tiếp ơn mưa móc của chính phủ VNCH.
Vào ngày 20/12/1960, con bàiMặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN(MTDTGPMN) ra đời để bắt đầu quấy rối cuộc sống yên bình của dân chúng miền Nam. Những tên gạo cội của mặt trận này gồm có:Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Võ Chí Công, Đại đức Sơn Vọng, Trần Nam Trung, Nguyễn Văn Hiếu, Trần Bạch Đằng, Phan Văn Đáng, Nguyễn Hữu Thế,  Nguyễn Thị Định, Thích Thượng Hào, Nguyễn Văn Ngợi, Lê Quang Thành, Đặng Trần Thi, Trần Bửu Kiếm…
Sau đó, cái quái thai “MTDTGPMNVN” của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) này đã đẻ ra cái gọi là“Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” (CPCMLTCHMNVN) với những tên chủ chốt như:Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Trần Bửu Kiếm, Trần Nam Trung, Nguyễn Thị Bình, Cao Văn Bổn, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Kiết, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Thích Đôn Hậu…
Có lẽ cần mở ngoặc để nói đôi điều cái quái thai “MTDTGPMNVN”. Thế giới lúc bấy giờ đều gọi họ là Việt Cộng (VC), theo người Mỹ, trong khi người Việt gọi Việt Cộng là để chỉ chung Cộng Sản Việt Nam từ Nam chí Bắc. Không biết người Mỹ có cố tình gọi VC chỉ để nhắm vào phần tử của “MTDTGPMNVN” hay không mà khi tổ chức hội đàm Paris, họ lại dành cho mặt trận này một chỗ ngồi ngang hàng với VNCH. Cuộc hội đàm 4 bên thật sự không đúng nghĩa bởi vì 4 bên đó phải là Trung Cộng hay/và Liên Xô (nước đỡ đầu cho CSVN trong cuộc chiến) đối đầu với Mỹ (đại diện cho phe đồng minh) và VN Dân Chủ Cộng Hòa (hay CSBV) đối đầu với VNCH. Vì thế, Hiệp Định Paris 27/1/1973 được ra đời trong sự thua thiệt bất công nghiêng về phía VNCH. CSBV với sự yểm trợ mạnh mẽ cả về vũ khí, tài chính lẫn nhân sự từ Trung Cộng và Liên Xô, đã trắng trợn vi phạm hiệp định này trong khi VNCH bị cúp mất viện trợ từ Mỹ nên đã ngậm ngùi bị bức tử vào ngày 30/4/1975. Phong trào phản chiến lớn rộng tại Mỹ và nhiều nơi, kể cả VN, đã có nhận định quá sai lầm về cuộc chiến. Họ không chống kẻ xâm lăng gây chiến mà lại chống người tự vệ chính đáng. Bốn mươi lăm năm đã trôi qua kể từ ngày ký hiệp định Paris với những đau khổ triền miên dành cho một dân tộc bất hạnh sau ngày Sài Gòn bị thất thủ. Đã có những nỗ lực đáng trân trọng để phục hoạt hiệp định Paris trong gần như vô vọng. Trước đó, những kẻ nằm mơ giữa ban ngày về cái gọi là “miền Nam trung lập” thuộc MTDTGPMN và CPCMLTMNVN đã vỡ mộng vì cả hai tổ chức này đều bị chính thức khai tử không kèn không trống vào ngày 2/7/1976.
Trở lại với những mũi giáo oan nghiệt đâm sau lưng, từ Dinh Độc Lập, có các cố vấn của Tổng Thống VNCH như Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ… Điều đáng lưu ý là những tên này cùng đồng bọn gồm 20 tên khác từng bị bắt nhốt bởi Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung phối hợp với Ty Công An Huế thời Đệ Nhất Cộng Hòa, nhưng đến ngày 1/11/1963, Hội Đồng Cách Mạng của Tướng Dương Văn Minh thả ra và sau đó họ đã len lỏi vào các cơ quan trọng yếu của VNCH.
Trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp quân lực VNCH, có Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát, Nguyễn Hữu Hạnh… và vô số binh sĩ cũng như sĩ quan VNCH âm thầm làm việc tiếp tay cho CSVN, như Nguyễn Thành Trung, thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh…
Nằm vùng tại Quốc Hội VNCH có cái gọi là thành phần thứ ba và Dân Biểu Đối Lập như Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Ngô Bá Thành (Phạm Thị Thanh Vân), Kiều Mộng Thu, Hồng Sơn Đông, Nguyễn Văn Hàm, Đinh Văn Đệ…
Một số phần tử này cũng là những nhà báo thiên tả như Ngô Công Đức (Tin Sáng), Hồng Sơn Đông (Điện Tín) hợp cùng Chân Tín (Đối Diện), Họa Sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành), Phạm Xuân Ẩn (các báo ngoại quốc như Time, New York Herald Tribune…) Vào đầu năm 1970, có khoảng 36 tờ báo tư nhân ở miền Nam, nhưng có rất ít báo của nhà nước, chẳng hạn như tờ Tiền Tuyến. Lợi dụng tự do báo chí, nhiều nhà báo thiên tả đã công khai đả phá chính phủ VNCH và cá nhân của TT Nguyễn Văn Thiệu. Thậm chí họ còn tổ chức diễn biến “ký giả xuống đường đi ăn mày” vào ngày 10/10/1974 để phản đối sắc luật 007 qui định về tiền ký quỹ ra báo.
Những mũi giáo đâm sau lưng còn phát xuất từ những kẻ đội lốt nghệ sĩ mà điển hình là Kim Cương, kẻ được cho là mang cấp bậc Thượng Tá của VC mặc dù bà ta phủ nhận điều này, nhưng có lẽ chẳng mấy ai tin. Ngoài ra, còn có một số nhạc sĩ nổi tiếng phản chiến như Trịnh Công Sơn (TCS), Trương Quốc Khánh, Tôn Thất Lập… Riêng TCS được xem là thiên tài âm nhạc và phù thủy ngôn ngữ, nhưng rất tiếc những tinh hoa đó lại phục vụ cho chế độ man rợ cộng sản.
Mặc lớp áo thầy tu, những mũi giáo đó đã lũng đoạn hàng ngũ quốc gia miền Nam. Những tay nổi bật trong thành phần này từ Thích Trí Quang cho tới Thích Nhất Hạnh, Chân Tín, ni sư Huỳnh Liên, Phan Khắc Từ, Trần Hữu Thanh… đều tích cực nối giáo cho giặc bằng mọi hình thức như xách động xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu… dưới chiêu bài chống độc tài gia đình trị (thời đệ nhất Cộng Hòa), đòi quyền sống, đòi hòa bình, viết báo công kích chính phủ, chống tham nhũng (thời đệ nhị Cộng Hòa)…
Thành phần trí thức thiên tả miền Nam góp phần phá nát chính thể dân chủ của người quốc gia có khá nhiều, tiêu biểu như: Trương Bá Cần, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Thế Uyên, Thế Nguyên, Duy Lam, Nguyễn Hữu Chung, Lê Văn Hảo, Lê Khắc Quyến​(ông này là cha của ông Lê Khắc Nhàn tức Hằng Trường. Đại lão Hòa Thượng Tuyên Hóa đã đuổi ra khỏi Tăng Đoàn Vạn Phật Thành vì âm mưu chiếm chùa Vạn Phật​​và không được lấy pháp danh họ Hằng nữa)​, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên...
Thành phần năng động nhất ở miền Nam gây khó khăn cho chính phủ VNCH ở hậu phương Sài Gòn là các học sinh sinh viên thiên tả như: Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Cao Thị Quế Hương, Võ Như Lanh, Phan Kim Hạnh, Dương Văn Đầy, Trịnh Đình Ban…Ở miền Trung có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân… Ngoài ra, còn có một số lãnh tụ sinh viên ở Sài Gòn chuyên cầm đầu những cuộc xuống đường rầm rộ ở Sài Gòn như Nguyễn Văn Thắng (cựu SV Sư Phạm Sài Gòn), Đoàn Kỉnh (Đại Học Khoa Học SG) mà lý lịch không rõ là người quốc gia hay thân cộng.
Những mũi giáo đâm sau lưng dân tộc còn có vô số những tay nằm vùng hành nghề lao động tay chân như lái tắc xi, đạp xích lô… và thậm chí còn có những kẻ được gọi bằng danh xưng mỹ miều “bà mẹ chiến sĩ”. Sau ngày 30/4, bọn này xuất đầu lộ diện thành những tên VC mang băng đỏ trên cánh tay chỉ đường cho CSBV tiến vào Sài Gòn và sau đó giữ những chức vụ tại hạ tầng cơ sở hay trung ương.
Trên đây là những mũi giáo đâm sau lưng được người dân nhận diện ra tại Sài Gòn, không kể đến những kẻ khác hoạt động bí mật rải rác khắp miền Nam.
Những kẻ này đã góp phần lật đổ chế độ nhân bản VNCH và xây dựng nên một chế độ man di, tàn bạo gây thống khổ cho toàn dân suốt gần 43 năm dài..
Những kẻ nối giáo cho giặc cộng sau năm 1975 đều bị vắt chanh bỏ vỏ một cách không thương tiếc. Một số đấm ngực ăn năn thì đã quá muộn màng.
Ngay cả sau biến cố 30/4, trong làn sóng tị nạn ra hải ngoại cũng có không ít phần tử cộng sản trà trộn hay hoạt động ngầm cho VC dưới hình thức tôn giáo vận, văn hóa vận…
Rút tỉa kinh nghiệm sống chung với những mũi giáo phản trắc suốt mấy chục năm ở trong nước, đồng bào hải ngoại cần vạch mặt chỉ tên những kẻ này để vận động chính quyền sở tại tống cổ chúng về nước hầu duy trì cuộc sống yên bình cho cộng đồng. (ngưng trích)

Ngoài những con chuột đỏ trà trộn trong làn sóng người Việt tị nạn vượt biển vượt biên ra hải ngoại sau ngày 30.4.1975, còn có thêm những loại chuột đỏ khác sau đó được khơi khơi xách va-li lên máy bay sang Mỹ. Nào đoàn tụ gia đình, nào bảo lãnh thân nhân, nào hôn nhân (thật lẫn giả), nào “HO”, nào du sinh, nào đại gia VC và con cháu VC gộc, cùng nhau cấu kết với cựu tị nạn trở cờ…tạo thành một “đội ngũ” chuột đỏ rộng lớn dưới sự chỉ đạo giấu tay của các sứ quán VC, đã xâm nhập mọi sinh hoạt chính trị, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, báo chí, truyền thông ... trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Có thể nói các cộng đồng người Việt ở hải ngoại ngày nay đã thực sự biến thành những “vùng xôi đậu” giữa ta và địch, không khác gì tình trạng miền Nam VN trong thời chiến tranh. Khi ấy, chính quyền VNCH có quân đội, cảnh sát, tình báo, an ninh, mật vụ mà VC còn len lỏi vào khắp nơi, ngày nay ở hải ngoại, các tổ chức cộng đồng, các đảng phái, hội đoàn lấy gì để ngăn chặn những con chuột đỏ? Chưa kể sinh hoạt của các tổ chức cộng đồng, đảng phái và các hội đoàn rất lỏng lẻo, dễ dãi, tạo cơ hội cho những con chuột đỏ xâm nhập khi chúng đóng kịch là những con người đầy thiện chí, dễ thương, dễ bảo, nhiều tài vặt, mồm cũng nói “chống cộng”, có khi còn to mồm hơn người khác. Một khi xâm nhập được rồi thì những con chuột đỏ bắt đầu quậy phá.

Hậu quả như thế nào? Có lẽ không cần dẫn chứng.

Những ai còn quan tâm tới sinh hoạtcộng đồng và chưa quên bài học xương máu ngày 30.4.1975 thìkhông thể không nhìn thấy những gì đang diễn ra trước mắt.


Thiệt
(Đời Nay ra ngày 20.4.2018)
1135.jpg
Dân miền Trung chạy trốn "Giải phóng" tháng 4/1975


__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

HIỆP ĐỊNH VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM 27-1-1973

$
0
0
 

HIỆP ĐỊNH VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM 27-1-1973

Các bên tham gia Hội Nghị Paris về Việt Nam .
Nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở VN trên cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân VN và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, góp phần củng cố hòa bình ở Châu Á và thế giới.
Đã thảo luận, cam kết tôn trọng và thi hành những điều khoản sau đây :

CHƯƠNG I
CÁC QUYỀN DÂN TỘC CƠ BẢN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM

ĐIỀU 1: Hoa Kỳ vá các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhẩt, toàn vẹn lãnh thổ của nước VN như Hiệp Định Geneve năm 1954 về VN đã công nhận.

CHƯƠNG II
CHẤM DỨT CHIẾN SỰ RÚT QUÂN
ĐIỀU 2: Một cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện trên khắp miền Nam VN kể từ 24 giờ(giờ GTM) ngày 27-1-1973.
Cùng ngày giờ nói trên, Hoa Kỳ sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự của Hoa Kỳ chống lãnh thổ nước VN Dân Chủ Cộng Hòa bằng mọi lực lượng trên bộ , trên không, trên biển bất cứ từ đâu tới , và sẽ chấm dứt việc thả mìn tại vùng biển, cácc cảng và sông ngòi nước VN Dân Chủ Cộng Hòa. Hoa Kỳ sẽ tháo gỡ , làm mất hiệu lực vĩnh viễn, phá hủy tất cả những mìn ở vùng biển , các cảng vá sông ngòi ở miền Bắc VN ngay sau khi Hiệp Định nầy có hiệu lực.
Việc chấm dứt hoàn toàn chiến sự nói trong điều nầy là vững chắc và không thời hạn.
ĐIÊU 3: Các bên cam kết giữ vững ngừng bắn, bảo đảm hòa bình lâu dài và vững chắc.
Bắt đầu từ khi ngừng bắn:
a/ Các lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Hòa sẽ ở nguyên vị trí cúa mình trong lúc chờ đợi thực hiện kết hoạch rút quân.. Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên nói trong điều 16 sẽ qui định những thể thức.
b/ Các lực lượng vũ trang của hai bên miền Nam VN sẽ ở nguyên vị trí của mình.
Ban Liên Hiệp Quân Sự Hai Bên nói trong điều 17 sẽ qui định vùng do mỗi bên kiểm soát và những thể thức trú quân.
c/ Các lực lượng chính qui thuộc mọi quân chủng va2 binh chủng vá các lực lượng không chính qui của các bên ở miền Nam VN phải ngừng mọi hoạt động tấn công nhau và triệt để tuân theo những qui định sau đây :
- Ngăn cấm mọi hoạt động vũ lực trên bộ, trên không và trên biển
- Ngăn cấm mọi hành động đối địch , khủng bố và trả thù của cả hai bên
ĐIỀU 4:  Hoa Kỳ sẽ tiếp tục dính líu quân sư hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam VN.
ĐIỀU 5: Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi k1y hiệp định này sẽ hoàn thành việc rút quân hoàn toàn ra khỏi miền Nam VN mọi quân đội , cố vấn quân sự và nhân viên quân sự kỹ thuật , nhân viên quân sự liên quan đến chương trình bình định , vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đã nói ở điều 3(a). Cố vấn của các nước nói trên cho tất cả các tổ chức bán quân sự và lực lượng cảnh sát cũng sẽ rút trong thời hạn đó.
ĐIỀU 6:Việc hủy bỏ tất cà các căn cứ quân sự ở miền Nam VN của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đã nói ở điều 3(a) sẽ hoàn thành trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký kết hiệp định nầy .
ĐIỀU 7:Từ khi thực hiện ngừng bắn cho đến khi thành lập chính phủ ở điều 9(b) và điều 14 của Hiệp Định nầy , hai bên miền Nam sẽ không được nhận đưa vào miền Nam VN quân đội , cố vấn quân sự và nhân viên quân sự , kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật , vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh.
Hai bên miền Nam VN được phép từng thời gian thay thế vũ khí , đạn dược, dụng cụ chiến tranh đã bị phá hủy, hư hỏng, hao mòn hoặc dùng hểt từ sau khi ngừng bắn trên cơ sở một đổi một cùng đặc điểm và tính năng , có sự giám sát của Ban Liên Hiệp Quân Sư hai bên miền Nam VN và Ủy Ban Quốc Tế kiểm soát và giám sát.

CHƯƠNG III
VIỆC TRAO TRẢ NHÂN VIÊN QUÂN DỰ BỊ BẮT , THƯỜNG DÂN NƯỚC NGOÀI BỊ BẮT VÀ NHÂN VIÊN DÂN SỰ VIỆT NAM BỊ BẮT VÀ GIAM GIỮ
ĐIỀU 8: a/ Việc trao trả những nhân viên quân sữ của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt sẽ tiến hành song song và hoàn thành không chậm hơn ngày hoàn thành việc rút quân nói trong điều 5. Các bên sẽ trao đổi danh sách đầy đủ những nhân viên quân sự và thường dân nước ngoài bị bắt nói trên vào ngày ký kết Hiệp Định nậy
b/ Các bên sẽ giúp đỡ nhau tìm kiếm tin tức về những nhân viên quân sự của các bên và thường dân nước ngoài của các bên bị mất tích trong chiến đấu , xác định vị trí và bảo quản mồ mả của những người bị chết ,nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc cất bốc và hồi hương hài cốt và có những biện pháp cần thiết để tìm kiếm tin tức những người còn coi là mất tích trong chiến đấu.
c/ Về vấn đề trao trả các nhân viên dân sự VN bị bắt và giam giữ ở miền Nam VN se4 do hai bên miền Nam Vn hỉai quyết trên cơ sở những nguyên tắc của điều 21(b) của Hiệp Định đình chỉ chiếm sự ở VN ngày 20-7-1954. Hai bên miền Nam VN sẽ làm việc đó trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc , nhẳm chấm dứt thù hằn, giãm bớt đau khổ và đoàn tụ các gia định Hai bên miền Nam VN sẽ gắng hết sức mình để giải quyết vấn đề nầy trong vòng 90 ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực.

CHƯƠNG IV
VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TỰ QUYẾT CỦA NHÂN DÂN MIỀN NAM VIỆT NAM
ĐIỀU 9:Chính phủ Hoa Kỳ và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cam kết tôn trọng những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN sau đây :
a/ Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và phải được tất cà các nước tôn trọng.
b/ Nhân dân miền Nam VN tự quyết định tương lai chính trị của miền Nam VN thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.
c/ Các nước ngoài sẽ không được áp đặt bất cứ xu hướng chính trị hoặc cá nhân nào đối với nhân dân miền Nam VN.
ĐIỀU 10:Hai bên miền Nam VN cam kết tôn trọng ngừngba81n và giữ vững hòa bình ở miền Nam VN, giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng và tránh mọi xung đột bằng vũ lực.
ĐIỀU 11:Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam VN sẽ:
- Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xó bỏ thù hằn , cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia.
- Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị , tự do tín ngưỡng, tư do đi lại, tư do cư trú , tư do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.
ĐIỀU 12: a/ Ngay sau khi ngừng bắn,hai bên miền Nam VN sẽ hiệp thương trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính nhau để thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc gồm ba thành phần ngang nhau. Hội Đồng sẽ làm việc theo nguyên tắc nhất trí. Sau khi Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc  nhậm chức, hai bên miền Nam VN sẽ hiệp thương về việc thành lập các hội đồng cấp dưới . Hai bên miền Nam VN sẽ ký Hiệp Định về các vấn đề nội bộ của miền Nam VN cáng sớm càng tốt  và sẽ làm hết sức mình để thực hiện việc nầy trong vòng 90 ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân miền Nam là hòa bình, độc lập và dân chủ ..
b/ Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc có nhiệm vủ đôn đốc hai bên miền Nam VN thi hành Hiệp Định nầy, thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, bào đảm tư do dân chủ . Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do và dân chủ như đã nói trong điều 9(b) và qui định thủ tục và thể thức của cuộc tổng tuyển cử nầy. Các cơ quan quyền lực và cuộc tổn tuyển cử đó sẽ bầu ra , sẽ do hai bên miền Nam VN thông qua hiệp thương mà thỏa thuận. Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc cũng sẽ qui định thủ tục và thể thức tuyển cử địa phương theo như hai bên miền Nam VN thỏa thuận .
ĐIỀU 13 : Vấn đề lực lượng vũ trang VN ở miền Nam VN sẽ do hai bên miền Nam VN giải quyết trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc , bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, không có sự can thiệp của nước ngoài, phù hợp với tình hình sau chiến trạnh Trong số những vấn đề hai bên miền Nam VN thảo luận có các biện pháp giãm số quân của họ và phục viên số quân đã giạm Hai bên miền Nam VN sẽ hoàn thành việc đó càng sớm càng tốt .
ĐIỀU 14 : Miền Nam VN sẽ thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình , độc lập. Miền Nam VN sẳn sàng thiết lập quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị và xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và nhận viện trợ kinh tế, kỹ thuật của bất cứ nước nào không kèm theo điều kiện chính trị . Vấn đề nhận viện trợ quân sự sau nầy cho miền Nam Vn sẽ thuộc thẩm quyền của chính phủ được thành lập sau tổng tuyền cử ở miền Nam VN nói trong điều 9(b).

CHƯƠNG  V
VẤN ĐỀ THỐNG NHẤT NƯỚC VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ QUAN HỆ GIỮA MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM VIỆT NAM
ĐIỀU 15 : Việc thống nhất nước VN sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cở sở bàn bạc và thỏa thuận giữa miền Bắc và miền Nam VN , không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài . Thời gian thống nhất sẽ do miền Bắc và miền Nam thỏa thuận.
Trong khi chờ đợi thống nhất :
a/ Giới tuyến quân sự giữa hai miền tại vĩ tuyến 17 chỉ là tạm thời và không phải là một ranh giới về chính trị hoặc về lãnh thổ như qui định trong đoạn 6 của Tuyên Bố cuối cùng của Hội Nghị Geneve năm 1954.
b/ Miền Bắc và miền Nam VN sẽ tôn trọng khu phi quân dự ở hai bên giới tuyến quân sự tạm thời.
c/ Miền Bắc và miền Nam Vn sẽ sớm bắt đầu thương lượng nhằm lập lại quan hệ bình thường về nhiều mặt . Trong các vấn đề sẽ được thương lượng ,có vấn đề thể thức đi lại dân sự qua giới tuyến quân sự tạm thời .
d/ Miền Bắc và miền Nam VN sẽ không tham gia bất cứ liên minh quân sự hoặc khối quân sự nào và không cho phép nước ngoài có căn cứ quân sự , quân đội , cố vấn quân sự và nhân viên quân sự trên đất mình , như Hiệp Định Gene ve năm 1954 về VN qui định .
CHƯƠNG VI
CÁC BAN LIÊN HỢP QUÂN SỰ, ỦY BAN QUỐC TẾ   KIỂM SOÁT VÀ GIÁM SÁT ,
HỘI  NGHỊ QUỐC TẾ.
ĐIỀU 16 : a/ Các bên tham gia Hội Nghị Paris về VN sẽ cử ngay đại diện để thành lập Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên có nhiệm vụ bảo đảm sự phối hợp hành động của các bên trong việc thực hiện các điều khoản sau đây của Hiệp Định nầy :
- Đoạn đầu của Điều 2 về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp miền Nam VN
- Điều 3(a) về việc ngừng bắn của lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác nói trong điều nầy
- Điều 3(c) về việc ngừng bắn giữa tất cả các bên ở miền Nam VN
- Điều 5 về việc rút ra khỏi miền Nam VN quân đội của Hoa Kỳ và quân đội của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a)         
- Điều 6 về việc hủy bỏ các căn cứ quân sự ở miền Nam VN của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a).
- Điều 8(a) về việc trao trả những nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt
- Điều 8(b) về việc các bên giúp đỡ lẫn nhau tìm kiếm tin tức về những nhân viên quân sự của các bên và thường dân nước ngoài của các bên bị mất tích trong chiến đấu.
b/ Ban Liên Hợp Quân Sư Bốn Bên sẽ làm việc theo nguyên tắc hiệp thương và nhất trí . Những vấn đề bất đồng sẽ chuyển cho Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát.
c/ Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên sẽ bắt đầu hoạt động ngay sau khi ký kết Hiệp Định nầy và chấm dứt hoạt động trong thời hạn 60 ngày , sau khi việc rút quân của Hoa Kỳ và quân của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a) và việc trao trả nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt đã hoàn thành.
d/Bốn bên sẽ thỏa thuận ngay về tổ chức, thể thức làm việc , phương pháp hoạt động và chi phí của Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên.
ĐIỀU 17 : a/ Hai bên miền Nam VN sẽ cử ngay đại diện để thành lập Ban Liên Hợp Quân Sự Hai Bên có nhiệm vụ bảo đảm sự phối hợp hành động của hai bên miền Nam VN trong việc thực hiện các điều khoản sau đây của Hiệp Định nầy :
- Đoạn đầu của Điều 2 về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp miền Nam VN , sau khi Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên chấm dứt hoạt động của mình .
Điều 3(b) về việc ngừng bắn giữa hai bên miền Nam VN
- Điều 3(c) về việc ngừng bắn giữa tất cả các bên ở miền Nam VN sau khi Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên chấm dứt hoạt động của mình.
- Điều 7 về việc không được đưa quân đội vào miền Nam VN và tất cả những điều khoản khác của điều nầy.
- Điều 8( c) về vấn đề trao trả các nhân viên dân sự VN bị bắt và giam giữ ở miền Nam VN.
- Điều 13 về việc giảm số quân của hai bên miền Nam VN và phục viên số quân đã giảm.
b/ Những vấn đề bất đồng này được ký kết , Ban Liên Hợp Quân Sự Hai Bên sẽ thỏa thuận ngay những biện pháp và tổ chức nhằm thực hiện ngừng bắn và giữ gìn hòa bình ở miền Nam VN.
ĐIỀU 18 : a/ Sau khi ký kết Hiệp Định nầy , thành lập ngay Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát.
b/ Cho đến khi Hội Nghị Quốc Tế nói ở Điều 19 có những sắp xếp dứt khoát , Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát việc thi hành những điều khoàn sau đây của Hiệp Định này :
- Đoạn đầu của Điều 2 về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp miền Nam VN
- Điều 3(a) về việc ngừng bắn của lực lượng Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác nói trong điều nầy
- Điều 3(c) về việc ngừng bắn giữa tất cả các bên ở miền Nam VN
- Điều 5 về việc rút ra khỏi miền Nam VN quân đội của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3 (a)
- Điều 6 về việc hủy bỏ các căn cứ quân sự ở miền Nam VN của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a)
- Điều 8(a) về việt trao trả những nhân viên quân dự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt.
Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát lập những tổ kiểm soát để làm những nhiệm vụ của mình. Bốn bên sẽ thỏa thuận ngay về chỗ đóng và sự hoạt động của các tổ đó . Các bên sẽ làm dễ dàng cho hoạt động của các tổ đó.
c/ Cho đến khi Hội Nghị Quốc Tế có những sắp xếp dứt khoát , Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát sẽ báo cáo với hai bên miền Nam VN những vấn đề về việc kiểm soát và giám sát việc thi hành những điều khoản sau đây của Hiệp Định nầy:
- Đoạn đầu của Điều 2 về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp miền Nam VN , sau khi Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên chấm dứt hoạt động của mình
- Điều 3(b) về việc ngừng bắn giữa hai bên miền Nam Việt Nam
- Điều 3(c) về việc ngừng bắn giữa tất cả các bên ở miền Nam VN , sau khi Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên chấm dứt hoạt động của mình
- Điều 7 vể việc không được đưa quân đội vào miền Nam VN và tất cả các điều khoản khác của điều nầy.
- Điều 8(c) về vấn đề trao trả các nhân viên dân sữ VN bị bắt và giam giữ ở miền Nam VN
- Điều 9(b) về tổng tuyển cử tự do và dân chủ ở miền Nam VN
- Điều 13 về việc giảm số quân của hai bên miền Nam VN và phục viên số quân đã giảm
Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát lập những tổ kiểm soát để làm nhiệm vụ của mình. Hai bên miền Nam VN sẽ thỏa thuận ngay về chỗ đóng và sự hoạt động của các tổ đó. Hai bên miền Nam VN sẽ làm dễ dàng cho hoạt động của các tổ đó ,
d/ Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát sẽ gồm đại diện của bốn nước: Ba Lan, Canada, Hung Ga Ri, Nam Dươn. Các thành viên của Ủy Ban Quốc Tế sẽ luân phiên làm chủ tịch trong từng thời gian do Ủy Ban Quốc Tế qui định .
e/ Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát thi hành nhiệm vụ của mình theo nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của miền Nam VN.
f/ Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát làm việ theo nguyên tắc hiệp thương và nhất trí .
g/ Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát sẽ bắt đầu hoạt động khi ngừng bắn có hiệu lực ở Việt Nam . Đối với các điều khoản liên quan đến bốn bên nói trong Điều 18(b)
Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát chấm dứt hoạt động của mình khi nhiệm vụ kiểm soát và giám sát của Ủy Ban đối với các điều khoản đó đã hoàn thành. Đối với các điều khoản liên quan đến hai bên miền Nam VN nói ở điều 18(c) , Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát chấm dứt hoạt động của mình theo yêu cầu của chính phủ được thành lập sau tổng tuyển cử ở miền Nam VN nói ở điều 9(b)
h/ Bốn bên thỏa thuận ngay về tổ chức, phương tiện hoạt động và chi phí của Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát. Mối quan hệ giữa Ủy Ban Quốc Tế và Hội Nghị Quốc Tế sẽ do Ủy Ban Quốc Tế và Hội Nghị Quốc Tế thỏa thuận.
ĐIỀU 19 :Các bên thỏa thuận về việc triệu tập một Hội Nghị quốc tế trong vòng 30 ngày kể từ khi ký Hiệp Định nầy ghi nhận các Hiệp Định đã ký kết , bảo đảm chấm dứt chiến tranh , giữ vững hòa bình ở VN, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Vn và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN , góp phần vào hòa bình và bảo đảm hòa bình ở Đông Dương.
Hoa Kỳ và VN Dân Chủ Cộng Hòa thay mặt các bên tham gia Hội Nghị Paris về VN, sẽ đề nghị các bên sau đây tham gia Hội Nghị Quốc Tế nầy : Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Cộng Hòa Pháp, Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết , Liên Hiệp Vương Quốc Anh, bốn nước ở trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát và Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, cùng với các bên tham gia Hội Nghị Paris về Việt Nam

CHƯƠNG VII
ĐỐI VỚI CAMPUCHIA VÀ LÀO
ĐIỀU 20 :a/ Các bên tham gia Hội Nghị Paris về VN phải triệt để tôn trọng Hiệp Định Geneve năm 1954 về Campuchia và Hiệp Định Geneve năm 1962 về Lào đã công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Campuchia và nhân dân Lào : độc lập, chủ quyền , thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước đó. Các bên phải tôn trọng nền trung lập của Campuchia và Lào..
Các bên tham gia Hội Nghị Paris về VN cam kết không dùng lãnh thổ của Campuchia và lãnh thổ của Lào để xâm phạm chủ quyền và an ninh của nhau và của các nước khác .
b/ Các nước ngoài sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Campuchia và Lào , rút hết và không đưa trở lại vào hai nước đó quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự,vũ khí , đạn dược và dụng cụ chiến tranh.
c/ Công việc nội bộ của Campuchia và Lào phải do nhân dân mỗi nước nầy giải quyết , không có sự can thiệp của nước ngoài ..
d/ Những vấn đề liên quan giữa các nước Đông Dương sẽ do các bên Đông Dương giải quyết trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền , toàn vẹn lãnh thổ của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

CHƯƠNG VIII
QUAN HỆ GIỮA HOA KỲ VÀ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
ĐIỀU 21 :Hoa Kỳ mong rằng Hiệp Định nầy sẽ mang lại một thời kỳ hòa giải với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng như với tất cà các dân tộc ở Đông Dương. Theo chánh sách truyền thống của mình , Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và toàn Đông Dương
ĐIỀU 22 :Việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở VN và việc thực hiện triểt để Hiệp Định nầy sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ mới, bình đẳng và cùng có lợi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa , trên cơ sở tôn trọng độc lập, chù quyền của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.Đồng thời những việc đó sẽ bảo đảm hòa bình vững chắc ở VN và góp phần giữ gìn hòa bình lâu dài ở Đông Dương và Đông Nam Á.

CHƯƠNG  IX
NHỮNG ĐIỀU KHOẢN KHÁC
ĐIỀU 23: Hiệp định nầy sẽ có hiệu lực khi đại diện toàn quyền của các bên tham gia Hội Nghị Paris về VN ký. Tất cà các bên có liên quan sẽ thi hành triệt để Hiệp Định nầy và các Nghị Định Thư của Hiệp Định
Làm tạo Paris, ngày 27-1-1973 bằng tiếng Anh và tiếng Việt Nạm Bản tiếng Anh và bản tiếng Việt đều là những bản chính thức và có giá trị như nhau.

Thay mặt Chính Phủ Hoa Kỳ                                     
William P. Roger. Bộ Trưởng Ngoại Giao                             
Thay mặt Chính Phủ VNCH
Trần Văn Lắm,Tổng Trưởng Ngoại Giao
HIỆP ĐỊNH PARIS 1973
----------o0o-----------

Ủy Ban Phục Hoạt Hiệp Định Paris 1973.
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Nhớ Lại Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1975

$
0
0

...Phải kiên cường tranh đấu đánh đổ cộng sản để đất nước có độc lập tự do, người dân được ấm no hạnh phúc, có đầy đủ tự do, dân chủ và nhân quyền.
Hãy nhớ ngày 30-4 là ngày Quốc Hận.


Nhớ Lại Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1975
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
Nhớ Lại Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1975

Thời gian đi quá nhanh. Như vó câu qua cửa sổ. Thấm thoát từ ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản miền Bắc, Việt Nam thống nhất thành XHCN đến nay đã 43 năm. Gần một nửa thế kỷ. Một đời người.
Viết về ngày 30-4 thì có nhiếu điều phải viết. Cả người ngoại quốc lẫn người Việt mình, trong cũng như ngoài nước, bên thắng cuộc cũng như bên thua cuộc đều đã viết. Nhiều lắm! Hỷ nộ ái ố, hay dở đều có cả. Khía cạnh nào cũng làm người đọc phải nửa khóc nửa cười, thương cho quê hương mình sao mà nhiều gian truân cợ cực thế. Vì ai nên nỗi? Chúng ta nhất là giới trẻ phải làm gì cho đất nước được độc lập toàn vẹn, dân tộc trong nước được hạnh phúc, hết đau thương khốn khổ, được sống trong hòa bình an vui, không còn lo sợ từ miếng cơm đến nơi ăn chốn ở, việc làm, lời ăn tiếng nói không phải e dè, bị cấm đoán, nói gì cũng phải nhìn trước nhìn sau xem có công an đang sẵn sàng bắt mình về đồn điều tra vì tội chông phá nhà nước, không còn cảnh dân oan bị ức hiếp, bị cướp nhà cướp đất, cướp ruộng vườn…
Khi cs Bắc Việt tung chiến dịch đánh chiếm miền Nam Việt Nam thì chúng nói là làm“cách mạng” “giải phóng” dân chúng miền Nam khỏi gông cùm của Mỹ Ngụy, khỏi cảnh đói khổ lầm than, cái bát để ăn cơm không có, nói chi có cơm gạo. Saigon đã một thời là Hòn Ngọc Viễn Đông thì chúng cho là phồn vinh giả tạo, tối tăm tiêu điều thê thảm như bãi tha ma, người người đói khổ, trẻ con không được đi học, gầy ốm, nheo nhóc lê bước đi ăn xin ngoài đường phố. Vì vậy chúng ta phải chiến đấu để giải phòng đồng bào miền Nam khỏi cảnh kìm kẹp ấy của “Mỹ Ngụy”? Nhưng ngày 30-4 những chú bộ đội Bắc Việt lúc tiến vào Saigon, đã tận mắt nhìn thấy thực tế. Saigon với nhà cửa, building chọc trời sáng chói, xe cộ nhộn nhịp, người dân vui khỏe, đúng cảnh “Ngưa xe như nước, áo quần như nêm” thì các chú choáng váng ngớ người ra. Tại sao Bác và Đảng nói thế mà bây giờ bon ngụy nó thế này? Đồ ăn thức uống dư thừa. Có người đã phải ngồi xụp xuống vệ đường như bị xỉu. Vì sung sướng đã chiến thắng hay thất vọng vì cảnh đời oái oăm trái ngược? Nhà văn Dương thu Hương lúc đó là bộ đội đã phải ôm mặt khóc bên vệ đường vì bị Bác và Đảng lừa một cách trắng trợn. Không phải một mình bà mà nhiều cán bộ và bộ đội khác, toàn thể dân chúng miền Bắc, có đôi chút suy tư đã thất vọng thốt lên: Phải nói dân miền Nam giải phóng miền Bắc mới đúng.
Cảnh bộ đội hay dân Bắc vào Nam khênh đồ về Bắc từng con búp bê nhỏ bằng nylon, cái đồng hồ đeo tay không người lái, cái radio nhỏ cũ kỹ, cái quạt máy rỉ đến cái chén, cái bát sứ để dùng hoặc làm quà cho vợ con hoặc người nhà. Một anh bộ đội thấy dân miền Nam uống nước ngọt có đá lạnh, một điều mà dân miền Bắc chưa bao giờ có và nhìn thấy.. Trước khi về, anh đã lấy một thùng đá lạnh mang về Bắc để làm quà cho bà con. Anh bọc thật kỹ, quấn thật chặt thùng đá bằng nhiều lớp vải để không bị rơi, khỏi ai ăn cắp! Dọc đường vì nóng quá anh mở ra đề uống chút nước lạnh thì thùng đá lớn đã đi đâu mất rồi. Anh bực mình thốt ra: Mấy thằng ngụy Nam Kỳ mất dạy quá. Mình đã giữ chặt, gói kỹ như vậy mà chúng cũng ăn cắp được. Đúng là Mỹ Ngụy toàn là lũ lưu manh!!! Đấy, những người mệnh danh là cách mạng, đi giải phóng, mang văn minh cho người mà tâm tư hiểu biết như vậy! Còn nhiều chuyện cười ra nước mắt không thể kể ra hết được. Tội cho con người bản tính hiền lành chất phác bị bọn đầu não Hồ chí Minh và đảng cs che mắt, bịt tai để bịp bợm, nhồi sọ hầu dễ bề khống chế dạy bào theo đường hướng gian manh của chúng. Dân miền Nam cũng biết rõ thực chất khốn khổ và lầm than của người dân dưới chế độ cs do HCM cai trị. Những cái mà đảng cs và HCM tuyên truyền bịp bợm về cảnh bị kìm kẹp đói khổ ức hiếp của dân miền Nam thì lại chính là cảnh mà dân miền Bắc phải gánh chịu mà còn tàn tệ hơn thế nữa về cả tinh thần lẫn thể chất.
Thế rồi hơn triệu người dân miền Nam bằng mọi giá vượt biên trốn ách cs đã làm dân chúng miền Bắc cà miền Nam và thê giới tỉnh ngộ. Sau này, khi khối cs đầu não ở Liên Sô, Đông Âu xụp đổ năm 1989, bức màn sắt, màn tre kéo xuống, người dân Việt mới vỡ lẽ phân biệt giữa quốc gia, phe tự do và cs độc tài. Quá muộn. Nhưng muộn còn hơn không.
Đến hôm nay, 41 năm sau khi miền Nam bị cs Bắc Việt chiếm, đất nước thống nhất hòa binh, nhưng tình trạng kinh tê chính trị giáo dục văn hóa xã hội ra sao mọi người trong, ngoài nước và thế giới đều đã biết rõ. Toàn dân Việt vẫn lầm than đói khổ đạo đức suy đồi, tự do nhân quyền không có…So sánh với miền Nam trước 1975 vẫn còn thua, nói chi toàn vùng Đông Nam Á.
Ai giải phóng ai? Miền Nam hay miền Bắc?
Nói đánh cho “Mỹ cút”, nhưng khi Mỹ đi rồi, bọn cầm quyền csVN lại cầu cạnh, mời Mỹ trở lại VN. Quan chức cs thì thi nhau gửi con cháu đi Mỹ học và, nếu có cơ hội là ở lại sinh sống. Mọi người từ quan chí dân coi nước Mỹ như thiên đàng. Được sống ở Mỹ là mơ ước đã đạt.
Trong khi đó, vì muốn giữ mãi địa vị độc tôn, độc quyền để ăn cắp, ăn cướp tài nguyên quốc gia, bóc lột dân chúng, bọn cầm quyền ở Bắc Bộ Phủ vì hèn vì nhát đã cam tâm phủ phục trước kẻ thù truyền kiếp của dân tộc là Tầu khựa -tại hội nghị thành Đô 1990- đã ký kết với Trung quốc xin được đặt dưới sự chỉ đạo và che chở của Trung quốc. Việt Nam lại một lần nữa bị Bắc Thuộc.
Hiện nay, dù chưa chính thức trở thành một tỉnh lỵ của Trung Quốc, những trọng điểm về kinh tế quân sự đã nằm trọn trong tay Trung Quốc. Trước năm 2008, người Tàu vào Việt Nam được miễn hộ chiếu và có thể di chuyển tự do trong phạm vi miền Bắc mà thôi. Cuối năm 2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lại miễn hộ chiếu và nới rộng vùng di chuyển của ngưới Tàu đến tận Cà Mau. Quyết định nầy chính là điểm mấu chốt và là điểm khởi đầu thực sự trong âm mưu Hán hóa Việt Nam của TC và đảng csVN. Hiện nay, người ta thấy ngưới Tầu hiện diện trên khắp hang cùng ngõ hẹp của đất nước. Trong hơn 65 khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, không đâu là không thấy công nhân, quản đốc và chủ nhân người Hoa, trong lúc người lao động Việt Nam khắp nơi phải chịu cảnh thất nghiệp! Trong các nhà máy sản xuất có tính cách quốc phòng như nhà máy phát điện nhà máy gang thép, sản xuất hóa chất công nghiệp…đâu đâu cũng có chủ nhân và công nhân người Tàu…Ngoài 9 tỉnh địa đầu hầu như chịu ảnh hưởng của người Tàu, đường xá mang tên Tàu, hàng quán, chợ búa mang tên Tàu, thậm chí cung cách trang hoàng những ngày Tết cũng đậm nét Tàu như treo lồng đèn đỏ dọc theo các đường phố chính, trưng bày hàng hóa thực phẩm Tàu…Trên 306.000 hecta đất cho Tàu thuê mướn trong 50 năm với giá rẽ mạt, chiếm toàn những vị trí kinh tế, chiến lược trọng yếu ở Bắc Việt, như mỏ boxit ở Cao Nguyên Lâm Đồng, căn cứ Tam Điệp là nơi Bộ Chính trị cs VN ẩn náo trong giai đoạn chiến tranh năm 1972. Trên biển thì Hoàng Sa đã bị Phạm văn Đồng và HCM công khai ký giấy cho Tấu. Sau này Trung Cộng ngang nhiên chiếm thêm Trường Sa và các đảo chìm chung quanh, đổ cát đá làm phi trường quân sự để khống chế biển Đông, chiếm cả vùng biển đánh cá, đuổi bắt, giết, đánh chìm tàu đánh cá của ngư dân VN mà nhà nước không hề can thiệp hoặc phản đối. Dân chúng biểu tình chống đối TC chiếm Hoàng Sa, Trường Sa thì công an bắt bớ đàn áp tàn ác. Câu nói “csVN ác với dân hèn với giặc” đã trở thành tục ngữ lưu truyền trong dân gian. Mọi người ai cũng biết csVN là đầy tớ của TC, còn TC là kẻ xâm lược VN. Dân chúng trước kia thường nghe cs tuyên truyền gọi miền Nam là Mỹ-Ngụy thì nay họ đổi ra là Hán-Ngụy.
Chúng ta, những người đã rời bỏ đất nước trốn ách cs độc tài bằng mọi giá. Thuyền nhân. Bộ nhân, HO hay xum họp. Khi ra đi, chúng ta có nghĩ đến ngày trở về không? Chúng ta nghĩ gì và phải làm gì khi đất nước đang bị Bắc Thuộc trở lại, dân tình đói khổ lầm than, bị áp bức cướp đất cướp nhà, dân oan khiếu kiện từ Bắc vào Nam, giáo dục mất gốc, xã hội tha hóa, văn hóa đồi trụy, đàn bà con gái phải đi làm dâu khắp thế giói, phải đứng trần chuồng cho người ta ngắm nhìn sờ nắn để chọn làm vợ. Dân tộc ta từ ngàn xưa có bao giờ phải nhục như vậy đâu? Khi xưa cộng sản tuyên truyền “đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào”, bây giờ sau gần 50 năm sự thật đã phơi bày rõ ràng, giửa csVN và VNCH ai là ngụy, giữa Mỹ và Tàu Cộng ai là thực dân xâm chiếm VN? Tại sao chúng ta không quyết đánh cho “Tàu cộng cút, Ngụy cs nhào”? Chiến đấu như vậy mới là chính nghĩa.
Lịch sử là một sự tái diễn. Đời không có gì là vĩnh viễn. Cộng sản Nga đang hùng mạnh bỗng chốc xụp đổ tan tành kéo theo cả Đông Âu. CS Tầu và cs VN cũng không là ngoại lệ. Cs càng gian manh tàn ác bao nhiêu thì càng xụp đổ nhanh bấy nhiêu. Marx nói chỗ nào có bất công, đàn áp chỗ đó có đấu tranh. Quốc nội đã nổi lên. Hải ngoại chúng ta phải yểm trợ quốc nội. Muốn tranh đấu cần phải có một biểu tượng là lá cờ vàng ba sọc đỏ, tượng trưng cho chính nghĩa quốc gia, độc lập tự do nhân quyền nhân bản…Lá cờ đó đã được hầu hết các tiểu bang Hoa Kỳ công nhận là cờ của người Mỹ gốc Việt tỵ nạn cs. Quốc hội Hoa Kỳ đã công nhận và đặt một ngày trong năm là ngày Nhân Quyền cho VN. Đừng nghe tuyên truyền bịp bợm của cs và tay sai hoặc những trí thức tay mơ, nằm vùng, trí vận nói lá cờ vàng chỉ là dĩ vãng, là hoài niệm. Dân miền Nam đã mắc mưu cs qua bọn thành phần thứ ba / MTGPMN. Chúng cũng có lá cờ riêng. Khi cs chiếm được miền Nam, lá cờ MTGPMN có còn không?
Gần 50 năm thống nhất đất nước, cs không làm gì gọi là phục vụ cho dân cho nước, trái lại chỉ tàn phá, bán nước cho ngoại bang, đàn áp hành hạ bóc lột dân, cướp nhà cướp đất, vơ vét cho đầy túi tham, mặc cho dân tình đói khổ, đã làm cho đất nước tụt hậu về đủ mọi mặt. Chúng đã để lại cho đất nước biết bao nhiêu di hại về văn hóa, giáo dục, tôn giáo, đạo đức với dối trá, lừa lọc, gian manh, vô cảm…không biết bao giờ mới rửa cho sạch. Nhìn đất nước thì thấy quả là bi quan. Có người thất vọng thở dài chẳng bao giờ cs bị xụp đổ. Nhưng ý nghĩ đó hoàn toàn sai lầm. Nhìn lịch sử Việt Nam từ ngày lập quốc cho đến nay, dân tộc ta dù gặp biết bao gian nguy vẫn không bao giờ chịu thua. Bị nhà Hán tấn chiếm Quảng Dông, Quảng Tây và Vân Nam, dân ta phải suôi nam lập thành nước Việt Nam. Đến thời Trịnh-Nguyễn phân tranh dân ta lại Nam tiến lập thành nước Việt Nam hình chữ S từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Hơn 1000 năm đô hộ giặc Tầu, 100 đô hộ giặc Tây nhưng chúng ta vẫn giành lại được đất nước, không để mất vào tay ngoại bang. Tại sao bây giờ chúng ta có thể để đất nước rơi vào tay cs và Tàu cộng? Tương lai đất Việt nằm ở tay những người trẻ. Chúng ta có bổn phận giáo dục, hun đúc tinh thần tự hào dân tộc, yêu quê hương của con cháu chúng ta như tinh thần anh hùng Hai Bà Trưng, Lý thường Kiệt, Trần hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung v.v. Nhớ lại những trang sử oai hùng của tổ tiên và dân tộc ta. Có vậy mới hy vọng cứu sống nước Việt thân yêu của chúng ta thoát ách cs và Tàu cộng. Đừng thất vọng. Do Thái mất nước mấy ngàn năm từ trước kỷ nguyên. Bị nô lệ bởi Ai Cập, rồi bị đày đi Babylone, Perse, Macedona, Syria bao nhiêu trăm năm, sau này lại bị La Mã đô hộ. Nước mất dân phân tán đi khắp thế giới, vậy mà năm 1948, vì tinh thần yêu nước và đoàn kết dân tộc, Do Thái chỉ với nửa triệu người đã lập lại một quốc gia lấy tên là Israel, ngày nay là một quốc gia văn minh hùng mạnh nổi tiếng trên thế giới. Người Do Thái đã muôn người như một cùng một lòng yêu quê hương, đoàn kết đồng bào, giữ vững mọi tập tục dân tộc. Việt Nam chúng ta với hơn 2 triệu người trên khắp thế giới với những đức tính cần cù, chăm chỉ, thông minh và tình tự dân tộc, yêu quê hương…chắc chắn phải lấy lại được quê hương khỏi tay cs. Có lật đổ được cs mới có thể đánh đuổi được Tàu cộng trở về Tàu.
ĐÔI LỜI KẾT
Lịch sử Việt Nam có một hướng đi rõ rệt: Nam tiến. Phía Bắc là cường địch, phía Nam là con đường thoát hiểm. Bến bờ hy vọng mở ra ở phương Nam. Sự sống còn của Việt Nam tùy thuộc vào phương Nam. Còn đường Nam tiến, Viêt Nam còn tồn tại.
Ngày 30-4-1975, chúng ta bị dồn xống tận cùng phương Nam. Hết đất đi chúng ta đã lao vào đại dương. Từ đó Việt Nam thoát xác. Nam tiến trở thành siêu tiến: Chúng ta vượt biển để tiến ra thế giới. Trong khoảng 10 năm, hơn 2 triệu người Việt Nam đã vượt đại dương tràn vào thế giới. Đến nay thế hệ thứ hai thứ ba sinh sôi nảy nở khá nhiều. Đây là thành phần nòng cốt cho một Việt Nam ngày mai tươi sáng. Một nước Việt Nam khác đang thành hình trong lòng thế giới.
Di dân mở nước vốn là truyền thống của con cháu Lạc Hồng.
Vận mệnh của Việt Nam đã ra khỏi Việt Nam. Tương lai của Việt Nam không mở ra ở Việt Nam, nhưng sẽ mở ra trên toàn thế giới. Rời bỏ quê hương với hai bàn tay trắng, nhưng chỉ hơn 10 năm trời, sức sống của dân tộc ta đã làm cho người dân địa phương phải kính phục từ chính trị, văn hóa xã hội đến thương mại khoa học. Chúng ta có một tài sản vô cùng quí báu là khối chuyên viên kỹ thuật gồm đủ mọi ngành nghề, nhân biến động lịch sử đã được đào luyện trong những đại học lừng danh trên thế giới trong một thời gian kỷ lục mà từ xưa tới nay chưa một quốc gia chậm tiến nào có được kể cả Nhật Bản. Tài nguyên có, khả năng có, chỉ còn cần một Tấm Lòng Cương Quyết thế tất đất nước sẽ thoát khỏi ách cộng sản độc tài, Tàu cộng sẽ phải rời khỏi quê hương chúng ta, đất nước sẽ giàu mạnh, dân tộc sẽ phú cường hạnh phúc. Sự sống còn của quê hương Việt Nam tùy thuộc hoàn toàn vào sự lớn mạnh của phần siêu quốc gia Việt Nam này.
Mượn đất người sống đời mình,
Mược sức người làm việc mình,
Mượn thế người thăng tiến mình.
Đó là con đường siêu tiến của Việt Nam hải ngoại. Siêu tiến để thực hiện vận mệnh Việt Nam bằng những phương tiện của thế giới. Siêu tiến để chuyển hóa tài lực của thế giới thành tài lực của Việt Nam. Siêu tiến để khai thông những hưng thịnh của thế giới chảy đổ về quê hương mình khi mà bon cs ở Bắc Bộ Phủ bị tiêu giệt.
Những người Việt Nam trên thế giới liên kết với nhau hoàn thành cuộc siêu tiến này: NHANH, quê hương sẽ thăng tiến nhanh, thoát ách cs độc tài nhanh; CHẬM quê hương sẽ thăng tiến chậm. Nhưng trên hết và trước nhất, chúng ta phải liên kết với nhau để bảo vệ và thăng tiến chính cuộc đời ta ngay lúc này trong cộng đồng thế giới. Một Việt Nam hải ngoài. Một Việt Nam bên ngoài Việt Nam. Một siêu quốc gia Việt Nam với đầy đủ trí lực và vật lực. Lúc đó ta có thể tự lực về mọi mặt. Lúc đó ta không còn phụ thuộc vào một thế lực nào khac. Ta không bị thế lực nào bán đứng, bức tử chúng ta như trong quá khứ. Lúc đó cộng sản làm sao mà tồn tại được. Tàu Công làm sao có thể tiếp tục đô hộ đất nước chúng ta được. Tất cả đều cậy nhờ ở thế hệ trẻ, những hậu duệ của người Việt tỵ nạn cộng sản, yêu nước yêu quê hương giống nòi, không chấp nhận cộng sản tàn ác vô luân và bán nước..
Phải kiên cường tranh đấu đánh đổ cộng sản để đất nước có độc lập tự do, người dân được ấm no hạnh phúc, có đầy đủ tự do, dân chủ và nhân quyền.
Hãy nhớ ngày 30-4 là ngày Quốc Hận.
Fleming Island, Florida
April 2018
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh


__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Lisa Phạm Số 413 Live stream 19h VN (8h sáng hoa kỳ ) mới nhất hôm nay K...

TÂM TÌNH VỚI BẠN XƯA

$
0
0

Có phải ông Nguyễn Mậu Trinh này không ạ ?
  
Đỗ Danh Ái

 

From: bangphongdvam
Sent: 12/12/2017 3:32:26 P.M. Central Standard Time
Subj: Re: TÂM TÌNH VỚI BẠN XƯA

Trinh thân mến,
Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, những người trí thức hiểu chuyện mà im lặng, nên bọn giả hình như Dương Quỳnh Hoa, Ngô Bá Thành, ni sư Huỳnh Liên, Trí Quang, Nhất Hạnh mới làm cho công cuộc chiến đấu Chống Cộng của chúng ta mất chính nghĩa.
Tôi khẳng định với bạn rằng trí thức Miền Nam thiếu trách nhiệm với Đất Nước.
Quân Đội hùng mạnh, thiện chiến đến thế nào đi nữa cũng không thể nào chiến thắng địch quân ngoài tiền tuyến, khi mà hậu phương bị bọn phản chiến giả hình liên tục gây xáo trộn.
Bọn phản chiến giả hình là bọn kêu gọi hòa bình mà chỉ buộc quân đội Miền Nam buông súng và đuổi Mỹ; nhưng không đòi quân xâm lăng Bắc Việt rút quân về Miền Bắc.
Qua sự trình bày của Tiến sĩ Nguyễn Võ Long, tôi nhận thấy cách thức ông đứng ra lập Phong Trào không đứng đắn, nghiêm chỉnh, thiếu sửa soạn. Ông viện dẫn câu nói của ông Nguyễn Bá Trạc là ca dao, thì ông không hiểu ca dao là gì; chứ không phải ông sơ sót.
Về kiến thức sơ đẳng để trình bày với cử tọa, ông Tiến sĩ cũng không có mà ông nói rằng ông sẽ huấn luyện giới trẻ tiếp tục phong trào của ông thì tôi thấy nguy quá. Ông tính dẫn thế hệ trẻ "xuống hố cả nút"à?
Về điểm ông Tiến sĩ nói rằng ông sẽ thuê những "think tank" của Đảng Dân chủ làm việc cho ông để khi Đảng Dân chủ lên cầm quyền thì ông sẽ sử dụng họ. Sau đó, khi Đảng Dân chủ lên cầm quyền thì ông sẽ thuê những "think tank" của Đảng Cộng hòa làm việc cho ông. Tôi cảm thấy lùng bùng lỗ tai quá sức!
Chưa bao giờ tôi được nghe một ông Tiến sĩ nào nói điều lạ lùng như thế. Trong khi  đó, cử tọa vỗ tay rào rào, làm cho tôi lo lắng hơn.
Bởi vì trình độ nhận thức của cử tọa như thế thì phong trào sẽ đi về đâu?
Tôi biết bạn Trinh ở gần ông Tiến sĩ, có nhiều cơ hội gặp gỡ ông thì bạn nên khuyên ông nên dành thì giờ nghiên cứu cho chu đáo, trước khi xuất hiện giang hồ làm chuyện cứu nước.
Nếu như cách đây hơn 30 năm những nhà hoạt động chính trị lão thành, những nhà trí thức, Tướng lãnh có trách nhiệm với Đất Nước khuyên ông Hoàng Cơ Minh đừng làm kháng chiến kiểu "mỳ ăn liền" làm mất NIỀN TIN ĐỒNG BÀO, thì ngày nay không có Đảng Việt Tân để cho nhà văn Trần Khải Thanh Thủy gọi  một cách châm biếm là Đảng Việt Tanh.
Trinh nên nhớ tôi góp ý xây dựng để cho Việt Cộng không chê cười những người Việt Chống Cộng chẳng chịu trưởng thành.
Tôi chỉ lên tiếng trong tinh thần trách nhiệm của một người Chống Cộng thôi nghe Trinh! Tôi không muốn làm phật lòng bạn đâu.
Tôi biết lời nói thật dễ mất lòng. Nhưng Tiến sĩ Nguyễn Võ Long là người chấp nhận dấn thân vì Đất Nước thì nên biết lắng nghe tiếng nói chân chính của một người lính suốt đời Chống Cộng.
Tiền bạc, thiện chí chưa phải là điều kiện ắt có và đủ để dựng lên phong trào.
Nó đòi hỏi khả năng vận động quần chúng bằng những sách lược, chiến lược khoa học, có tính thuyết phục cao và đội ngũ cán bộ có trình độ.
Thân ái,
Bằng Phong Đặng văn Âu


2017-12-12 9:35 GMT-08:00 Trinh Nguyenmau <trinh.nguyenmau@gmail.com>:
Bạn Âu ơi :
Tôi ít nói, nói ít, ít ai biết có trên đời này, biết tôi lớn lên ở Quốc Học, làm tarzan gãy cẳng, là cái này, cái kia. Cũng vì sợ làm ồn, làm phiền, trong khi chẳng làm việc.
Chỉ có một lần tôi phải lên tiếng nhận sai sót và xin lỗi làm phiền người khác, mất công chưởi bới.
Nhưng riêng với bạn, biết rõ bằng xương bằng thịt, lại bị/được gọi tên thì phải thưa thốt cho phải phải phép thôi, mà NMT chỉ là cái cớ -bạn luôn thiếu.
Sẽ gọi phone nói nhiều hơn -chuyện ngắn, chuyện dài, như không có ngày chia tay.
Tiếc lần này chỉ sang vài ba ngày, chính cho sinh-hoạt của Mạng Lưới Nhân Quyền thôi, mất dịp được ăn món ngon của chị Hồng.
Dù chưa đến nỗi như những người bệnh ở giai-đoạn cuối, chỉ nói được một tiếng "Mệt" với người đến thăm, nhưng tôi cũng đã thấy khó, những chuyện mà trước đây là khoái.
Rồi cũng phải hết, sao không ngay bây giờ !
Thân chúc luôn vui -vui chung.
NMTrinh


2017-12-11 14:18 GMT-08:00 AU DANG <bangphong>:
Nguyễn Mậu Trinh thân mến,

Trong tâm tình của người bạn cùng học trường Quốc Học,
Trong tâm tình của một người lính từng phục vụ trong Quân Lực VNCH,
Tôi viết thư này cho bạn với tư cách của một người trung thành với Đất Nước Việt Nam, noi mà chúng ta cùng sinh ra. Tôi nói như vậy, có nghĩa là kiếp sau hai đứa mình có thể đầu thai thành công dân của hai nước xa lạ. Biết đâu?
Nhưng bao lâu chúng ta cùng là con Bà Mẹ Việt Nam thì chúng ta phải đền ơn, báo hiếu bà Mẹ Việt Nam để bà không bị nhục lây bởi những đứa con lạc loài.
Sở dĩ tôi phải nói dài dòng với Trinh như thế để Trinh hiểu rằng tôi khônbg muốn tình bạn giữa hai chúng ta bị sứt mẻ vì sự bất đồng quan điểm. Tôi hoàn toàn vô tư, không thiên vị để nhận định buổi nói chuyện của Tiến sĩ Nguyễn Võ Long vào ngày 10 tháng 12 tại Westminster và nói thẳng nhận định của mình với bạn.
Từ ngày rời Houston về sống tại Thủ phủ Người Việt Tị Nạn, ban đầu tôi có đi nghe các buổi nói chuyện của các diễn giả chính trị, đi tham dự các buổi ra mắt truyên, thơ. Nhưng về sau, tôi không muốn đi dự nữa, bởi vì cảm thấy mất thì giờ một cách vô ích.
Nhưng vừa rồi tôi đi dự buổi nói chuyện của Tiến sĩ Nguyễn Võ Long, vì biết bạn đang ủng hộ ông Tiến Sĩ đang hô hào thành lập Phong Trào Đuổi Tầu Cộng cứu nước Việt Nam.
Tôi đã từng nói thẳng với ông Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh là Kháng Chiến kiểu "Mỳ Ăn Liền" thì trước sau gì ông đầu đảng sẽ trở thành thảo khấu.
Tôi cũng đã từng nói thẳng với ông Đại tá Phạm văn Liễu rằng ông dùng tài hùng biện để hô hào Kháng Chiến Mỳ Ăn Liền thì trước sau gì ông sẽ là kẻ tiếp tay với quân đại bịp.
Lúc bấy giờ hai ông rất giận. Nhưng nếu hai ông bình tĩnh nghe lời tôi thì bản thân hai ông không bị ô danh và người Việt Tị Nạn Cộng Sản không mang mối nhục.
Trinh hỏi tôi tại sao đồng bào tị nạn mang nỗi nhục vì sự thất bại của Kháng Chiến Mỳ Ăn Liền phải không?
Tôi xin trả lời:
Sau khi cuộc hợp tác của ông Minh, ông Liễu tan rã, ông Minh dẫn một nhóm nhỏ anh em Kháng Chiến lên đường Đông Tiến. Không một người nào có chút kinh nghiệm chiến tranh mà không ý thức hành quân chống địch thì phải hết sức bị mật. Nhưng ông Nguyễn Xuân Nghĩa, cháu ruột của Tổng Bí thư Mười Cuc Nguyễn văn Linh, giữ chứ Tổng vụ Tuyên Huấn của Mặt Trân, đăng tin về cuộc hành quân Đông Tiến trên tờ báo Kháng Chiến, thì khác nào ông Nghĩa báo cáo VC biết trước hành quân?
Ông HCMinh bị VC phục kết, chết từ năm 1987 mà mãi đến năm 2001, tức là 14 năm sau Đảng Việt Tân mới công bố tại Đức Quốc.
Nếu Trinh có đọc cuốn Hành Trình Của Người Đi Cứu Nước của Phạm Hoàng Tùng (một cựu Kháng chiến quân) thì thấy ngay đó là bản cáo trạng liệt kê tội ác của Hoàng Cơ Minh. Thế nhưng ngày nay vẫn còn những người đã thấy rõ bộ mặt thật của Kháng Chiến/Việt Tân, vẫn còn tiếp tục hoạt động cho Việt Tân, bởi vì ham tiền.
Đám truyền thông có đông độc giả tỏ ra tồi bại vì đã im lặng trước cái chết của bạn đồng nghiệp là ký giả Đạm Phong, Lê Triết. Tới nay họ vẫn tiếp tục tồi bại không đăng những tố cáo của Nguyễn Thanh Tú vì họ không đăng bất cứ bài viết của bất cứ tác giả nào đề cập đến tội ác của Việt Tân. Theo tôi, đó là một tập đoàn truyền thông tồi bại, không có lương tri chức nghiệp, chỉ biết chạy theo đồng tiền.
Chỉ có Việt Cộng hay Việt Tân mới có tiền để mua truyền thông bất lương mà thôi.
Nói như thế để Trinh thấy rõ truyền thông Việt Nam ở hải ngoại phần lớn bị Việt Cộng nắm đầu.
Tiến sĩ Nguyễn Võ Long, theo tôi, là một người tài tử (amateur) đi làm việc nước, bởi qua sự trình bày của ông thì tôi thấy ông cẩu thả, coi thường cử tọa, khi nói đến câu của Nguyễn Bá Học "Đường đi khó ... " và câu hát "Cái nhà là nhà của ta ..." mà bảo đó hai câu ca dao để vận đồng quần chúng đi theo Phong Trào.
Ông Long nói đến âm mưu độc hại của Trung Cộng quá tầm thường mà bất cứ người nào theo dõi tin tức trên diễn đàn đều biết hơn thế nữa.
Tiến sĩ Nguyễn Võ Long không đưa ra được một sách lược, một chiến lược hành động nào xứng đáng làm cho người nghe tin tưởng. Ông bảo ông sẽ thuê những "think tank" của Đảng Dân Chủ để làm việc ông để khi Donald Trump hết làm Tổng thống, thì khi đảng Dân Chủ cầm quyền, ông sẽ có sẵn người do ông thuê làm việc cho ông sẽ làm theo yêu cầu đuổi Tàu của ông.
Tôi thấy có bà Jackie Bong Wright và ông Vi Anh (dân biểu VNCH) ngồi ở hàng ghế đầu. Không biết hai vị ấy nghĩ gì về buổi thuyết trình của ông Tiến sĩ Nguyễn Võ Long. Họ có thấy sự ấu trĩ của ông Tiến sĩ?
Tôi tin rằng ông Nguyễn Võ Long mới ra lò, lập phong trào, nhưng chưa có cán bộ cơ hữu. Vì vậy, ông đi "nói chuyện"ở địa phương nào xa xôi Hoa Thịnh Đốn thì ông phải nhờ đến cán bộ của Việt Tân mà thôi!
Việt Tân thoát thai từ Kháng Chiến lừa bịp của Hoàng Cơ Minh vẫn tiếp tục làm chuyện mờ ám, khuất tất. Tôi tin rằng Việt Tân đã bị Việt Cộng "blackmail"để làm công cụ cho Việt Cộng.  Tôi mong các anh em trẻ Việt Tân trong phong trào Phan Bội Châu đừng để cho Việt Tân lợi dụng, vô tình tiếp tay cho Việt Cộng mà không ý thức.
Nhiều đoàn thể quốc gia như Gia đình Phật tử, Hướng Đạo sau khi Việt Cộng cướp Miền Nam thì mới biết mình là công cụ của Việt Cộng. Lúc biết ra thì đã quá muộn.
Tôi không ở trong bất cứ đoàn thể nào, nên tôi không hề có sự đố kỵ mà đi nói xấu Việt Tân.
Tôi cũng không có tờ báo, đài phát thanh nào để cạnh tranh với họ nhằm gia tăng lợi nhuận.
Tôi viết cho Trinh thư này để thứ nhất, cảnh báo cho ông Tiến sĩ đừng làm công cụ cho Việt Tân. Và tôi cũng mong những người đang hoạt động cho Việt Tân, đừng làm công cụ cho Việt Cộng.
Việt Cộng không những bán nước cho Tàu Cộng mà thôi đâu. Việt Cộng đang theo lệnh Tàu Cộng để dùng người Việt Tị Nạn Cộng Sản làm Đạo Quân Thứ Năm chờ dịp hạ bệ nước Mỹ đó!
Làm việc nước là việc nghiêm chỉnh, có chuẩn bị tư tưởng và có một đội ngũ cán bộ được đào tạo thông hiểu chủ trương, đường lối của phong trào. Ông Tiến sĩ Nguyễn Võ Long ăn nói trước đám đông còn thua cả ông Thị trưởng Tạ Đức Trí trẻ hơn thì làm sao đủ sức lãnh đạo Phong Trào đuổi Tầu Cộng cứu nước? 
Niềm tin của đồng bào sau vụ lừa đảo của Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh đã bị lung lay, chao đảo lắm rồi. Tôi hy vọng bạn Nguyễn Mậu Trinh của tôi không giân vì những ý kiến chân thành này.
Thân ái chúc bạn và gia quyến một mùa Giáng Sinh an lành và một Năm Mới may mắn.

Bằng Phong Đặng văn Âu, bạn Trinh.




__._,_.___

Posted by: Ai Do 

TỰ TRUYỆN - THÁNG TƯ BUỒN

$
0
0


---------- Forwarded message ----------
Ba mươi tháng Tư là ngày.... quân cướp CS miền Bắc chiếm được miền Nam nên chúng vui mừng cũng phải,vì cướp ở đâu cũng thế,y chang bọn buôn lậu ma túy hay băng đảng tội ác có thương ai bao giờ đâu,hể cướp được tài sản của thiên hạ hay làm ăn bất chính bất chấp thủ đoạn để có tiền là chúng  cho là chiến thắng?Dân Việt chỉ biết có vua Hùng Vương là tổ của đất nước mình,chứ có biết Karl Mark,Lenine ,  là ai đâu nhưng chắc chắn là không phải dân Việt rồi và cũng không ưa gì vì thành tích giết hại cả chục triệu người của đảng CS Liên Xô bởi chủ trương bệnh hoạn của hai tên triết gia... biến thái ngồi không nghĩ bậy nêu trên.Gọi là biến thái chắc cũng đúng vì nếu là triết gia chân chính thì phải đưa xã hội con người đến chỗ ngày một tốt đẹp hơn mới phải,chứ đâu có chủ trương giết người cướp của nhân danh...cách mạng?Đúng là đại ngụy biện.

Con vi trùng cực độc cộng sản quốc tế nó được cấy vào tên Hồ chí Minh thất chí vì mộng làm bồi Tây không thành,lan truyền xuống đất nước VN khiến cho đất nước VN bị tàn mạt để phục vụ quyền lợi cho quan thầy Nga Tầu của chúng.Cuộc chiến tranh Nam Bắc ở Hoa Kỳ là cuộc chiến giải phóng nô lệ,thật là cao cả,cho nên không có sự phân biệt bạn thù sau chiến tranh,mà mọi người đều nổ lực cùng hợp tác để đưa nước Mỹ đến vị trí siêu cường ngày hôm nay,còn cuộc chiến gọi là... giải phóng miền Nam chỉ là cuộc xâm lăng của CS tay sai Bắc Việt,để áp đặt chế độ CS theo lệnh quan thầy của chúng.Có bao giờ bọn cướp trọng dụng nhân tài đâu?

Cho nên chúng không bao giờ xem dân miền Nam ,kể cả dân miền Bắc là đồng bào của chúng cả mà là kẻ thù với những hành động cướp đất  cuả dân từ Bắc chí Nam,bán cho Tầu sau khi nhường biển đảo,tài nguyên cho Tầu khai thác.Muốn cướp của thì phải... đưa ra đủ nguyên nhân để buộc tội và bỏ tù thì mới được ...danh chánh ngôn thuận,bằng không sẽ lộ ra bản chất ăn cướp quá... trơ trẻn thì..kỳ quá?

Cho nên hể sanh ra ở miền Nam thì đều... là có tội tưởng tượng cả,vì không có quyền bảo vệ cuộc sống  tự do của mình,dám chống lại chế độ cộng sản bốc lột,ăn cướp ,dưới danh từ hoa mỹ giải phóng ,mặc dầu không thuộc thành phần quân đội cầm súng để trực tiếp bảo vệ miền Nam.Đừng xem bọn cộng sản là cùng đồng bào dân tộc của mình mà lầm to.

Chúng đã bán linh hồn cho Ác quỷ cộng sản Nga Tầu hết rồi.Muốn có sự công bằng trong cuộc sống thì chỉ có cách duy nhất là dẹp lũ ác quỷ nầy đi.Cho nên,đừng có  ngạc nhiên khi thấy tại sao băng đảng mafia cộng sản VN ăn mừng... người Việt chiến thắng người Việt ,ngày ba mươi tháng Tư nhé?

On Sunday, April 22, 2018 3:57 AM,

TỰ TRUYỆN-THÁNG TƯ BUỒN

Ngày Sài Gòn sụp đổ, ba không là một sĩ quan VNCH. Làm bên ngành hành chánh nên không có cấp bậc, ba là truởng ty thông tin Gia Định. Có một khoảng thời gian ba làm thư ký toà hành chánh Gia Định.

Rồi Việt Cộng xâm chiếm miền Nam, ba bị bắt và lưu đày ở tận Hà Nam Ninh - Bắc Việt. Chúng nó biệt giam ba trong một căn phòng chỉ có 2 người. Trong đó có Đại tá Nguyễn Hữu Phước và ba. Mỗi ngày chúng nó đem cho ba 1 cục phèn chua hoà tan trong 1 cốc nước nhỏ và ép buộc ba phải uống trước mặt chúng. 18 tháng sau thì ba mất vì bịnh ung thư máu. Ở quê nhà gia đình hoàn toàn không biết về cái chết của ba.Ngày ba đi tù. Nhà mất. Vì không muốn đi vùng kinh tế mới nên mẹ đưa các con về quê ngoại ở một vùng quê xa xôi hẻo lánh ở miền Tây mênh mông sóng nước. Nơi đó có ông chủ tịch xã Hai Sanh mặt dày tối ngày mặc áo bà ba đi chân đất lạch bạch cứ ghé nhà động viên nhưng chủ yếu là muốn dzê mẹ Khoa.

Có bao lần ông cứ ngồi lì tới chiều tối mà không chịu về. Các anh trai hàng ngày đi bán bưng cực khổ về thấy cảnh chuớng tai gay mắt hoài nên tức sôi máu không nhịn được. Một chiều kia các anh giả vờ gây  lộn to tiếng với nhau rồi xách dao phai, xách mác rượt nhau chém và chạy ra tới ngoài nhà trước chổ ông ấy đang ngồi. Anh thì núp sau lưng ông chém tới. Anh thì phiá trước đâm vào. Sợ ăn dao phai và mác lạc nên ông hoảng quá và chuồn đi mất. Từ đó không bao giờ dám tới. Không ngờ hận thù trong ông từ đó cứ trào dâng...

Giấy báo tử gởi về nhưng chủ tịch xã không cho người đưa thơ chuyển tới nên gia đình hoàn toàn không biết. Rồi bỗng một chiều miền Tây chìm trong ngập lục của năm 1978, cô em họ của mẹ lội sình vào nhà trao thơ báo tử. Mẹ ngất lịm dưới hung tin bên những tiếng thét gào của chị và em.Cô kể lại là do cô vô tình nhìn thấy được lá thư ở đồn công an xã và năn nỉ họ đem về vì cô nhận ra tên của mẹ và địa chỉ.Cô coi thư viện trường và họ hay xoay cô làm nhiều việc. Ngày đó họ nhờ cô coi đọc những thông tin nên cô bắt gặp lá thư cha. 
Thời gian lâu lắm, bác Phước ra tù về vì bác sĩ trong nhà tù đoán là do bệnh ung bứu vô phương cứu chữa trong thời kỳ cuối. Họ cho bác về để được chết ở nhà. Mai sao bác được cứu sống nhờ uống thuốc Nam. Bác ấy đã tìm về quê Khoa kể lại câu chuyện những ngày tháng trong tù. Sau đó bác và gia đình đã đến Hoa Kỳ diện HO 13 về New York. 

Anh Vinh là học sinh giỏi nổi tiếng khắp vùng Đồng Tháp. Thầy Điệu dạy khối A nổi tiếng ở Sa Đéc với 2 môn Lý Hoá đã đặt hết niềm tin vào anh trong kỳ thi đại học bách khoa. Ngày anh đi chứng lý lịch, ông Hai Sanh đã phê tặng anh những từ ngữ vô cùng đặc biệt để rồi 3 năm sau anh về nhảy sông tự quyên sinh. Ông viết rõ từng lời vào tờ lý lịch: Cha làm trưởng ty thông tin Gia Định. “Thông tin là tiếng nói chống Cộng Sản đến cùng.” 

Cậu : Đứng đầu đơn vị chống Cộng tại địa phương.

Rồi anh Vinh thi vào đại học. Điểm 3 môn là 15 1/2 nhưng không bao giờ đậu vì lý lịch xấu dù cho điểm tiêu chuẩn chỉ là 10 1/2 cho 3 môn. Không nản chí anh về thi lại và thi lại. 2 năm sau kết quả cũng 15 và 15 1/2 nhưng đều bị đánh rớt vì tờ lý lịch 3 năm vẫn không bao giờ thay đổi. Dù cho mẹ có hết lời năn nỉ nhưng ông chủ tịch xã vẫn không màn tới vì mối thù xưa. 

Rồi 3 năm không thể vào đại học, anh Vinh phải đối diện cuộc đời với nghĩa vụ lao động 2 năm đi đắp đường và xây dựng nông thôn mới. 
Ngày chia tay thầy trên đường về, anh Vinh nhảy cầu để tự quyên sinh. Mai là có người qua đường nhảy theo cứu kịp. Khi họ đưa anh về nhà, xóm làng mới xôn xao chạy báo mẹ tin rằng : “Thằng Vinh nó đã nhảy sông!”

Gia đình sợ quá phải lo chạy chọt đút lót cho anh Vinh đi học. Gom hết cả gia tài bao năm dành dụm là 1 thùng đạn đựng đầy những tờ giấy săn $50 và $100 cũng chỉ đủ cho anh vào trung học ngân hàng 3 trung ương. Đúng là đời khốn nạn ! Điểm thừa đậu đạihọc mà cũng không đủ để học trung học nữa thì sao?
Vì lẽ đó, chị Phuợng năm sau cũng chẳng thèm đi thi đại học vì sợ tốn tiền. Chị chọn đại học sư phạm vì được ưu tiên tiển thẳng vào đây do đã đoạt giải hạng 5 môn Anh Văn toàn quốc. 

Anh Hoàng kế tiếp cũng chẳng đi thi vì được tuyển thẳng vào đại học sư phạm. Anh đứng hạng nhì trong kỳ thi môn Lý toàn quốc 2 năm sau.

Ngày gần đi Mỹ, Khoa bị gia đình cấm đi thi dù là đang học lớp chuyên vì sợ nếu đang học rồi  bỏ đi ngang sẽ không có tiền đền. Về quê theo mẹ làm vườn cũng chẳng được yên. Khi phỏng vấn đậu và lãnh hộ chiếu xong rồi chờ ngày đi Mỹ thì xã không thèm chứng giấy 3 không. Họ bắt Khoa phải đóng 10 tấn gạo thay thế cho nghĩa vụ lao động 2 năm vô cớ. Nếu không thì không chứng giấy tờ và cả gia đình đều phải ở lại. Gia đình Khoa phải vai mượn nợ để được ra đi.

Cộng sản là vậy đó. Họ cướp miền Nam gây bao đau thương tan tóc xong nhưng họ không bao giờ dừng lại. Họ giết những nhân sĩ trí thức trong chốn lao tù. Họ cướp nhà cửa và đọa đày vợ con những người chỉ là công nhân viên chức miền Nam tới đường cùng. Giờ họ nói lắng nghe trong Khoa, gia đình và kiều bào từng hơi thở.Bạn có tin không? 

Anh Vinh và Hoàng sau ngày qua Mỹ đã đi học lại trong Georgia Tech. Họ giờ là những kỷ sư điện toán và computer science. Anh Hoàng vẽ đường bay cho tên lữa hành trình. Cộng sản chắc rất thèm những người kỷ sư biết vẽ đường bay như tên lữa Tomahawk! Điều đó sẽ không bao giờ có được vì họ đã triệt tiêu không những gia đình Khoa mà bao lớp người  trí thức. Xã hội của họ giờ chỉ có những con người dốt nát làm lãnh đạo nên mới gây nên sự thù hằn chia rẽ.

 Họ chỉ biết cắn xé, tàn phá và đục khoét nên quê hương mới ngày càng điêu tàn. Họ chỉ biết cướp mà không biết xây dựng và bảo vệ nên đất nước giờ đây mới lâm vào cảnh phụ thuộc, xâm chiếm, nô lệ và diệt vong. Họ đã thất bại thảm hại trên chính quê hương mà họ đang cai trị.  Nhưng họ luôn luờng gạt và mị dân mình là người chiến thắng đồng bào và anh em cùng dòng máu.

Bạn có bao giờ thấy người Mỹ hàng năm họ ăn mừng chiến thắng khi quân miền Bắcthắng miền Nam trong Civil War không? Hay có lẽ người Mỹ họ ngu? 
43 năm rồi và bạn hãy chờ xem coi ngày 30 tháng 4 tới họ cũng sẽ ăn mừng chiến thắng để tiếp tục tạo nên hận thù và chia rẽ.

Bài viết là sự thật 100%. Không có một chúc gì là hư cấu. Bất kỳ ai cũng có thể phản biện chuyện này  đúng hay sai. Cộng sản đã cho con em họ qua Mỹ học và làm việc nhiều lắm. Trong số đó có ai bao giờ thấy nước Mỹ ăn mừng chiến thắng Civil War không nói cho mình biết với.

Hy vọng nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, các MC, ca sĩ và bất cứ những ai muốn tham gia hay tổ chức dù là gián tiếp hay trực tiếp chương trình ca nhạc dịp 30/4 sẽ đọc được bài này để họ hiểu rõ vì sao người ta lại biểu tình và phản đối họ.

Nhìn lại đất nước tan hoang như bây giờ sau 43 năm Việt Cộng cưỡng chiếm được các bạn sẽ nhận định một cách trung thực rằng : “30 tháng 4 không phải là niềm kiêu hãnh chiến thắng để ăn mừng cho ai cả. 30 tháng 4 là nỗi nhục quốc thể chỉ để thấp nén hương lòng hồi tưởng những đau thương âm ĩ của cả dân tộc Việt Nam.”
.............................. .............................
NHỚ ! 

Nhớ nhớ nhớ một điều con rất nhớ
Nhớ Sài Gòn hai tiếng nói thân thương
Con nhớ từng góc phố với tên đường 
Nhớ trường xưa bạn bè yêu cũ mới

Nhớ ngày xưa cha mua cho sách mới
Nhớ mẹ yêu dìu con bước đến trường
Nhớ người thầy trên bục giảng thân thương
Cô giáo nhỏ nâng niu từng nét chữ

Rồi quê hương lan tràn loài dữ
Chúng ngang tàn đốt phá cướp đi cha
Nơi quê nhà mẹ đau đớn xót xa
Con thương mẹ héo gầy nuôi con trẻ

Những tháng ngày đau thương trôi lặng lẽ
Con lang thang cùng mẹ khắp muôn nơi
Đời bôn ba nghe kiếp sống chơi vơi
Có lúc tưởng mẹ tàn hơi kiệt sức

Dắt dìu con qua tháng ngày cơ cực
Mong một ngày quê hương khỏi lầm thang 
Một chiều thu con chít chiếc khăn tang
Mẹ ngất lịm bên dòng thư báo tử

Chúng đã giết cha con rồi đem xử
Tội tuyên truyền chống phá quê hương con
Quê hương yêu hai tiếng nói sắc son
Cha không chống chỉ chống loài Cộng phỉ

Bao nhiêu năm cướp miền Nam rồi nhỉ
Chúng giờ đây cướp phá cả non sông
Chúng cướp ngày cướp cạn cướp ruộng đồng
Cướp nhà cửa, cướp công rồi cướp sức

Cướp tuổi xuân bao em thơ sáng rực
Cướp đồng hưu, bảo hiểm, cướp nhà băng 
Cướp hồ thiêng, sông núi và mỏ quặng
Cướp xong rồi chúng bán cả giang sơn

Cộng phỉ gian manh dân rất căm hờn
Ngày nổi dậy chẳng còn xa đâu nữa
Ngày mai đây vết thù xưa gội rữa
Trả cho cha hai tiếng nói oan khiêng

Trả lại cha một tấm lòng trung kiên
Yêu quê hương sơn hà và tổ quốc 
Bao năm qua từ ngày cha đã mất
Thương cha nhiều nhớ cha lắm cha ơi !

Vũ Đăng Khoa
Tình Xa








__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Mỹ đã phá sập VNCH như thế nào?

$
0
0
 

        
Mỹ đã phá sập VNCH như thế nào?
Lữ Giang
(Phần I)
Những tài liệu đã được Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và CIA giải mã trong 25 năm qua cho thấy Hoa Kỳ đã dùng những xảo thuật tinh vi để dàn dựng cuộc chiến Việt Nam và rút quân ra. Từ việc giúp xây dựng chế độ Ngô Đình Diệm để đẩy Pháp ra khỏi Đông Dương, thiết lập một chế độ mạnh để ổn định tình hình dưới danh nghĩa chống cộng, sau đó dùng nhóm “xã hội dân sự” Caravelle và lá bài Phật Giáo để loại bỏ chế độ Ngô Đình Diệm và đỗ quân vào Miền Nam VN, được nói là để ngăn chận sự bành trướng của Công Sản… Tất cả đều do CIA tổ chức và chỉ đạo thực hiện.
Từ ngày 2 đến 5.8.1964, Mỹ lại dàn dựng vụ tàu Madox và tàu Terner Joy của Mỹ bị các tiểu đỉnh của Bắc Việt rượt bắn rồi cho 64 phi cơ bắt đầu oanh tạc miền Bắc, mở đầu cuộc chiến tại Việt Nam.
Cuộc chiến chỉ kéo dài trong 3 năm, từ 1965 đến 1967.  Sau khi tiêu thụ hết các võ khí và trang bị quốc phòng cũ còn tồn động từ sau thế chiến thứ hai và thử nghiệm các vũ khí mới, Mỹ bắt đầu rút quân khỏi Miền Nam bằng một kế hoạch được Kissinger đặt tên là một “Khoảng cách vừa phải”, (Decent Interval): Làm giảm bớt sức mạnh của Cộng quân, đem Miền Nam bán cho Trung Quốc rồi đánh lừa Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu rút quân “tái phối trí”, làm mất Miền Nam chỉ trong vòng 40 ngày.
Related image
Kissinger gặp Chu Ân Lai ngày 20.6.1972 tại Bắc Kinh
Hiện nay, lịch sử chiến tranh Việt Nam đang được tái diễn tại Trung Đông: Mỹ tố cáo Syria tấn công bằng võ khí hóa học và cho xử dụng ngay các biện pháp chế tài không cần mở các cuộc điêu tra và xuất trình bẵng chứng. Nhiều nhà phân tích Âu châu và Mỹ cho rằng đây chỉ là một sự dàn dựng để cứu các phiến quân chống Assad đang bị lâm nguy. Trong bài Attaque chimique en Syrie: la grande manipulation(Tấn công bằng hóa chất tại Syria: xảo thuật vĩ đại),Antoine de Lacoste, một nhà bình luận nổi tiếng của Pháp đã viết: “May mắn thay có những người Nga tại chỗ, nếu không Damascus sẽ kết thúc như Baghdad.”
Ngày 20.4.1975, khi Mỹ đang vận động Tổng Thống Trần Văn Hương từ chức và đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm hàng tướng, nhiều nhà lãnh đạo và chánh khách Miền Nam vẫn còn tin rằng Mỹ không bỏ Miền Nam! Mặc dầu đã phải bỏ chạy qua Mỹ, và Mỹ đã thực hiện đối tác toàn diện với nhà cấm quyền CSVN, dùng chính quyền CSVN thay VNCH để ngăn chận Trung Quốc tràn xuống Đông Nam Á, nhiều người Việt đấu tranh vẫn còn tin rằng Mỹ chống cộng và tôn trọng nhân quyền nên luôn coi nhân quyền như một lá bài chủ có thể dùng để lật đổ chế độ trong nước!
Tóm lại, trong khi người Mỹ luôn chiến đấu vì quyền lợi của đất nước họ, đa số người Việt đấu tranh lại đã và đang chiến đấu với các mục tiêu mà mình mong muuốn, hoàn toàn khác với mục tiêu của các đối tác của họ, thường bị Mỹ đánh lừa và biến thành công cụ, nhưng vẫn tin tưởng rằng Mỹ chống cộng. Ai nói hay làm khác họ thường bị coi là tay sai cộng sản hay đặc công cộng sản nằm vùng, do đó ngày chiến thắng chưa bao giờ đến! Trong khi đó, Hà Nội luôn bám sát đường lối, chính sách, chiến lược và chiến thuật của Mỹ, tùy cơ ứng biến để bảo vệ chế độ và trục lợi.
Henry John Temple, Viscount Palmerston (1784 – 1865), từng là Thủ Tướng Anh hai lần, đã nói: Các quốc gia không có những đồng minh hay kẻ thù vĩnh viễn. chỉ có những quyền lợi vĩnh viễn (Nations have no permanent allies or enemies, only permanent interests).
Triết gia George Santayana (1863 – 1952) đã nhắc nhỡ chúng ta:
Những người không thể nhớ quá khứ bị kết án tái diễn nó. Học từ quá khứ của chúng ta là cách duy nhất có trách nhiệm để chuẩn bị cho chính chúng ta về tương lai, nhất là khi quá khứ đó là chứng tích của thất bại đáng ghi nhớ.”
Vì thế, hôm nay chúng tôi xin tóm lược lại dưới đây những diễn biến đưa tới biến cố 30 tháng 4, 1975 để giúp những người hô hào đấu tranh “giải phóng” quê hương xem lại mình có đi vào vết xe cũ hay không và tìm một hướng đi có hiệu quả hơn.
1.- QUYẾT ĐỊNH BỎ MIỀN NAM VIỆT NAM
Vào tháng 8 năm 2004, nhân kỷ niệm 30 năm ngày Tổng Thống Nixon từ chức, Miller Center of Public Affairs thuộc Đại Học Virgina đã cho công bố băng ghi âm các cuộc nói chuyện giữa Nixon và Kissinger, trong đó có đề cập đến số phận của miền Nam Việt Nam và cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ cuối năm 1972. Tổng thống Nixon đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ ủng hộ việc “Nam Việt Nam có thể không bao giờ còn tồn tại dù bất cứ cách nào.” (South Vietnam probably can never even survive anyway). Nhưng ông hỏi cố vấn an ninh Henry Kissinger:
Henry, chúng ta cũng phải nhận thức rằng thắng trong một cuộc bầu cử là hết sức quan trọng. Nó hết sức quan trọng trong năm nay, nhưng chúng ta có thể có một chính sách ngoại giao đứng vững (a viable foreign policy) nếu một năm kể từ bây giờ hay hai năm kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam? Đó thật là vấn đề.”
Kissinger trả lời:
Nếu một hay hai năm kể từ bây giờ, Bắc Việt thôn tính Nam Việt Nam, chúng ta có thể có một chính sách ngoại giao đứng vữngnếu coi điều đó như thể là kết quả của sự bất tài của người Nam Việt Nam”(if it's the result of South Vietnamese incompetence.)
2.- LÂP CÁI MÀ KISSINGER GỌI LÀ “DECENT INTERVAL”
Daniel Ellsberg, người đã từng giữ chức trợ lý Phụ tá Đặc Biệt Bộ Quốc Phòng Mỹ và là người biên soạn tập tài liệu sau này gọi là “Pentagon Papers” đã cho biết như sau: “Trong năm 1968, trong các cuộc nói chuyện riêng tư, Kissinger thường nói rằng mục tiêu thích hợp của chính sách Mỹ là một “khoảng cách vừa phải” (decent interval)– từ hai đến ba năm – giữa sự rút lui của quân đội Mỹ và Cộng Sản chiếm miền Nam.”
Như vậy Mỹ đã quyết định bỏ Việt Nam từ năm 1968 và đã nghĩ cách làm thế nào cho sức mạnh của Cộng quân xuống thấp để khi Mỹ rút, quân đội này phải mất ít nhất là hai hay ba năm mới có thể phục hồi và đánh chiếm Miền Nam được, lúc đó Mỹ không còn chịu trách nhiệm nữa. Kissinger coiviệc mất Miền Nam là do sự bất tài của Miền Nam(it’s the result of South Vietnamese incompetence).
Để thực hiện kế hoạch mà Kissinger gọi là “Decent Interval” (Khoảng cách vừa phải), năm 1970 Mỹ cho tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk rồi đưa quân qua phá các mật khu của Cộng quân ở biên giới Việt – Miên. Năm 1971, Mỹ mở cuộc hành quân Dewey Canyon IIdo Tướng James W. Sutherland, Jr soạn thảo, phía VNCH gọi là cuộc hành quân Lam Sơn 719.Mục tiêu của cuộc hành quân này là tiến vào mật khu 604 ở gần Tchepone để gài bẫy các sư đoàn 304, 308, 320 và 324 của Cộng quân bao vây rồi dùng B52 tiêu điệt. Nhưng kế hoạch này bị thất bại vì Tổng Thống Thiệu đột nhiên nhúng tay vào với kết quả rất bi thảm. Năm 1972, Mỹ phải gài cho Cộng quân chiếm cổ thành Quảng Trị để tiêu diệt. Lúc dầu Cộng quân chỉ cho các đơn vị của các sư đoàn 312, 320 và 325 vào, còn sư đoàn thiện chiến 308vẫn đóng ngoài. Ngày 4.9.1972 khi sư đoàn 308 phải bỏ chiến trường Thạch Hãn rút về phía cổ thành Quảng Trị, tức tách ra khỏi thế cài răng lược với sư đoàn Dù của VNCH, Mỹ đã xử dụng hỏa lực tối đa san bằng cổ thành nầy và xóa sổ sư đoàn 308. Để thực hiện mục tiêu này Mỹ phải kéo dài cuộc chiến đến 81 ngày với 90 đợt oanh kích bằng máy bay B52.
Hà Nội không nắm vững kế hoạch “Decent Interval” của Mỹ nên đã nướng một số quân rất lớn.
3.- KISSINGER ĐI BẮC KINH GIAO MIỀN NAM CHO TRUNG QUỐC
Hôm 26.5.2006, Văn Khố An Ninh Quốc Gia (National Security Archive) của Hoa Kỳ đã cho phổ biến 2.100 bản văn (memoranda) dài 28.000 trang mang tên “The Kissinger Transcripts: A Verbatim Record of U.S. Diplomacy, 1969-1977”. Trong đống hồ sơ này có 6 tài liệu liên quan đến Việt Nam, đó là các tài liệu số 1, 2, 3, 10, 11 và 12. Vì tài liệu quá dài, chúng tôi chỉ trích dẫn một đoạn ghi lại cuộc đàm thoại mặt đối mặt giữa Kissinger và Chu Ân Lai ngày 20.6.1972 tại Bắc Kinh trong tài liệu số 10 (dài 37 trang), trong đó có đoạn Kissinger nói với Thủ Tướng Chu Ân Lai như sau:
Hôm nay tôi ngồi ở đây chứng tỏ cái căn bản dựa trên đó Hoa Kỳ đưa quân vào Đông Dương không  còn giá trị nữa. Chúng tôi thừa hưởng một chính sách và bây giờ chúng tôi phải thanh lý thế nào để không ảnh hưởng đến vị thế của chúng tôi trên thế giới và sự ổn định trong nước.Chúng tôi thật tâm muốn chấm dứt cuộc chiến này. Và ông thủ tướng biết từ năm 1967 tôi đã mở đầu cuộc thương thuyết với Hà Nội.Và trước đây tôi đã nói với ông thủ tướng rằng chúng tôi quan niệm nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa là một thực tế mạnh nhất tại bán đảo Đông Dương. Chúng tôi không có lợi gì làm tan vỡ hay đánh bại thực thể đó.. Sau khi chúng tôi rút quân xong, chúng tôi ở xa 12.000 dặm trong khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chỉ cách Sài gòn 300 dặm. Tôi không hiểu tại sao Hà Nội không thấy được sự việc đó.”
Kissinger nói tiếp:
Trước đây tôi đã nói với ông thủ tướng rằng chúng tôi không muốn duy trì một căn cứ quân sự nào tại Đông Dưong hoặc theo đuổi chính sách của vị ngoại trưởng không chịu bắt tay ông thủ tướng. Thời đại đó qua rồi. Và tôi tin rằngtương lai quan hệ giữa Hoa Kỳ và Bắc Kinh quan trọng đối với Á châu hơn là những gì có thể xẩy ra tại Phnom penh, Hà Nội hay Sài gòn.”
4.- ÉP VNCH KÝ HIỆP ĐỊNH PARIS.
Một cuộc hòa đàm để chấm dứt chiến tranh Việt Nam đã được tổ chức tại Paris từ năm 1968. Sau một thời gian dài tranh luận gay cấn, một bản dự thảo hiệp định chấm dứt chiến tranh Việt Nam đã được Washington và Hà Nội đồng ý. Ngày 18.10.1972 Kissinger đã bay đến Saigon làm áp lực Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải đồng ý nội dung bản dự thảo nầy, với hy vọng sẽ mang ra Hà Nội ngày 24.10.1972 để Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ký tắt vào. Nhưng Kissinger đã thất bại. Chỉ trong một thời gian ngắn, phía VNCH đã phát hiện ra đến 23 điểm cần phải điều chỉnh. Kissinger chỉ đồng ý điều chỉnh 16 điểm không quan trọng mà thôi. Số còn lại phải để nguyên. Cuộc đối thoại trở nên gay cấn về hai điểm then chốt là việc chấp nhận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam Việt Nam và việc thành lập một Hội Đồng Hòa Giải Hòa Hợp giống như một chính phủ liên hiệp. VNCH coi đây là một cách bán đứng miền Nam Việt Nam cho Hà Nội nên cương quyết chống lại.
Thất bại với VNCH, Kissinger đưa ra một bản dự thảo mới, yêu cầu Hà Hội tái thảo luận, nhưng Hà Nội từ chối. Tổng Thống Nixon liền gởi cho Hà Nội một thông điệp nói rằng nếu Hà Nội không chấp nhận thảo luận một cách nghiêm chỉnh thì sau 72 tiếng đồng hồ nữa Hoa Kỳ sẽ ném bom trở lại từ vĩ tuyến 20 trở lên. Ngày 18.2.1972, khi thời hạn này chấm dứt, hàng loạt B.52 đã bay đến ném bom xuống các căn cứ quân sự ở Hãi Phòng và Hà Nội. Đây là những khu vực chưa hề là mục tiêu đánh phá từ trước đến nay.
Cùng lúc đó, Tướng Haig được cử đến Saigon với sứ mạng vừa hứa hẹn vừa đe dọa. Trong thông điệp trao cho Tổng Thống Thiệu ngày 14.11.1972, Tổng Thống Nixon có cam kết: “Tôi tuyệt đối cam đoan với Ngài rằng nếu Hà Nội không tuân theo những điều kiện của Hiệp Định nầy thì tôi cương quyết sẽ có hành động trả đủa mau lẹ và ác liệt.”Nhưng Tướng Haig cũng không quên lặp lại lời đe dọa của Washington rằng nếu Tổng Thống Thiệu không chấp nhận bản dự thảo hiệp định mới, Hoa Kỳ sẽ cắt hết việt trợ và ký một hiệp định riêng với Bắc Việt.
Sau 12 ngày bị dội bom nặng nề, Hà Nội chấp nhận thảo luận lại thỏa hiệp cũ với Kissinger vào ngày 30.12.1972. Hà Nội đồng ý sửa đổi lại một số điều khoản trong dự thảo hiệp định, nhất là không còn coi Hội Đồng Hòa Giải Hòa Hợp như là một thứ chính phủ liên hiệp từ trung ương đến địa phương nữa, nhưng nhất quyết không chấp nhận điều khoản buộc quân Bắc Việt phải rút lui.. Hoa Kỳ quay lại làm áp lực với Việt Nam Cộng Hòa.
Tổng Thống Thiệu thừa biết Bắc Việt cố giữ lại điều khoản không rút quân để khi Hoa Kỳ rút hết, họ sẽ mở cuộc tấn công trở lại, nhưng bị ám ảnh bởi cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi Mỹ muốn đem quân vào, Tổng Thống Thiệu đã ra lệnh cho ký kết bản Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973, sau khi Washington tăng thêm một số quân dụng được tiếp tế khẩn cấp qua chương trình Enhance và Enhance Plus.
5.- HÀ NỘI LẬP KẾ HOẠCH ĐÁNH CHIẾM MIỀN NAM
Sau khi ký Hiệp Định Paris, Hà Nội lập ngay kế hoạch đánh chiếm Miến Nam. Theo kế hoạch này, muốn chiếm miền Nam một cách nhanh chóng phải đánh thẳng vào Sài Gòn, đầu não của miền Nam, bỏ qua các tỉnh miền Trung.Trong cuốn “Đại Thắng Mùa Xuân” xuất bản năm 1976, Tướng Văn Tiến Dũng đã viết:
Một vấn đề then chốt là phải có hệ thống đường cơ động tốt. Công trình xây dựng con đường chiến lược Đông Trường Sơn bắt đầu từ năm 1973, hoàn thành đầu năm 1975được xúc tiến với nhịp độ hếtsức khẩn trương nối liền từ đường số 9 (Quảng Trị) vào đến miền Đông Nam Bộ là công trình lao động của hơn 30.000 bộ đội và thanh niên xung phong, đưa tổng số chiều dài đường chiến lược và chiến dịch, cũ và mới, làm trong suốt cuộc chiến tranh lên hơn 20.000 kilô mét...
Dọc theo đường chiến lược Đông Trường Sơn là hệ thống 5.000 kilô mét ống dẫn dầu kéo dài từ Quảng Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, vượt cả sông, suối sâu, núi cao, có ngọn hơn 1000 mét, đủ sức tiếp dầu cho hàng chục ngàn xe các loại vào, ra trên đường...”
Khi sửa chữa lại con đường 14 do người Pháp làm, thường được Hà Nội gọi là đường Đông Trường Sơn, có hai cái chốt phải nhổ mới có thể khai thông được, đó là THƯỜNG ĐỨC ở phía tây Đà NẵngĐỨC LẬP, ở phía tây Ban Mê Thuột. Trong cuốn “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm” Tướng Trần Văn Trà cho biết vào tháng 10 năm 1974, ông và Phạm Hùng ra Bắc họp, Bộ Chính Trị đã ra lệnh tại Nam Tây Nguyên phải mở hành lang chiến lược đoạn Đức Lập cho thông suốt. Năm 1976 sẽ bắt đầu đánh lớn.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và bộ tham mưu của ông không hề hay biết gì đến chiến lược này nên không có kế hoạch bảo vệ Thường Đức và Đức Lập để ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng quân.
6.- MỸ ĐÁNH LỪA TỔNG THỐNG THIỆU
Trong cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng có kể lại rằng ông có được đọc trong “Phòng Tình Hình” của Dinh Độc Lâp một tập báo cáo của Tướng John Murray do Bộ Tổng Tham Mưu trình lên, trong đó ghi những điểm mà ông nhớ được như sau:
- Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả bốn Vùng Chiến Thuật.
- Nếu là 1,1 tỷ thì Quân Khu I phải bỏ;
- Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được QK I và II, hoặc khó đương đầu với cuộc tấn công của Bắc Việt…
Tướng John E. Murray là người lãnh đạo Cơ Quan Tùy Viên Quân Sự (Defense Attaché Office –DAO) của Mỹ tại Việt Nam từ tháng 1/1973 đến tháng 8/1974 và Tướng Homer D. Smith là người sau cùng. Thông thường, các báo cáo của DAO không hề được tiết lộ cho chính phủ VNCH biết, tại sao nó lại lọt vào Bộ Tổng Tham Mưu? Phải chăng Hoa Kỳ muốn dụ Tổng Thống Thiệu bỏ Quân Khu I và Quân Khu II?  Theo nội dung ông Nguyễn Tiến Hưng nhớ được, chúng ta thấy đây chỉ là một bản phân tích tình hình chứ không phải là một giải pháp hay một kế hoạch hành động được đề nghị. Nhưng Tổng Thống Thiệu lại dựa vào đó để quyết định số phận của Miền Nam!
Khi số viện trợ rút xuống còn 700 triệu, ông quyết định chỉ giữ phần đất từ Tuy Hoà trở vào và giao cho Trung Tướng Đặng Văn QuangChuẩn Tướng Ted Serong(một tướng chống du kích người Úc) lập kế hoạch hình thành một phòng tuyến mới từ Tuy Hoà đến Tây Ninh và gọi đó là chiến lược “DẦU BÉ ĐÍT TOhay “Từng chiến lược cho từng mức viện trợ” và “tái phối trí”, đó là bỏ Vùng I và Vùng II, rút quân về lập phòng tuyến ở Tuy Hòa.
Cuối năm 1974, kế hoạch này đã được tiết lộ tại Sài Gòn. Tôi nhớ một số nhà chính trị đã họp tại văn phòng Luật sư Mai Văn Lễ ở đường Pasteur để bàn về tin đồn này. Tất cả đều đi đến kết luận rằng kế hoạch đó nếu có sẽ là một kế hoạch bất khả thi vì hai lý do: Lý do thứ nhất, Tuy Hòa không phải là địa thế có thể làm phòng tuyến, nhất là sau khi bỏ Cao Nguyên. Lý do thứ hai, việc rút quân không thể thực hiện được, trừ khi có một hiệp định phân chia lại lãnh thổ và rút quân như Hiệp Định Genève năm 1954. Không ngờ chuyện đó lại có thật! Ông Thiệu vì yếu kém cả về chính trị lẫn quân sự, đã theo đuổi một kế hoạch không tưởng, làm mất Miền Nam chỉ trong 40 ngày.
Ngày 7.8.1974 Thường Đức bị mất.
Ngày 6.1.1975 Phước Long thất thủ.
Ngày 9.3.1975 Cộng quân chiếm Đức Lập và ngày 10.3.1975 chiếm Ba Mê Thuột.
Sau khi Ban Mê Thuột bị thất thủ, ngày 14.3.1975 Tổng Thống Thiệu cùng với các tướng Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang và Cao Văn Viên đến Cam Ranh họp với Tướng Phạm Văn Phú và ra lệnh rút khỏi Kontum và Pleiku. Ông Thiệu nói rằng “phải rút nhanh để tập trung quân phản kích lấy lại Ban Mê  Thuột theo đường 21, lấy Khánh Dương làm bàn đạp.” Con đường để rút là Liên Tỉnh Lộ 7B nối liền Pleiku và Phú Yên vì không còn con đường nào khác. Đây là một con đường đã bị bỏ từ lâu.
Để bảo đảm bí mật tuyệt đối, Tổng Thống Thiệu ra lệnh không làm văn bản, chỉ truyền khẩu lệnh, cấm không tiết lộ cho Mỹ biết. Cũng không được tiết lộ cho địa phương quân và các tiểu khu, tức là bỏ các đơn vị này. Đây là một cuộc rút quân bi thảm nhất trong chiến tranh Việt Nam. Cuộc rút quân bắt đầu từ ngày 15.3.1975 đến ngày 20 thì tan rã.
Theo tài liệu của Hà Nội, trong cuộc rút quân khỏi Cao Nguyên, họ đã loại khỏi vòng chiến 28.514 sĩ quan và binh sĩ QLVNCH, trong số đó có 4.502 chết hoặc bị thương, 16.822 bị bắt làm tù binh, trong đó có 779 sĩ quan. Họ đã thả ra 7.190 người.
Tài liệu của VNCH ước lượng trong khoảng 160.000 người chạy theo đoàn xe di tản, chỉ có khoảng 60.000 tới được Tuy Hòa. Số còn lại chết trong rừng hay phải quay trở lại Pleiku. Sáu Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân với khoảng 7.000 quân, chỉ có 900 về đến Nha Trang và đóng trong thành phố.
Ngày 19.3.1975 thành phố Quảng Trị bị thất thủ.
Ngày 25.3.1975 Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng rút khỏi thành phố Huế. Đoàn quân di tản bị đánh chận ở đèo Hải Vân, cửa Tư Hiền và cửa Thuận An nên tan rã.
Ngày 29.3.1975 thành phố Đà Nẵng, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1, bị tấn công và thất thủ. Rối loạn xảy ra. Tướng Ngô Quang Trưởng phải bơi ra khơi để được một tàu Hãi Quân vớt.
Ngày 31.3.1975, thành phố Quy Nhơn và Nha Trang rơi vào tay Cộng Quân.
Ngày 1.4.1975, thành phố Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Yên bi thất thủ.
Ngày 15.4.1975 phòng tuyến Phan Rang được thiết lập do Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy. Nhưng ngày 15 Cộng quân đã chiếm Phan Rang, Tướng Vĩnh Nghi bị bắt.
Đêm 20 rạng ngày 21.4.1975, Sư Đoàn 18 bảo vệ Xuân Lộc được lệnh rút về bảo vệ Sài Gòn.
(Xin  xem tiếp Phần II trong bài sau)
Lữ Giang

Virus-free. www.avast.com









__._,_.___

Posted by: Lu Giang 

Từ Hà Nôi đến Saigon

$
0
0


From: dinh na Tran
.
****************************************************
                                     Từ Hà Nôi đến Saigon


                          Mời anh em nhất là các niên trưởng xuất thân từ miền Bắc đọc

Tháng 6 năm 1954 đúng 50 năm về trước, là lúc mọi người trong vùng kiểm soát của chính phủ Quốc Gia ở Bắc Việt cô cùng lo lắng và hoang mang sau khi cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7 tháng 5 năm 1954. Nhiều tin đồn trái ngược càng làm cho mọi người thêm sợ hãi. Khoảng 20 tháng 6, tại Nam Định và các tỉnh phụ cận, có tin đồn được lan truyền nhanh chóng nói rằng quân đội Pháp và quân đội Quốc Gia sẽ rút khỏi Nam Định và các tỉnh phía Nam Hà Nội. Từ hôm ấy, hàng loạt doanh trại được tháo gỡ vội vàng, xe vận tải quân sự chở vật liệu nặng bắt đầu theo nhau từ Bùi Chu, Ninh Bình, Thái Bình đổ về Nam Định cùng các xe cộ từ Nam Định nối nhau đi Hà Nội. Kho đạn Nam Định cho phá hàng loạt đạn súng cối và đạn pháo binh ở vùng đất hoang phía tây thành phố.

Bộ Tư Lệnh Pháp và chính quyền Bảo Đại không hề lên tiếng về tình hình tại Bắc Việt. Bộ Chỉ Huy Pháp tại Nam Định vẫn tiếp tục công việc chuẩn bị cuộc diễn binh hùng hậu vào ngày quốc khánh Pháp, 14 tháng 7 năm 1954 mà họ đã loan báo trước. Vào lúc này, đã có tin đồn ông Ngô Đình Diệm sẽ về nước làm thủ tướng. Những truyền đơn đầu tiên ký tên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia ủng hộ ông Diệm xuất hiện lác đác ở Nam Định.


Ba ngày cuối cùng phi cơ quân sự lên xuống liên tiếp. Khi đã chuyên chở gần hết vật dụng và người, trạm hàng không quân sự Nam Định bắt đầu cho mọi người tự do lên phi cơ C-47 còn trống nhiều chỗ để đi Hà Nội.

Nam Định bắt đầu hoảng hốt thực sự từ ngày 28 tháng 6 khi điện bị cắt. Thành phố tối mù. Nhiều người chen chúc mua vé xe hoặc thuê xe di tản về Hà Nội. Nam Định là nơi số doanh trại và binh lính dầy đặc nhất Việt Nam. Trước đó từ 9 giờ khuya là giờ giới nghiêm, thành phố vắng vẻ không một bóng người trên phố xá. Nay đột nhiên tất cả chìm trong không gian đen thui, nhưng lại cựa mình mạnh hơn trong bóng tối. Trên đường phố người ta đi lại đông đúc khác thường quá cả giờ giới nghiêm.

Đường phố Hà Nội, hình chụp vào tháng 7 năm 1954..
Gia đình tôi lúc ấy đang ở một căn cư xá công chức nơi mẹ tôi làm việc. Lúc 7 giờ sáng, một anh lính tống thư viên người Pháp vào sở đưa một giấy báo di chuyển, ghi đúng số người thuộc quyền sở này và gia đình nhân viên kể cả 4 gia đình ở cư xá. Tất cả mau lẹ tập trung đợi xe. Sau đó chừng 15 phút, một tiểu đội Bảo Chính Đoàn dẫn 4 xe vận tải trưng dụng của tư nhân đến nơi và cho biết đúng 8 giờ kém 15 mọi người phải có mặt đầy đủ trên xe.

Việc di tản có vẻ đã được chuẩn bị nhiều tuần lễ trước đó. Số người ngồi trên xe thoải mái rộng rãi vì không ai mang theo đồ đạc gì nhiều ngoài một vài chiếc valise và túi xách tay gọn nhẹ.

Lệnh di chuyển cho biết đoàn xe này phải qua trạm kiểm soát phía bắc hướng đi Phủ Lý-Hà Nội vào khoảng giờ nhất định mà tôi nhớ là sau 8 giờ và trước 8 giờ 10 phút. Lệnh này cũng cảnh cáo nếu xe nào đến sớm quá hay muộn quá theo giờ ấn định sẽ bị ủi ra khỏi mặt đường để tránh nhiễu loạn giao thông.


Hồi đó tôi còn là học trò. Vội vàng xếp quần áo, hình ảnh, giấy tờ cần thiết, cuống cuồng không biết phải mang theo gì và phải bỏ lại món nào. Lúc còn chừng 25 phút, tôi xin phép mẹ tôi chạy ra phố nói là để chào mấy thằng bạn. Cô ruột tôi , người nuôi nấng tôi từ nhỏ không chịu vì sợ tôi chậm trễ e sẽ kẹt lại. Nhưng mẹ tôi hiểu ý, mỉm cười can thiệp nói, “Chị cứ cho nó đi, nó không dám về muộn đâu.”

Mẹ tôi thừa biết tôi đi đâu. Tôi đạp xe với tốc độ không thua các tay đua vòng quanh Đông Dương, xẹt qua trước nhà cô bạn mà tôi thương vụng nhớ thầm từ năm 17 tuổi và chưa hề mở lời yêu đương.
Nàng đang ngồi chải tóc ở cửa sổ trên lầu. Không rõ nàng có nhìn thấy tôi hay không, nhưng tôi vội vàng đánh bạo thu hết can đảm hôn gió trên bàn tay phải ném về phía cửa sổ rồi lao xe như gió về nhà, trước giờ xe chạy khoảng 10 phút. Ở miền Bắc hồi ấy trai gái còn nhút nhát, phải can đảm lắm mới dám làm như thế vì tôi linh cảm chuyến đi này sẽ lâu lắm., có thể là cả đời. Sau này trong đời lính chưa bao giờ tôi phải vận dụng can đảm cao độ như vậy dù gặp nhiều tình thế rất khó khăn nguy hiểm.


Quân cảnh Pháp thi hành đúng giờ giấc như quy định. Tại trạm kiểm soát Cổng Hậu, từng đoàn xe gồm năm mười chiếc có lính hộ tống được cho khởi hành. Một vài xe đến muộn phải đậu một bên đường chờ giải quyết sau. Trên đường đi, tại mỗi cây cầu đều có một toán Công Binh đặt sẵn chất nổ. Một trung sĩ Công Binh Việt Nam cho biết họ phải phá nổ các cầu này khi đơn vị cuối cùng đi qua.

Buổi trưa đoàn xe chúng tôi đi đến Hà Nội. Gia đình tôi về ở nhà người thân. Đêm hôm ấy thị xã Phủ Lý bị một sư đoàn Việt Minh tấn công. Thành phố đã hư hại sẵn nay lại chịu tàn phá gần hết những gì còn lại.

Cuộc rút lui này tuy tiêu biểu cho việc Pháp thua trận nhưng lại là cuộc rút lui thành công. Dựa vào tài liệu của Pháp và thực tế quan sát thấy tại chỗ, cho thấy Đại Tá Vanuxem chỉ huy trưởng Phân Khu Nam đã điều động cuộc rút lui mau lẹ, có trật tự với tổn thất nhẹ không đáng kể. Đoàn quân rút lui vượt qua nút Phủ Lý trước khi bị địch đánh chận.


Kế hoạch tỉ mỉ do bộ tham mưu Pháp bí mật soạn thảo, trong đó chỉ có các sĩ quan từ đại úy mới được cho tham dự. Mọi việc đánh máy, chuyển nhận công điện, văn thư tài liệu đều do các cấp sĩ quan từ đại úy trở lên đích thân thi hành. Bí mật được giữ đến phút chót. Chỉ có một điều đáng tiếc là nhiều đội dân quân tự vệ ở nhiều làng mạc các tỉnh vùng này kể cả quanh những trung tâm chiến lược như Phát Diệm, Bùi Chu bị Pháp bỏ rơi. Nhiều dân quân chạy không kịp bị Việt Minh bắt và giết hại.

Hà Nội vốn yên tĩnh, lúc đó đang sống thanh bình không nghe tiếng súng. Những vũ trường, hàng quán sang trọng và độc đáo với những thắng cảnh nổi tiếng đầy bóng dáng người đẹp thướt tha. Cuộc di tản 4 tỉnh phía Nam làm cho đường phố Hà Nội đông người thêm nhưng vẫn không mất vẻ mỹ lệ của đất Thăng Long ngàn năm văn vật.

Lúc ấy hội nghị Geneve bắt đầu họp. Ai cũng thấy phe Cộng Sản đang nắm ưu thế. Những người có quan tâm đều lo ngại không biết sẽ đình chiến kiểu nào. Có thể là hai bên ngưng bắn xen kẽ mà sau này năm 1972-73 người ta gọi là “giải pháp da beo.” Cũng có thể là chia đôi đất nước thành hai miền Nam và Bắc. Người ta cũng bàn tán gay go về ranh giới đình chiến sẽ nằm ở vĩ tuyến nào? Vĩ tuyến 13, 16 hay 19?


Đầu tháng 7, ông Diệm ra Hà Nội.. Một số đông đảo dân chúng chào đón ông, và nhiều người hy vọng vị nhân sĩ này sẽ cứu vãn tình hình. Sau đó ngày 7 tháng 7 năm 1954 ông Diệm chính thức nhậm chức thủ tướng. Ông thành lập Ủy Ban Bảo Vệ Bắc Việt. Các đoàn thể, đảng phái chống Cộng đều ủng hộ đường lối này. Nhiều sĩ quan, binh sĩ cũng sẵn sàng tham gia việc phòng thủ lãnh thổ phe quốc gia đang nắm giữ. Một số đông đảo đặt niềm hy vọng lớn lao vào sự trợ giúp của Hoa Kỳ thay thế người Pháp.

Nhóm chúng tôi là đảng viên Đại Việt và Quốc Dân Đảng đều hăng hái tham gia tuyên truyền vận động ủng hộ chủ trương giữ Bắc Việt. Đêm đêm, chúng tôi đi ném truyền đơn ở khu Hồ Tây, Cổ Ngư, Ngọc Sơn và nhiều nơi khác kể cả những nơi có lính Pháp lui tới. Hà Nội bắt đầu có không khí căng thẳng và phảng phất mùi chiến tranh.

Đường phố Hà Nội về khuya lần đầu tiên có những bóng dáng cảnh sát võ trang súng trận Mas-36 và quân phục tác chiến đi tuần tiễu. Nhưng các cơ sở dân sự cơ yếu và doanh trại quan trọng của Quân Đội Quốc Gia đều thấy có lính Maroc hoặc da đen canh gác, rõ ràng là Pháp đang phòng ngừa chính biến chống lại họ.

Ngày 14 tháng 7, quân đội Pháp tổ chức diễn binh ờ Bờ Hồ phía Tòa Thị Chính. Thông cáo và bích chương của Pháp vẽ hình nắm đấm được thấy khắp nơi. Pháp giải thích rằng rút 4 tỉnh phía Nam là bàn tay trước kia xòe ra nay nắm lại để đánh mạnh hơn. Tất nhiên ít ai tin vào luận điệu này.

Đám học sinh chúng tôi từ Nam Định chạy về nhiều đứa tình nguyện vào Khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị và lục tục lên đường khoảng trước ngày 15 tháng 7 năm 1954. Phần còn lại thường tìm gặp nhau trao đổi tin tức và bàn luận về tình hình đất nước.


Chiều 21 tháng 7 năm 1954 khi bọn tôi đang tụ họp thì có tin trên đài Con Nhạn (Hirondelle) của quân đội Pháp vang lên lời loan báo “Hiệp Định Đình Chiến đã được ký kết.” Tờ báo của quân đội Pháp cũng đăng câu ấy trên trang nhất bằng chữ lớn. Mọi người bàng hoàng dù biết trước thế nào việc này cũng sẽ đến. Báo này cho hay đất nước phân chia ở sông Bến Hải, Vĩ Tuyến 17.

Tân Thủ Tướng Pháp Mendès-France nhậm chức ngày 17/6/54, đã tuyên bố rằng ông ta sẽ từ chức nếu không đạt được thỏa hiệp trước ngày 20 tháng 7 năm 1954. Vì thế hiệp định Geneve về Đông Dương được ký lúc sáng sớm ngày 21 nhưng nhà cầm quyền Pháp đã cho đồng hồ ngưng chạy từ đêm trước để làm như lúc ấy vẫn còn là ngày 20. Tại Việt Nam thời điểm này là trưa ngày 21.

Hà Nội liền thay đổi rõ rệt. Niềm hy vọng giữ Bắc Việt lịm tắt dần và dân chúng nóng lòng về tin tức sẽ có cuộc di cư. Một số bài trên báo chí đang từ thái độ chống cộng quay dần sang ủng hộ Việt Minh. Người các tỉnh đổ về Hà Nội đông đảo. Cán bộ Việt Minh cấp thấp ra vào Hà Nội dễ dàng. Đồ chơi trẻ em bày bán trước dịp Trung Thu có những chiếc máy bay, xe thiết giáp, xe chở lính, tàu thủy được sơn cờ đỏ sao vàng. Các cơ quan an ninh chẳng ai thèm để ý.


Một số cán bộ Việt Minh quen biết gia đình tôi đến thăm và khuyên gia đình tôi nên ở lại nhưng mẹ tôi và tôi đã dứt khoát ra đi. Sau đó 4 tháng, chúng tôi gặp lại vài người trong số cán bộ này ở Sài Gòn. Chính họ cũng đã mau chóng nhận rõ thực chất của Cộng Sản và kịp thời ra đi trước khi cảng Hải Phòng đóng cửa tháng 3 năm 1955.

Những gia đình chuẩn bị di cư đem đồ đạc bày bán dọc bờ hồ Thiền Quang làm thành một thứ chợ trời. Một buổi sáng sớm khi những người đầu tiên đang lục tục khuân đồ đạc đến chợ thì thấy có một lá cờ đỏ sao vàng treo trên tàng cây cao chừng ba bốn mét. Một thanh niên nổi nóng trèo lên giật lá cờ ném xuống đất.


Một trung tá người Pháp đi bộ ngang qua hung hăng can thiệp, lớn tiếng đại ý nói đó là quốc kỳ của một nhà nước, không được xúc phạm. Ông ta không ngờ những người bán chợ trời đều không ưa lá cờ máu ấy. Thế là xô xát xẩy ra, kết quả viên trung tá bị trọng thương vì gạch đá gậy gộc cho đến lúc xe quân cảnh Pháp cấp cứu.

Tin tức về di cư được loan báo chính thức vào đầu tháng 8. Nhiều nhà giầu đã đi vàoNam bằng phương tiện riêng. Đại đa số còn lại đợi ghi danh di cư bằng phi cơ và tàu biển. Trong nhóm chúng tôi từ Nam Định lên, phần đi Khóa 5 Thủ Đức, số còn lại một phần tham gia đoàn cán bộ xã hội được gửi vào Nam để phụ trách các trại tiếp cư do Bộ Xã Hội thiết lập. Tôi ở trong số này. Buổi chiều ngày 11 tháng 8 năm 1954 bốn đứa bọn tôi đi bộ thăm tất cả các di tích và thắng cảnh quanh Hà Nội lần cuối.


Hình chụp vào tháng 9 năm 1954 với một số người Bắc di cư trên tàu USS Bayfield khi tàu vừa cặp bến Saigon. Sau Hiệp Định Geneve, tàu USS Bayfield là một trong những vận-chuyển hạm của Hải Quân Hoa Kỳ được giao phó nhiệm vụ chở người tị nạn từ Bắc vào Nam.

Sáng sớm 12 tháng 8 khi qua cửa kiểm soát phi trường Gia Lâm, một trung úy Nhảy Dù người Pháp hỏi chuyện chúng tôi vì thấy 25 đứa trong đoàn cán bộ xã hội toàn là thanh niên còn trẻ. Sau khi nghe chúng tôi nói rõ lập trường và mục đích ra đi, ông ta nắm tay chúng tôi giọng xúc động nói rằng, “Nước Pháp đã liên tiếp sai lầm để các bạn chịu hậu quả đau đớn hôm nay.” Nói xong không ai ngờ viên trung úy trẻ dưới 30 này bật khóc, nước mắt chảy dài trên má.

Chúng tôi cũng cảm động tuy nhiên vẫn còn cầm được nước mắt. Nhưng khi phi cơ lượn một vòng lấy cao độ, tất cả đều ngó xuống. Giữa tấm thảm mây mưa xám xịt che kín bên dưới phi cơ có một khoảng trống vuông vắn hiện ra Hồ Gươm và 36 phố phường. Cảnh tượng tuy tầm thường nhưng lại gây xúc động mạnh, khiến đứa nào cũng rưng rưng nước mắt. Đây là lần chúng tôi vĩnh biệt Hà Nội. Vĩnh biệt miền Bắc.


Sau những giờ bay dài phi cơ đến Tân Sơn Nhất, cảnh những con rạch đỏ ngầu giữa hai hàng dừa xanh làm chúng tôi tươi vui hơn. Được đưa về nhận việc tại trại Bệnh Viện Bình Dân dưới quyền Bộ Xã Hội, ngày hôm sau chúng tôi được phân phối đi các trại tiếp cư khắp Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định. Đợt đầu tiên đồng bào di cư bằng cầu vận chuyển của chính phủ và các nước trợ giúp đã vào Sài Gòn từ đầu tháng 8 năm 1954.

Nhờ vào dịp hè, các trường học vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định được trưng dụng để đón nhận người di cư đến bằng phi cơ quân và dân sự, các quân vận hạm Mỹ như Marine Serpent và Marine Addler, các mẫu hạm Anh và Pháp. Trại tiếp cư lớn nhất vùng Sài Gòn là trại Phú Thọ Lều (sát trường đua Phú Thọ, gồm hàng trăm lều vải lớn mỗi lều chứa bốn năm gia đình do quân đội Mỹ dựng. Gọi là Phú Thọ Lều để phân biệt với trại Học Sinh Di Cư Phú Thọ ở gần kế đó. Trại Phú Thọ Lều chứa trên 10 ngàn người.


Trợ cấp tiền mặt một ngày cho mỗi người lớn 12 đồng, trẻ em 6 đồng, dư để ăn ba bữa tươm tất. Lúc ấy một bát phở hay một tô hủ tiếu giá 3 đồng, một bữa cơm ở quán ăn xã hội hai món canh và mặn giá 5 đồng. Chai bia 3 đồng kể cả nước đá, một gói thuốc lá Ruby 8 đồng. Lương giáo viên tiểu học khoảng hơn 4,000 đồng, lương trung sĩ 2,200 đồng, lương cán bộ ngang lương thấp là 1,500 đồng. Một căn nhà gỗ lợp tôn 4×20 mét ở mặt đường khoảng chợ Hòa Hưng giá chừng 30,000 đồng.

Đời sống trong các trại tiếp cư rất đa dạng. Sống chật chội chung đụng và ồn ào, làm nảy sinh nhiều vui buồn, đụng chạm, kết bạn, rã bạn, tạo ra những mối tình ái lăng nhăng xấu tốt đủ cỡ đủ kiểu. Những cảnh âu yếm giao tình nặng nhẹ bên bờ bụi gần trại trong đêm khuya vắng vẻ của trai gái, vợ chồng đủ lứa tuổi, là những nét sinh hoạt rất sống động có đủ vui, buồn, yêu, giận, phát khóc và nực cười.

Từ tháng 8 năm 1954, mỗi ngày có trung bình hàng ngàn người từ Hà Nội và Hải Phòng vào Sài Gòn bằng đường hàng không và nhiều ngàn người mỗi tuần bằng tàu chiến. Công việc định cư được tiến hành song song và khẩn thiết. Phủ Tổng Ủy Di Cư lúc ấy đã thay thế bộ Xã Hội trong nhiệm vụ chuyên biệt này.


Thời gian tạm cư kéo dài đến cuối năm 1954 và các trường học được trả lại cho học sinh. Trại Phú Thọ Lều giải tán. Người di cư theo nhau đi định cư khắp nơi, ở nhà tư hoặc ở các trại định cư khắp các tỉnh. Tính đến chuyến tàu sau cùng tháng 3 năm 1955 có khoảng 950,000 người từ bắc Vĩ Tuyến 17 di cư vào Nam.

Nếu tính theo giấy tờ, con số này có thể lên tới hơn 1 triệu vì có sự gian lận sổ sách của một số viên chức cán bộ lợi dụng thủ tục khai và lãnh tiền trợ cấp dễ dàng. Và không phải 90% người di cư là tín đồ Công Giáo như nhiều người nhận định. Số đồng bào Công Giáo di cư có lẽ chỉ chiếm khoảng 70% tổng số.

Một điểm đáng ghi nhận là đáng lẽ số người di cư còn cao hơn nữa nhưng vì vụ tướng Nguyễn Văn Hinh chống ông Diệm và những cuộc giao tranh giữa quân chính phủ và lực lượng Bình Xuyên đầu năm 1955 ở Sài Gòn nên nhiều người Bắc không dám vào Nam. Tin tức về vụ này làm một số rất nhiều người đã định ra đi nhưng vì e ngại loạn lạc mà đổi ý..

Nói chung, sự xuất hiện của ông Ngô Đình Diệm và thái độ can dự của người Mỹ đã gây được tin tưởng trong một số đông đảo người miền Bắc khiến họ yên tâm vàoNam. Đại đa số thành phần trí thức, chuyên viên cao cấp như kỹ sư, bác sĩ, chuyên viên trung cấp, thợ giỏi, đã rời bỏ đất Bắc khiến chính quyền ông Hồ Chí Minh gặp khó khăn lớn trong mục tiêu xây dựng một đội ngũ chuyên viên kỹ thuật mà họ cho là xương sống của nền kinh tế và khoa học kỹ thuật Xã Hội Chủ Nghĩa.

Cuộc di cư năm 1954 tạo ra những thay đổi sâu rộng trong lịch sử Việt Nam. Xin ghi lại một vài sự kiện nổi bật xảy ra và những nét đặc biệt của cuộc di cư sau Hiệp Định Geneve 1954 điển hình tại vùng thủ đô Sài Gòn.

Trước hết phải nhìn nhận cuộc di cư đã giúp hàn gắn những chia cách đáng buồn giữa hai miền trong nước. Tình trạng chia rẽ do hậu quả của những năm dài dưới chế độ thuộc địa Pháp đã tiêu tan mau chóng. Những dị biệt về phong tục, ngôn ngữ vì ngăn cách, lâu ngày được san bằng gần hết. Những ngăn cách và hiểu lầm còn lại không gây hậu quả nào nghiêm trọng. Về mặt chính trị và xã hội, sau nhiều biến chuyển và chiến tranh, cuộc di cư vĩ đại năm 1954 đã góp phần thay đổi bộ mặt bề ngoài cũng như nếp sống của dân chúng đến chỗ tốt đẹp, phong phú hơn.


Trước tháng 10 năm 1954, chính quyền địa phương còn gần y nguyên như thời Pháp Thuộc. Văn thư, giấy tờ, tên công sở, phố xá còn dùng tiếng Pháp. Từ khi chính phủ Ngô Đình Diệm nắm toàn quyền sau những âm mưu đảo chánh bất thành, luật lệ được thi hành nghiêm chỉnh. Nhiều cải cách hành chánh đã làm giảm hẳn nạn giấy tờ nhiêu khê. Văn thư, giấy tờ đều bắt đầu dùng tiếng Việt. Xin Tư Pháp Lý Lịch bây giờ chỉ mất một tuần thay vì đợi 3 tháng. Xin chứng nhận bản sao đợi lấy ngay hay sau vài giờ thay vì một tuần lễ. Các cuộc cải tổ mạnh mẽ được tiến hành có kết quả tốt nhờ phần nào ở sự ủng hộ tích cực của đồng bào di cư đối với chính phủ.

Cuộc đổi tiền Đông Dương thành tiền Việt Nam năm 1955 trong 3 ngày không giới hạn số lượng là một đòn bất ngờ vô hiệu hóa hàng tỷ bạc Đông Dương mà chính quyền Hồ Chí Minh thu gom được ở miền Bắc vì họ không kịp chuyển vào Nam để đổi lấy tiền miền Nam mới. Đợt đổi tiền này cũng chấm dứt luôn thói quen tiêu dùng coi nửa tờ giấy bạc 1 đồng như 5 cắc (hào). Khi cần xài hay trả lại 5 cắc, chỉ cần xé đôi tờ giấy bạc một đồng. Đành rằng tập tục này không áp dụng cho những giấy bạc mệnh giá trên một đồng.


Lúc ấy ảnh hưởng tuyên truyền của Cộng Sản rất mạnh ở nam phần ngay tại Sài Gòn. Nhiều người mở đài Hà Nội công khai mà không ai bắt bớ. Nhiều người miền Nam ít hiểu biết về thực tế Cộng Sản đã thật thà hỏi mấy đồng bào di cư mới gặp gỡ rằng “Ngoài Bắc đã độc lập rồi, mấy thầy cô dô đây làm chi?” Do đó đã xẩy ra một số đụng chạm nhỏ trong tháng đầu. Dần dần đồng bào miền Nam mới nhìn đồng bào di cư một cách có thiện cảm hơn.

Trong bối cảnh ấy, lực lượng học sinh di cư đã dẫn đầu cuộc biểu tình vào dịp 20 tháng 7 năm 1955 đòi tống xuất các đoàn đại biểu của quân đội Cộng Sản từ Hà Nội trú đóng tại hai khách sạn Majestic và Galliéni (đường Trần Hưng Đạo). Khi bị khiêu khích, cuộc biểu tình biến thành bạo động, gây thiệt hại nặng cho hai khách sạn nhưng không có thương vong quan trọng. Những hành vi cương quyết của quần chúng khiến bọn thân Cộng Sản không còn nhởn nhơ tuyên truyền bán công khai như trước.

Người di cư tiếp xúc, trao đổi với dân chúng địa phương mau chóng tạo ra những hiểu biết và thông cảm. Về kinh tế thương mại, người Bắc vào Nam đã mở mang thương trường, ra các cửa hàng nhất là hàng ăn. Năm 1954 hầu hết cửa tiệm ăn do người Hoa kinh doanh, và họ dành độc quyền ngành lúa gạo cũng như các sạp thịt ở mọi chợ. Đời sống dễ dàng ở miền Nam khiến người Việt ít muốn cạnh tranh, ngay như ngành công chức cũng không hấp dẫn nhiều người. Bà con lao động xích lô kiếm đủ tiền tiêu trong ngày nhiều khi đẩy xe lên lề dưới bóng cây làm một giấc, khách gọi mấy cũng từ chối. Cách biệt giầu nghèo ở Nam Việt lúc ấy rất ít.

Các tầng lớp dân di cư cần cù chịu đựng tham gia thị trường lao động đã làm cho đời sống kinh tế miền Nam lên cao nhưng lại buộc mọi người phải làm ăn chăm chỉ hơn. Một số người địa phương không hài lòng vì nếp sống thong thả lè phè cũ đã mất đi không còn trở lại.


Hình chụp tại Saigon vào tháng 10 năm 1954 trong một trại định cư với hàng trăm căn lều. Lúc đó, một trong những trại định cư lớn nhất ở Saigon là trại Phú Thọ Lều được thiết lập tại Quận 10 sát bên trường đưa Phú Thọ. Trại này có lúc đã chứa đến 10,000 người di cư.

Trang phục phụ nữ hai miền khác nhau, nổi rõ nhất là giới nữ sinh trung học tuổi đôi tám. Nữ sinh Hà Nội làm dáng sớm hơn, quần hẹp, áo dài nở vòng số một. Nữ sinh Sài Gòn vận quần trắng rộng, áo bà ba trắng nhiều hơn áo dài được may vòng số 1 tương đối phẳng phiu có lẽ vì đó là cách tỏ ra là con nhà nghiêm túc. Sau hơn một năm các cô hai miền tự nhiên hòa hợp cách ăn mặc, bọn thanh niên sinh viên học sinh chúng tôi không còn phân biệt được gốc gác các cô qua y phục nữa. Điều quan trọng và dễ thương hơn hết là những câu chuyện tình Bắc duyên Nam đã nhiều khi hóa giải rất nhiều cho những mâu thuẫn văn hóa chính trị.

Các trường phía Bắc di chuyển vào Sài Gòn giữ gần y nguyên ban giám hiệu và tổ chức riêng. Từ Hà Nội vào, Chu Văn An tiếp tục tại cơ sở cạnh Petrus Ký. Trưng Vương học chung cơ sở nhưng khác giờ với Gia Long… sau hai ba năm mới ra học ở các cơ sở riêng trước Thảo Cầm Viên. Mấy năm sau nữa thì học sinh gốc hai miền dần dần pha trộn.

Chuyện đáng nhớ là năm 1955 học sinh Bắc vào Nam và các bạn gốc miền Nam mở chiến dịch phá bỏ tên đường tiếng Pháp. Nhờ đó mà việc đặt tên đường mới, vốn là việc mất nhiều công sức, đã được Tòa Đô Chánh Sài Gòn thực hiện trong vòng khoảng một tháng.


Về mặt văn hóa và báo chí, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo từ Bắc vào Nam đã hòa hợp với đồng nghiệp miền Nam tạo ra sinh khí mới, lối viết và văn phong, sắc thái trong sáng, có sức truyền đạt hơn. Sau một thời gian ngắn người đọc chỉ có thể nhận thấy một số khác biệt ít ỏi giữa bài vở sách báo do các tác giả gốc từ các miền khác nhau viết ra.

Đặc biệt là về tân nhạc, lớp nhạc sĩ và ca sĩ cũng như những người yêu nhạc từ miền Bắc vào Nam đã lôi cuốn được phong trào âm nhạc mới phát triển mạnh để tiến đến tới cao điểm nghệ thuật ca nhạc trong các thập niên sau. Và ngược lại số người Bắc di cư hâm mộ ca nhạc kịch cải lương cũng gia tăng nhiều.

Về mặt ăn chơi, sự thay đổi rõ rệt hơn. Sòng bạc Kim Chung, Đại Thế Giới, khu mại dâm Bình Khang bị đóng cửa đầu năm 1955. Giữa năm 1954 cả Sài Gòn hình như chỉ có 2 hay 3 tiệm phở Bắc. Chỉ sau vài tháng số tiệm phở tăng đến hàng chục. Các quán cà phê cũng lục tục ra đời cùng với các ngành buôn bán khác. Các xuất gọi là phụ diễn tân nhạc trước khi chiếu phim chính ra đời dần dần tiến đến những buổi trình diễn âm nhạc chuyên nghiệp gọi là “nhạc hội” giúp vào việc phổ biến âm nhạc sâu rộng hơn. Trước đó hoạt động âm nhạc chỉ được biết qua các chương trình ca nhạc và các cuộc thi hát, tuyển lựa ca sĩ của các đài phát thanh quốc gia, đài quân đội và đài Pháp Á cùng hai đài Huế và Hà Nội.

Ngôn ngữ hai miền sau cuộc di cư cũng thay đổi và pha trộn về từ ngữ tuy vẫn giữ những nét độc đáo của từng vùng mà không lai giọng. Điểm đáng lưu ý là sau nhiều năm gia đình gốc gác miền Bắc di cư có con cái đứa thì nói giọng địa phương (Nam hay Trung), đứa thì nói giọng Bắc, đứa thì nói cả hai ba giọng tùy theo môi trưởng xóm giềng và trường học. Nhưng không mấy ai nói lẫn lộn cùng một lúc các giọng khác nhau.


Về mặt đời sống xã hội, người di cư dần dần và chậm chạp chịu ảnh hưởng bởi lối sống phóng khoáng, chân thật, thẳng thắn của dân miền Nam. Sau một thế hệ, tính nết người Bắc di cư khác hẳn tính nết của đồng hương của họ còn ở lại quê nhà. Đến sau 30 tháng 4 năm 1975 người ta càng thấy điều này rõ rệt hơn khi gặp đợt Bắc Kỳ mới vào Nam.

Trong đời sống tinh thần, có hai sự kiện đáng nhớ trong thời gian ấy. Một là trước ngày Việt Minh tiếp thu Hà Nội thì chùa Một Cột, di tích quý báu nhất của Việt Nambị kẻ vô danh phá bằng chất nổ. Rất may chùa chỉ hư hại một góc. Nghe tin ấy chúng tôi đều hết sức buồn phiền. Hai là giữa lúc nhịp độ di cư đang lên cao thì Hoàng Dương, em nhạc sĩ Hoàng Trọng cho ra đời ca khúc Hướng Về Hà Nội với lời ca tha thiết “Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi… mái trường phượng vĩ dâng hoa, dáng chiều ủ bóng tiên nga… biết đâu ngày ấy anh về.” Ca khúc này khiến lứa tuổi 18, 19 chúng tôi cảm thấy rõ điều mà các văn thi nhạc sĩ gọi là “tan nát cõi lòng.”


Dĩ nhiên trong ngót một triệu người Bắc di cư có đủ mọi thành phần tốt xấu kể cả đầu trộm đuôi cướp, quan lại tham nhũng, trọc phú bất lương, tay sai thực dân và nội tuyến Cộng Sản. Nhưng so với số các phần tử tinh hoa của xã hội, số người yêu nước, chuyên viên giỏi các loại, các nhân sĩ, trí thức, chiến sĩ quốc gia chân chính, thì những phần tử xấu xa nói trên chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ bé.

Một số người cho rằng người miền Bắc di cư đã là chứng nhân lịch sử khiến đồng bào miền Nam hiểu rõ bản chất của chế độ Cộng Sản. Điều đó có thể đúng một phần nhỏ. Phần quan trọng hơn là chính vì thực tế những đường lối mà Cộng Sản thi hành tại miền Nam tại nông thôn từ khoảng năm 1961 trở đi. Từ đó họ đã thấy rằng chế độ Cộng Sản đi ngược lại quyền lợi và sự an hòa của nhân dân ta nhất là giai cấp nghèo khổ ở nông thôn.


Tôi và các bạn cùng lứa tuổi di cư vào ở miền Nam gần 40 năm tính đến năm 1990 qua di trú sang Hoa Kỳ. Tuy sinh ra trên đất Bắc nhưng chỉ ở Bắc dưới 20 năm trong đó mới biết chuyện đời được dăm ba năm. Vì thế chúng tôi có hai miền quê quán. Quê quán thứ nhất ở miền Bắc còn ở trong tim nhiều hơn. Quê quán thứ hai ở miền Nam sau ngày di cư năm 1954 mới thực sự chứa đựng nhiều vui buồn, yêu thương, giận dỗi, vinh quang và tủi nhục vì trải qua quãng đường đời dài 40 năm với biết bao nhiêu là kỷ niệm.

Lữ Tuấn


Virus-free. www.avast.com














Trần Hoài Thư, Viết Dưới Trời Khói Lửa

$
0
0
 



 
Trần Hoài Thư, Viết Dưới Trời Khói Lửa
Vương Trùng Dương

Nhà văn, nhà báo Trần Hoài Thư được nhiều người viết và phỏng vấn vì anh chân tình trải lòng cùng bạn bè, người duy nhất ở hải ngoại làm sống lại văn học miền Nam và ấn hành những tác phẩm ở quê nhà bị bỏ quên theo năm tháng và không được xuất bản. Trong thời chiến, anh là cây cây bút duy nhất tham chiến tại mặt trận, ghi lại nhiều nhất những điều của người trong cuộc “Tôi là một tác giả viết văn làm thơ theo đôi giày trận. Nổi trôi từ Trường Sơn xuống tận đầm lầy Đồng Tháp Mười. Tôi nhìn bản thân mình, lấy kinh nghiệm của chính mình để mà thông cảm cùng những người cùng mang giòng máu như tôi…
Tôi là nhà văn sống và viết. Tôi tìm chất liệu ở con người thật của tôi. Tôi sống và viết bằng con người thật của tôi… Khi tôi ở trong quân đội, tôi viết về người lính, khi tôi đào ngũ, tôi viết về kẻ đào ngũ, khi tôi trở lại đơn vị bị giáng lon, thì viết về tâm trạng của người lao công chiến trường… Khi tôi bị thương nằm trong Quân Y Viện tôi viết về tâm trạng người thương binh, khi tôi ở trong trại khổ sai, tôi viết về sự thật cảnh tôi vồ chụp lấy thau cơm nhão nhẹt chua lè dành cho chó ăn ở bên hiên một doanh trại bộ đội Bắc Việt vì quá đói…”

Những bài thơ của anh trong thời khói lửa vẽ lên bức tranh thân phận người lính trong thời chiến.
Cả một đời, THT sống chân tình và trải lòng với đồng đôi, bằng hữu và đồng nghiệp, vì vậy anh được nhiều người đề cập đến qua các bài viết, phỏng vấn từ trước năm 1975 đến nay.
Nhận được Thư Quán Bản Thảo số 79, tháng 4 năm 2018. Trong mười bảy năm qua (TQBT 2001-2018) đây là số duy nhất do Phạm Văn Nhàn và bằng hữu thực hiện, anh “không được phép” viết và xem nội dung, chỉ lo việc ấn hành. TQBT số 79 dày 288 trang, gồm hai phần: Những truyện của THT trước năm 1975 (trang 7 -156) và những người viết về THT (157-266).
Với tôi, trong hai bài viết trước đây, bài “Trần Hoài Thư, Cây Sậy Giữa Đời” vì dáng dấp anh như cây sậy, làm lính chiến sống cùng cỏ lau. Con người với Blaise Pascal chỉ là “cây sậy có tư tưởng” nhưng với THT là cây sậy trên trận mạc, chứng nhân lịch sử trong thơ văn. Và,  “Trần Hoài Thư & Thủ Đức Gọi Ta Về”… Tôi đã viết về cuối năm 1966, Khóa I Nguyễn Trãi của Trường ĐH. CTCT gởi học giai đoạn I cùng với khóa 24 ở Trường Bộ Binh Thủ Đức, ở trong Ban Biên Tập SVSQ liên khóa 23 & 24 cùng với Trần Hoài Thư (Trong bài viết của Luân Hoán “Những Ngày Đầu Quân & Thời Ở KBC 4100” ghi rõ từng người, và các bài viết của THT cũng đề cập đến tháng ngày ở KBC 4100). Trong phần kết đã viết về THT:
“Là giáo sư, nhà văn, nhà thơ, gầy gò, cận thị… nhưng khi ra trường BB Thủ Đức lại về đơn vị tác chiến trong cương vị Trung Đội Trưởng của Đại Đội Thám Kích 405, Sư Đoàn 22 BB. Trần Hoài Thư đã 3 lần bị thương ngoài mặt trận… Trần Hoài Thư giữ chức vụ Trung Đội Trưởng Thám Kích trong thời gian gần 4 năm từ khi ra trường vào 8/1966 đến tháng 6/1970, hai lần bị thương, lần thứ ba thấy bản thân như sợi chỉ treo mành nên bỏ đơn vị, sống lang bạt, bụi đời với các bạn văn nghệ, bị bắt làm lao công đào binh”.
“Thôi giã từ những ngày tháng lông bông
Những cốc rượu đếm không bao giờ hết
Những bửa đói, bửa no, mà vui như tết
Những ngày hồng, ngày xám cũng chia tay
Thôi giã từ lũ bạn chiều nay
Tự nguyện ra tòa ký vào bản án
Giã từ nhé, môi son và má phấn
Những vỉa hè, những đường phố lê la”
(Huy Chương)
Mấy câu trong Lính Tiền Phương của THT là thực trạng ư? Ngậm ngùi và xót xa:
“Khi ra trận ta là thằng chết trước
Tổ quốc ghi ơn, lãnh tụ đẹp lòng”
Trong bài viết của Tình Bạn của Phạm Văn Nhàn: “… Tôi đưa Thư ra Nha Trang trình diện nơi Quân Vụ Thị Trấn (đồn Quân Cảnh). Ra tòa án binh. Giáng cấp. Rồi đến Đơn Vị 2 Quản Trị, đóng ở Diên Khánh, Nha Trang. Và từ đây, Trần Hoài Thư nhận sự vụ lệnh lên Sư Đoàn 23 BB trên Ban Mê Thuột. Tôi nói với Thư: tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Ngày tiễn Thư lên Ban Mê Thuột tại bến xe Nguyễn Hoàng, Nha Trang, tôi cởi chiếc jacket cho Thư mặc. Và có thêm hai người bạn tiễn Thư lên đường là nhà văn Nguyễn Âu Hồng (ở Mỹ) và nhà thơ Nguyễn Sa Mạc (còn ở VN). Và cũng từ ngày hôm đó, tôi xa Trần Hoài Thư!”
Thế nhưng anh không oán hận. Người lính vừa đánh giặc vừa cầm bút, “Cảm thấy mình thật hãnh diện, bởi vì tôi nguyên một giáo sư đệ nhị cấp, với đôi mắt cận 7 độ, gầy như que củi, từng được hoãn dịch vì lý do sức khỏe, lại có mặt tại một đơn vị đã từng tạo nên một thành tích kỷ lục có một không hai trong QLVNCH. Khó có một ai trong bất cứ đơn vị nào được Tướng Đỗ Cao Trí thăng cấp hai lần trong vòng hai tháng ngay tại mặt trận.” (Về Một Đại Đội Cũ). Và “Từ 405, tôi cũng đã mang 9 tác phẩm văn học đến cùng độc giả”. Thật là “Đại Đội 405 là một dấu ấn đậm sâu vào tâm trí của một người lính cũ”…
“Chưa có một đội quân nào trên thế giới này, thua trận, nhưng lại tự hào cùng hàng ngũ, cùng màu cờ sắc áo như quân đội miền Nam này. Không phải một ngày, một tháng, mà cả đời. Chỉ có những kẻ trong cuộc mới hiểu và thấm thía được nỗi tự hào.. Và đó là lý do cắt nghĩa tại sao tôi lại phải viết hoài, viết không mệt về màu áo cũ của mình” (Sđd).
“Chiếc bè đã đưa tôi vào dòng văn chương không phải đẹp và dịu dàng như một giấc mơ. Mà trái lại, văn chương bấy giờ là văn chương của lửa, lệ, và những gào thét, tra vấn, tử sinh. Văn chương bấy giờ là những ngày đêm trong lòng hỏa ngục, là những vết thương tóe máu đớn đau, là tiếng kêu trầm thống của một thế hệ mà, nói theo Tolstoi, chỉ những ông già bụng phệ ký giấy tuyên chiến, còn phần chết thì dành cho bọn thanh niên… Chất liệu văn chương của chúng tôi không phải là từ đơn đặt hàng của chế độ, hay những món hàng làm dáng du nhập từ ngoại quốc mà là sự thật bằng trái phá, bằng mồ mả oan khiên, bằng những người như chúng tôi bị nướng thiêu trong lò lửa chiến tranh.” (Về Những Trang Sách Cũ, trang 16 & 17)...
Ngoài các bài thơ tỏ bày cuộc sống người lính chiến, trở lại tác phẩm Thủ Đức Gọi Ta Về của Trần Hoài Thư để cảm nhận tấm lòng của anh với ngày tháng quân trường.
Tuổi thơ của THT không được may mắn “Ra đời tại Đà Lạt vào ngày 16 tháng 12 năm 1942, thất lạc cha ngay khi còn quá nhỏ, theo mẹ đến thành phố biển Nha Trang sống suốt thời thơ ấu rất đỗi cơ cực và hẩm hiu. Thời thơ ấu, từng bán hàng rong ở các bến xe ở Nha Trang, và từng đi bộ mỗi ngày khoảng 20 cây số để đi đến trường. Học trường Sinh Trung, Nam Tiểu Học Nha Trang và cuối cùng là trường Cô Nhi Viện Bết Lê Hem, Hòn Chồng, trước khi ra Huế gặp lại thân phụ từ Bắc di cư vào”.
Chỉ có thời gian yên lành trong thời trai trẻ “Ở Huế, theo học tại Quốc Học, Đại Học Huế, rồi trở vào Nam với Đại Học Khoa Học Sài Gòn. Không tốt nghiệp sư phạm, nhưng có duyên với bảng đen, phấn trắng, Trần Hoài Thư trở thành ông thầy dạy trung học và hành nghề tại trường Trần Cao Vân ở thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, trong các niên khóa từ 1964 đến 1966”. (THT Trò Chuyện Với Nguyễn Thị Hải Hà).
Cuộc đời quân ngũ của anh quá bầm dập, bị cận thị nặng, đúng ra anh được miễn dịch, là nhà giáo, nhà văn, nhà thơ thông thường vào ngành Chiến Tranh Chính Trị nhưng lại ra đơn vị nguy hiểm nhất của Sư Đoàn bộ binh vì mãi mê làm báo khi ở quân trường, được giải thưởng “Sinh Viên Sĩ Quan báo chí xuất sắc. Kèm theo phần thưởng tinh thần này là một quà tặng rất thích hợp cho một nhà văn: một cặp bút Pilot mới cáu trong hộp cứng”, nên cuối khóa đậu chót trong “bảng phong thần” vì vậy khi chọn đơn vị phải chấp nhận số phận hẫm hiu.
Bởi cái tội đam mê báo chí đó nên khi ở quân trường bỏ bê mấy môn học quân sự, bốc thăm chót bảng nhưng:
“Khóa của ta
Trên mấy trăm thằng tình nguyện
Đi Nhảy Dù, Thủy Bộ, Thám Báo ‘ác ôn’
Đứng đợi cả ngày để bốc lá thăm
Toàn thứ dữ mà vui như chợ Tết”
(Ta Lính Miền Nam)
Năm 1971, được thuyên chuyển về miền Tây, phục vụ trong Khối Chiến Tranh Chính Trị của Quân Đoàn IV, làm phóng viên chiến trường cho đến ngày tan hàng. Đây cũng là cơ hội với “Những chuyến đi vào trận mạc, với máy ảnh và cây viết. Tôi đã viết nhiều truyện lấy từ chất liệu sống này” (THT). Và, nơi nầy anh gặp chị Nguyễn Ngọc Yến, người bạn đời đã sát cánh bên anh để thực hiện các tác phẩm  của Thư Ấn Quán và tạp chí Thư Quán Bản Thao cho đến khi lâm trọng bệnh, ngồi xe lăng, qua bao năm anh, con người lãng tử chấm dứt để tận tình chăm sóc hiền thê.
Trần Quý Sách, Trần Hoài Thư gắn liền với cái tâm con người yêu chữ nghĩa. Trước năm 1975, ngay cả những truyện ngắn của anh khi đăng báo cũng bị kiểm duyệt cắt bỏ vì vậy khi ra hải ngoại, anh thực hiện Thư Ấn Quán để làm sống lại những gì đã mất “Đối với tôi, những tác giả trong thời chiến là thiệt thòi nhất. Họ phải ra trận, vừa đánh giặc vừa viết, không có cơ hội để xuất bản. Sau năm 75 không ai đếm xỉa đến văn chương của họ. Tôi muốn lấy lại danh dự cho họ”. Và, theo Như Không “Trần Hoài Thư như đã trở thành một chiếc cầu nối cho những độc giả và những người làm văn nghệ nổi tiếng một thời mà sau 75 họ không còn tác phẩm nào được tái bản hoặc xuất bản vì nhiều lý do, trong đó lớn nhất là vẫn lý do chính trị”.
Với tấm lòng của THT như vậy nên những gì đã viết về anh không có ý “áo thụng vái nhau” mà trân quý đáp lại lòng nhiệt huyết của cây bút sống thực, sống trọn tình trọn nghĩa trong tình chiến hữu và bạn bè với nhau.
Tác phẩm của Trần Hoài Thư đã xuất bản:
Trước 1975: Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang (tập truyện, 1968), Những Vì Sao Vĩnh Biệt (tập truyện, 1970), Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi (tập truyện,), Một Nơi Nào Để Nhớ (tùy bút, 1974)
Sau 1975: Ra Biển Gọi Thầm (tập truyện,1995), Ban Mê Thuột, Ngày Đầu Ngày Cuối (tập truyện,1997), Về Hướng Mặt Trời Lặn (tập truyện,1998), Thơ Trần Hoài Thư, Mặc Niệm Chiến Tranh (tập truyện), Thủ Đức Gọi Ta Về (hồi ức), Đại Đội Cũ & Trang Sách Cũ (hồi ức), Đánh Giặc Ở Bình Định (hồi ức), Đêm Rừng Tràm (tập truyện), Thế Hệ Chiến Tranh (tập truyện), Hành Trình Của Một Cổ Trắng (truyện vừa), Ở Một Nơi Trên Trường Sơn (tập truyện), Qua Sông Mùa Mận Chín (thơ), Quán (thơ), Ô Cửa (thơ tuyển toàn tập, 2004), Xa Xứ (thơ, 2010), Vịn Vào Lục Bát (thơ, 2017)…
*
Viết Dưới Trời Khói Lửa
Cũng giống như John Steinbeck (1902-1968), khi tham chiến tại Việt Nam trong binh chủng Pháo Binh rồi là phóng viên chiến trường “Ở bất cứ nơi nào, với hành trang là một khẩu súng, một cây bút và một cuốn sổ tay ghi chép lại tức thời những sự kiện diễn ra kèm theo những nhận định cảm quan của một người chứng kiến sự kiện thực của những con người thưc sự trong cuộc chiến” (Nguyễn Mạnh Trinh). Trần Hoài Thư cũng vậy trong đơn vị Thám Báo vừa cầm súng vừa cầm bút.
Trong bài viết Định Mệnh của Nguyễn Văn Dưỡng, nguyên trưởng phòng Nhì SĐ 22 bộ binh:
“Bao nhiêu trách nhiệm nguy hiểm trong vùng địch kiểm soát, đột kích, thám kích, tiền thám hay viễn thám kể cả tăng viện và là mũi tấn công chính trong một trận đánh dữ dội, đều giao cho Đại Đội Thám Kích 405 (biểu tượng: Diều Hâu). Vì vậy sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ của đơn vị nầy phải là quân nhân tình nguyện hoặc được chọn lựa trong thành phần có kinh nghiệm trận mạc, gan lì và nhất là sự bền bỉ chịu đựng gian khổ ở các đơn vị tác chiến khác của Sư Đoàn. Mặc dù Đại Đội Thám Kích không có trong Bảng Cấp Số của Sư Đoàn, nhưng do tính chất của nhiệm vụ khi thành lập – vì nhu cầu chiến trường - nên tính mệnh của mọi cấp trong ĐĐ/TK như “chỉ mành treo chuông” mỗi một khi được sử dụng. Ai vào thám kích mà ra khỏi được, không chết, ít nhất cũng mang theo vài chiếc thẹo trên mình. Trần Hoài Thư rời miền Trung vào miền Nam không biết được mấy Chiến Thương Bội tinh…”
Quan những bài sáng tác, trích những đoạn trong bài viết của Ytan62 Hoài Thư trong cơn binh lửa:
* Thám Báo
“Những ngày cuối tháng 12, mưa tầm tã cả núi rừng, lẫn cùng những cơn gió miền núi hú loạn cuồng trên những thân cổ thụ trong rừng già. Sương mù che khuất cả tầm mắt, mãi đến trưa chúng tôi mới nhận ra chút cảnh tượng xung quanh. Những hàng dây leo thả xuống đất, hay quấn chằng chịt trên bãi hoang, mà theo mùa mưa, tranh, cỏ thi nhau mọc cao đến quá đầu người. Ban đêm, chúng tôi phải dựa vào gốc cây để ngủ hay ngả lưng một tí. Thường thường tôi không bao giờ chợp một giấc mà không bị thức dậy bởi những tiếng động khả nghi. Cuối cùng tôi cũng khám phá ra rằng, sinh vật vẫn còn hiện diện trong khu rừng này. Có thể là một con nai, hay một con gấu cũng nên…
Có nghĩa là tôi sẽ không còn phải mang con tim đập thình thịch trong bóng tối đen đặc và lạnh buốt của rừng. Đám lính ngủ ngon lành xung quanh. Họ coi chiến tranh như một trò chơi cũng nên. Họ chẳng cần bận tâm gì đến hiện tại. Hay họ nghĩ là tôi, tay toán trưởng toán thám báo đã thay họ và có trách nhiệm bảo vệ họ. Thường những đêm mưa như thế, trong poncho, dựa lưng vào gốc cổ thụ, tôi vẫn thường bị hành hạ bởi lũ sinh vật còn sót lại của rừng…
Trong những lần nhảy xâm nhập, thường thường mỗi chiều tôi đã chọn điểm đứng sẵn, yêu cầu bộ chỉ huy đại đội sửa lại tần số, và giả vờ rút sâu hơn vào rừng hơn, để trời vào tối chúng tôi lại kéo nhau ra. Chỉ có cách đó mới tránh những cặp mắt của địch. Chúng tôi còn giả cả tiếng kêu của loài thú như mật hiệu. Hạ sĩ nhất Nay Lat có biệt tài giả giọng chim cú mèo. Một tiếng kêu báo hiệu toán tiền sát hãy đi chậm.. Hai tiếng kêu báo cho cả toán hãy dừng lại. Ba tiếng kêu giục toán phải đi nhanh hơn. Với những thằng nhảy toán như bọn tôi, sự sinh tử kề cận như lưỡi dao kê trên cổ. Chúng tôi phải tùy thuộc vào quyết định của trung đoàn trưởng, sư đoàn trưởng. Nói là lấy tin, báo cáo, dọ thám, thì không đúng. Họ dùng chúng tôi như những con vật thiêu thân cũng nên. Họ ném chúng tôi vào rừng để bảo đảm an ninh cho vòng đai của đơn vị họ. Họ để chúng tôi tự đối phó lấy. Trên nguyên tắc chiến thuật, nếu đụng trận thì lập tức sẽ có quân tiếp cứu, trực thăng yểm trợ bốc chúng tôi, hay phản lực dội bom. Nhưng cái chiến thuật ấy chỉ áp dụng ở đâu đó trên sách vở, hay lý thuyết…
Tim ngực tôi đánh thình thịch. Gai đã làm quần tôi bị rách toẹt và cào đau tôi đến tê điếng. (Loại gai màu đen tuyền, nhỏ như lưỡi câu). Chúng tôi phải tìm đến những bụi gai chó đẻ này mà vạch lối, thay vì đường mòn để tránh những con mắt của địch. Thỉnh thoảng chúng tôi thấy những tờ giấy truyền đơn chiêu hồi của Tâm Lý Chiến nằm vương vãi… Tôi có thể đem cả toán ra khỏi rừng, tìm một chỗ an toàn, rồi báo cáo láo. Hay tôi có thể dừng lại ở đây, không tiến xa hơn nữa. Tôi không muốn tôi chết giữa lúc mọi người được sống. Dù trong cõi này, chúng tôi đã trở thành những kẻ đi tìm cái chết rồi. Có thể, ngày mai, nơi này sẽ trở thành bình địa, vì người ta tin tưởng không có mặt chúng tôi ở đây. Tôi thương những người lính của tôi. Họ cũng thương tôi. Họ không bao giờ bỏ tôi. Tôi biết. Họ cũng không bao giờ cãi lệnh tôi.
Thế mà hôm nay, họ cãi. Họ dừng lại, khựng lại, bất chấp. Hình như họ nghe. Họ linh cảm được một điều bất trắc trong rừng. Mắt họ hoảng sợ. Họ thì thào: “Thiếu úy, thiếu úy có nghe gì không?” Tôi nói tao không nghe gì. Họ nói: “Có tiếng hát.” Tôi cố gắng hết sức. Rõ ràng họ nói đúng. Tiếng hát. Theo gió. Khi dìu dặt. Khi mất. Khi còn. Tiếng hát của người con gái. Vẳng lên ở bên kia bờ suối. Càng lúc, tiếng hát càng cuốn lốc, âm thanh càng bay bổng, để người nghe càng phải lặng cả hồn, để tâm não như tê thiếp. Chúng tôi cùng hướng về tiếng hát, chui rúc lách mình trong những buị cây hay gai rậm lá. Tiếng hát càng lúc càng rõ. Và nhờ ống nhòm tôi có thể nhận ra một cặp trai gái đang ngồi bên nhau trên bờ suối. Người thanh niên trong bộ đồng phục ka ki Nam Định. Và người con gái cũng trong bộ đồ đồng phục lính nữ.
Thằng Nga, tên lực lưỡng nhất, nhìn tôi. Đôi mắt hắn như lờ đục. Hắn muốn thanh toán. Dễ quá mà. Nếu muốn, hai đứa sẽ bò qua bờ suối, ngậm theo dao găm. Rồi hai đứa bất ngờ nhào ra, bịt miệng… Không. Tôi không thể chơi cái trò dã man như vậy. Tôi muốn người thanh niên kia, ít ra, có một giờ phút vĩnh cửu. Hãy cho anh ta được giữ gìn một tiếng hát. Tiếng hát cất lên từ chốn u minh, hoà nhập cùng núi rừng, cùng cây cỏ, cùng gió Hạ Lào, cùng chiến tranh, cùng tuổi trẻ. Tiếng hát như nói lên những điều câm nín từ những con tim của tuổi trẻ Việt Nam… Tiếng hát như bạt cả gió, khiến rừng như thể im phăng phắc, lá như thể thôi lay động trên cành. Và ít ra, tôi vẫn còn hiểu rằng, mỗi người đều có trái tim. Và trái tim thì lúc nào cũng sống vĩnh cửu”.
*
Trong bài viết Đêm Của Thám Kích, tác giả cho thấy cuộc sống của người lính chiến như sợi chỉ treo mành, bên bờ tử sinh:
“Đêm còn lại chúng tôi đã tìm một nghĩa địa làng để trú quân. Vẫn là những mả mới mả cũ. Vẫn là những bia mộ người chết bên cạnh quan tài của những con người còn thở. Người chết muốn yên, muốn an giấc ngàn thu, muốn tiêu diêu miền cực lạc, nhưng vẫn không xong, vẫn bị đám thanh niên từ đâu mò đến gài mìn, chong súng quấy rầy… Còn bọn này, vui lắm.. Chơi đùa với sinh tử. Bầu bạn với âm hồn…
Dù bộ quần áo be bết, giày lấm bùn non chưa khô, có thằng, quần bị rách chưa vá, nhưng mà, bọn này hiểu rõ hơn ai sức nặng của sông của núi. Núi sông đã làm rách quần rách áo, đã làm bạc trắng xác xơ màu vải trận, đã làm cổ áo đen bẩn vì mồ hôi lẫn đất bụi. Nỗi cực khổ này phải bỏ lên khay mà thờ mà lạy, mới phải…
Vẫn là những chữ nghĩa từ những tay trói gà không chặt, đêm ngày nặn óc moi tim để sáng tạo ra những bài văn, bài thơ, khẩu hiệu dính máu đỏ lòm. Nó không cho tuổi trẻ chúng tôi được yên. Nó lôi chúng tôi ra đấu tố giữa đêm hôm khuya khoắc.
Hạ sĩ nhất Ký bò tới nói: “Thiếu úy để tôi dẫn toán tiền thám vào làm tịt miệng bọn chuột. Không lẽ đêm nào cũng nghe chúng chửi mình sao, ông?”. Câu nói của ông Ký như khích tôi. Tôi trả lời: “Thì đi. Tôi cùng đi với ông” . Tôi dặn ông Tướng xem trung đội dùm. Tôi cũng bảo Đông và Tròn ở lại. Ông Ký thì thào với tôi: Ông nhớ theo tôi. Xem chừng những hố bom, hay những vũng nước trâu. Bọn du kích này tinh ranh lắm. Khi nó phát loa, tức là nó đã có cảnh giới, có chốt bảo vệ nó. Ông nghe không. Nó còn dạy đời. Nó nêu đích danh thám kích nữa. Thật vậy, tiếng loa bây giờ chỉ đích danh đơn vị tôi mà kết tội. Bọn hung thần thám kích ác ôn… Thì ra, đám du kích này cũng biết sợ chúng tôi. Chúng tôi lao vào trong đêm. Đứa này theo đứa kia. Ông Ký dẫn đầu. Kế đến là tôi. Sau đó là Minh cao bồi. Và cuối cùng là Nha. Thỉnh thoảng một trái sáng từ hướng trại binh Mỹ được bắn lên, sáng lòa cả không gian, và chúng tôi cả 4 đứa đều nằm rạp xuống. Ông Ký như một con hổ rừng. Chúng tôi vừa bò, vừa ngừng lại để nghe ngóng. Có một điều là địch ít có kích như chúng tôi nên việc xâm nhập vào mật khu địch thường thường ít khi bị phát giác. Chúng tôi cố gắng không lội nước. Tiếng lội là cả một đại nạn…
Những kinh nghiệm giúp họ vẫn còn tồn tại qua bao nhiêu ngày tháng lửa đạn chập chùng. Càng lúc chúng tôi càng nghe tiếng nước xoáy mạnh. Thì ra một con kênh đã chặn ngang. Tiếng nước chảy trong đêm thanh vắng càng nghe dữ dội. Có lẽ là nước lũ từ núi đổ xuống. Chúng tôi nằm trên bờ kinh. Không thể nào qua bên kia được. Rồi tiếng loa lại nổi lên, nghe rõ mồn một. Lúc ấy vầng trăng đã lẫn vào mây. Chúng tôi cùng nhau nhắm vào hướng tiếng loa và nổ súng. Tôi nghe tiếng la thất thanh ở bên kia bờ: Bọn biệt kích xâm nhập!. Bọn biệt kích xâm nhập!. Họ làm sao biết ở bên này, chúng tôi đang âm thầm rút lui. Như thể một trò chơi trốn bắt thời con nít. Quả đúng như lời ông Ký nói, từ đêm ấy, tiếng loa không còn nổi lên trong đêm nữa…”.
Bài viết nầy đã đăng trên tạp chí Bách Khoa, điều khôi hài THT gọi danh từ riêng ông Tướng (nhân vật trong truyện). Tác giả chia sẻ “Truyện ngắn của tôi trên Bách Khoa, khi viết về một buổi chiều phục kích tại một bìa làng, tôi có cho nhân vật ông Tướng – người trung đội phó gốc Nùng (tên thật là Lương Văn Tướng) vào trong truyện. Chẳng hạn “này ông Tướng, hôm nay tổ nào trực”. Tôi viết chữ Tướng với T hoa. Vậy mà ngài sát thủ lại kết tội tôi chơi xỏ một ông tướng nào dó, bôi tất cả những chữ Tướng trong bài văn!…
Kể ra như thế để các bạn hiểu về kiến thức trình độ của các ngài cán bộ thông tin Bộ Cắt Đục (dân sự) cũng như về nỗi khó khăn của người lính viết văn chúng tôi. Chúng tôi đã chiến đấu thật sự để bảo vệ họ được ung dung ở Sài Gòn. Và họ nhân danh sự dốt nát, để chém đâm những đứa con tinh thần của chúng tôi hết chỗ nói”!
*
Trong bài Mắt Đêm cho thấy lòng nhân đạo của người lính VNCH trong cơn lửa đạn:
“Khi tổ tiền sát viên chạy đến gần chiếc cầu gỗ, ẩn dưới bờ mương, tôi bắt đầu cho tổ của trung sĩ Y Bok tiếp tục tiến chiếm gò mả để yểm trợ cho tổ đi sau. Bên kia chiếc cầu gỗ, xóm nhà xác xơ. Vài ngôi nhà ngói bị đổ nát, còn lại những đống gạch vụn, dưới ánh nắng chói chang. Đại Bàng ra lệnh trong máy C.25,  hãy dặn các con anh coi chừng, có mãng cầu nhiều lắm đó.. Tôi ngoắc tay, ra hiệu người trung đội phó, làm một thủ lệnh sẵn sàng qua cầu. Đằng sau, trung đội 1 cũng bắt đầu tiến lên trên đám ruộng phía trái. Một chiếc L.19 đang bay đảo vòng trong bầu trời xanh lơ. Một trái khói trắng bốc lên cách gần tôi một trăm thước. Đó là quả đạn hiệu chỉnh của pháo binh. Tiếp đến là những quả dạn nổ long trời. Bụi cát bốc lên mù mịt. Đó là những quả đạn bắn hiệu quả.
Tôi áp người vào bờ mương, nghe thân thể rung động. Toán lính nằm dọc theo bờ, súng chĩa về ngôi làng. Tôi bặm môi, ra hiệu thằng mang máy đến gần, và báo cáo: Phú Sơn, đây Phú Sơn ba nghe không trả lời. Tôi báo cáo cho anh trình lại thẩm quyền, các con tôi sắp vượt qua cầu. Trình Đại Bàng cho yểm trở. Nghe rõ trả lời. Bàn tay buông lỏng. Tiếng rè rè từ ống liên hợp cất lên: Tôi nghe năm trên năm. Bây giờ những quả đạn pháo binh nổ dồn dập. Những cột khói đen cuồn cuộn, quyện với hơi nóng rát mặt tỏa lên. Tôi được Đại Bàng bảo hãy chờ. Cho pháo binh cầy nát mục tiêu đã. Rồi mình qua. Tôi đáp, nghe năm trên măng, rồi nằm ngửa, súng đặt trên đùi. Tay lấy chiếc khăn, chiếc khăn màu lam mà Quỳnh đã gởi cho tôi trong lần chia ly cuối cùng, đẫm nước mắt, lau vội mặt kính nhem nhuốc nước bùn, tôi nghe nỗi kích thích lạ kỳ, tràn ngập trong từng tế bào, trong huyết quản. Thân thể bị lay động dưới sức nổ của đạn trái phá. Tôi xoay người lại, đặt đầu ống liên hợp vào tai lắng nghe những mẩu âm thoại dồn dập trong máy. Nắng đã bắt đầu lên, và cánh đồng trải dài nhảy múa trước mắt.
Bây giờ, Đại Bàng ra lệnh: Hãy qua cầu. Đứa con 2, yểm trở cho anh. Tôi đứng, hét: Tổ tiền sát viên, qua ngôi làng, chiếm ngôi nhà trước mặt.. Tiến. Hạ sĩ I Ký cầm cây M.16, qua cầu, chạy như bay đến sau đống gạch vụn. Những người lính còn lại tiếp tục chạy qua cầu, yên ổn. Tôi thở dài nhẹ nhõm. Tôi không ngờ tình hình lại yên ổn như thế. Khi nãy, trung đội tôi còn ở trong ngôi vườn cách ngôi làng một cánh đồng đất bùn, chúng tôi đã phải nổ súng dữ dội khi thấy những người bà ba đen chạy vụt qua. Binh I Mễ hét lên: Bọn nó chạy đó, thiếu úy. Tiếp sau, những tràng nổ liên thanh chát chúa vang lên, kèm với những quả đạn M.79. Tôi hét lên: Ai cho lệnh bọn mày bắn, hả? Tiếng Đại Bàng từ trong ống liên hợp ra lệnh thôi bắn, thôi bắn. Tôi bực dọc đá một thằng lính ngồi bên cạnh, say sưa nhả đạn. Ai cho mày bắn, hả? Mày lỡ bắn vào  dân thì sao? Nó phân trần, bực dọc: Em thấy bọn nó mặc bà ba đen, chạy vụt qua mà. Tôi hét: Ai cho mày bắn? Đại Bàng la tùm lum, mày vác tai mà nghe! Binh Nay nói: Ở đây là V.C. hết. Thiếu úy không thấy ca-nông nhả, sao. Tôi không trả lời, rảo về phía tổ trung sĩ Y Đao, bố trí phía trái. Những nhánh hoa giấy đỏ thắm bò qua những sườn nhà trơ nóc, lung lay trong gió. Bầu trời thật xanh. Tôi ngồi xuống, và cảm thấy ngứa ở các ngón chân. Các ngón chân cọ quậy trong đôi tất ướt nước bùn. Tôi nghĩ đến câu nói của binh Nay. Có lý, có lý…
Đằng sau nhà, có tiếng hét của người lính: Lên không. Đầu hàng đi. Tao ném lựu đạn xuống bây giờ. Tôi đứng dậy, tiến về tiếng hét. Thằng Trung cầm trái M.26, sắp bỏ vào miệng rút chốt.. Tôi gọi giựt: Khoan đã. Muốn chết hả? Trung nói: Thiếu úy, em nghe tiếng động trong hầm, bọn nó núp trong hầm, thiếu úy. Tôi nạt: Mày tưởng bắt bọn nó dễ dàng như vậy sao? Trung cầm trái lựu đạn, phân bua: Thì ở đây là bọn nó rồi còn gì. Tôi nói: Lỡ dưới hầm toàn dân không thì sao? Tôi chỉ tay vào trái lựu đạn cay, sao  mày không dùng thứ này? Ai dạy mày, hả.
Tôi nằm trên miệng hầm, sát tai vào lớp đất. Có tiếng rục rịch khe khẽ. Tôi bảo Trung và cả tổ nằm chĩa súng xung quanh miệng. Tôi hét. Đồng bào ở dưới thì lên, bọn tôi tới giải phóng đồng bào. Đồng bào không lên, chết chịu. Tôi đếm từ một đến mười…
Tôi đếm một, hai, ba, bốn, năm. Đồng bào lên không. Trái lựu đạn cay của Trung được đưa ra, và miệng nó sắp rút chốt, thì người đàn bà hiện lên trong khoảng tranh mờ tối của cửa hầm. Mụ ta có bầu, trạc độ 39, 40 tuổi. Mụ vừa trồi đầu lên vừa chắp tay lạy: Lạy các ông, chúng con vô tội. Binh Hai hét: Còn bao nhiêu người ở dưới đó? Mụ rên rỉ: Dạ còn chừng bảy, tám người. Gia đình con cả. Tiếp đến một lũ người trồi đầu lên. Đi đầu là hai ông già, mấy người đàn bà, một đứa con gái còn nhỏ và mấy đứa con nít. Họ mang theo những chiếc va-li thiếc, những thúng đồ hoặc những túi vải bố. Tôi bảo lính dồn đám người về một góc.
Nắng chói lòa trên nền nhà đổ vụn và những mảnh chai phản chiếu một màu nhức nhối. Tôi cảm thấy khó chịu, khi những giọt mồ hôi bắt đầu ri rỉ xuống cổ. Mụ đàn bà cứ réo: Lạy các ông, các ông tha con. Binh nhất Hai lên đạn rắc rắc. Mụ nói các quan ơi tôi vô tội. Binh Hai vội đá cái va-li thiếc bay đi một khoảng và nói: Sao mụ có bầu. Chồng mụ ở đâu rồi. Mụ đàn bà vội nói: Chồng tôi, ảnh làm lính Quân Cụ ở Qui Nhơn. Tôi cười. Bao giờ cũng vậy, mỗi lần hành quân qua mỗi ngôi làng mất an ninh, chỉ thấy đàn bà, trẻ con và ông già bà lão. Đàn bà phần nhiều có chửa. Và một điều lạ, hỏi chồng bà ở đâu, chúng tôi chỉ nghe ảnh đi lính Quân-Cụ, Quân-Nhu, hay nằm bệnh viện. Lần này mụ đàn bà cũng nói như vậy. Tôi bảo lính lấy dao găm cạy va-li thiếc, lục soát. Nắp va li được mở tung. Có một bộ ka-ki vàng. Binh Hai hét: Chồng mụ đi lính Quân Cụ hay đi giải phóng. Nói mau. Hắn sắp bạt tai, thì tôi vội ngăn lại. Tôi không thể chịu nổi những gương mặt thảm thê, những đôi mắt ngơ ngác sợ sệt đó. Mụ đàn bà nhìn tôi van lơn. Hai ông già tiếp tục nhìn ra cánh đồng chói nắng.
Những người khác nhìn xuống đất. Tôi quay mặt lại. Binh Hai vẫn tiếp tục điều tra, dọa dẫm. Nắng đã làm nhức mắt. Tôi muốn nhắm mắt lại, ngủ một giấc, một giấc thôi. Mẹ tôi ở đó, những đêm ôm chặt tôi trốn dưới gầm giường. Đạn réo ngoài sân, ngoài ngõ, ngoài hiên. Đạn réo trên đầu, trên mùng, Mẹ tôi ở đó, trên sân nắng, hai tay để lên đầu, khóc lóc nhìn bọn lính Tây tra hỏi. Vẫn những giọt nước mắt, vẫn những tiếng khóc lóc, như một âm vang từ xa xôi vọng lại, từ một quê hương, một xóm làng đìu hiu. Tôi chống hai tay vào đầu gối, mệt nhọc đứng dậy.
Tôi nói: Thôi, để yên đó. Mùi thối từ ngôi nhà gạch bên cạnh bốc lên, đến buồn nôn. Có lẽ là một xác sinh vật nào đó. Những quả cà-nông vẫn tiếp tục dội về, như một cung  đàn buồn thảm. Chiếc L.19 vẫn rà rà trên đầu. Tôi đi về phía nhà sau. Toán lính đang lục soát trong nhà bếp…
Đến bốn giờ chiều, chúng tôi được lệnh mang số dân cư ngụ tại đây về vùng có an ninh. Trung đội tôi bọc chót. Tôi phải khổ tâm mới bảo họ lên đường. Những thúng gạo, nồi niêu, những bát chén, kèm theo những tiếng khóc nức nở. Tôi nghĩ đến một quê hương đã mất. Tôi phải bảo tính thúc từng người. Hình như không có người nào muốn đi. Cuối cùng đoàn người lục tục lên đường. Viên cố vấn Mỹ đi theo đại đội,  đếm từng đầu người, rồi ghi trên sổ tay. Đồng ruộng trải dài, thỉnh thoảng vài hố bom cày, loang loáng nước. Đoàn người chậm chạp đi qua những con ruộng đất bùn…
Cuối cùng, đoàn người được đưa về làng ven lộ yên ổn. Có ba, bốn người ở lại. Tôi khổ sở nhìn đám người chậm chạp, cử động trong màu sắc nhá nhem. Đại-bàng bảo nhiệm vụ của mình đến đây đã hết. Sơn-tây cho mấy đứa con sẵn sàng ra lộ, chờ lên con cua. Tôi đứng trên thềm một ngôi nhà gạch, nói lớn: Bây giờ đồng bào có thể yên tâm ở lại. Đây là vùng an ninh, có lính quận bảo vệ. Đồng bào được tự quyền đi lại. Đồng bào có thể về thành phố. Chúng tôi cám ơn đồng bào…
Toán lính trở về dưới ánh trăng mập mờ. tiếng côn trùng vọng về âm u.. Những khóm tre xõa tóc như những bóng ma quái. Tôi cảm thấy lạnh. Trong máy C.25, các đứa con của trung đội 2, báo cáo bắt được một người đàn ông vừa trốn từ chân núi trở về và sắp sửa bắn một người đàn bà, trong đêm lại mò lên núi. Các đứa con báo cáo vị trí đã bị tiết lộ, bây giờ di chuyển toán lính về một địa điểm khác. Tôi lặng mình trong âm thanh quen thuộc từ ống liên hợp. Tiếng gọi và trả lời của người lính mang máy tiếp tục trồi lên, khe khẽ. Vô sự, các đứa con tôi đang zulu, đừng nổ súng ẩu, nghe bồ…
Dưới ánh trăng, khóm lá loang loáng những giọt sương đêm. Tôi nằm trên poncho. Người lính giúp việc mở bi-đông rượu, nói: Thiếu úy, uống một tí cho ấm. Tôi nói ừ đưa tao uống một tí. Sao mày lại kỳ vậy. Mỗi lần hành quân, lại mang cả bi-đông rượu theo. Uống say làm sao gác được. Hắn cười uống để đánh giặc cho hăng, thiếu úy…
Sáng hôm sau, tôi dắt trung đội đi lục soát khu vực toán kích nổ súng hồi đêm. Hy vọng sẽ tìm thêm một kẻ bị thương nằm lại đâu đó. Thằng Ngọc dắt tôi đến chỗ người bị bắn hồi đêm…
Một tháng sau, tôi cùng một thằng bạn lái xe jeep trở về thành phố. Chúng tôi ngồi trước hàng hiên của một tiệm giải khát. Tôi bỗng thấy đứa con gái nhỏ đứng trên lan can của một nhà tắm hơi. Tôi nhớ mang máng con bé bị tát tai trong chuyến hành quân trước. Con bé có mái tóc dài, dáng gầy, và đôi mắt ngơ ngắc. Con bé gánh đôi thúng gạo nặng, hai chân lún sâu dưới bùn, lảo đảo bước đi. Con bé đứng dưới gốc đa. Bây giờ con bé đang đứng trên lan can một tiệm Tắm Hơi. Tôi đứng dậy, đá cái lon sữa, đá một cái thật mạnh”.
*
Bài viết về Ban Mê Thuột Ngày Đầu Ngày Cuối, Diều Hâu Bỏ Núi và Về Một Đại Đội Cũ vào thời đểm THT ở Quân Đoàn IV tháng Ba năm 1975 những sự kiện xảy ra gợi cho tác giả liên tưởng lại hình ảnh trong quá khứ để kết nối với hiện tại. Và với lối viết linh động như bản thân mình là người trong cuộc. Theo lời tác giả về Ban Mê Thuột… “Đây là một câu truyện được xây dựng từ những dữ kiện có thật theo lời kể của cựu thiếu úy trinh sát trung đoàn 45/SĐ23B và cũng là người bạn cùng một sư đoàn, Nguyễn Lương Sơn. Tác giả mong được nói lên phần nào về một biến cố lịch sử mà những người lính vô danh VNCH đã là những chứng nhân, và hơn nữa đã tham dự thật sự vào, bằng máu, nước mắt, kiêu hãnh và tủi nhục trong những ngày oan nghiệt nhất của lịch sử đất nước từ ngày đầu tiên 10/3 đến ngày cuối cùng 17/3/75 tại Ban Mê Thuột.
Bài viết Về Một Đại Đội Cũ, tác giả ghi “Kính dâng hương hồn anh Hồ Văn Hòa” đã một thời sát cánh bên nhau.
“Đêm nay, quê người, và hơn 30 năm xa cách cho hai cánh diều hâu bỏ đàn bỏ tổ. Những giọt lệ bỗng nhiên lại thêm một lần chảy lạnh cả tâm hồn. Người sống nhớ về người đã chết. Người may mắn nhớ về người không may mắn. Nguồn cội từ một mái nhà được phanh ra, để cùng nhau tự hào và cũng để cùng nhau mà khóc thầm. Những con người, không bao giờ nhìn lên, mà chỉ nhìn xuống, cam phận - THT”
“Từ 405, anh Hòa đã mang chiếc khăn quàng cổ màu đen về 35 BĐQ. Từ 405, tôi cũng đã mang 9 tác phẩm văn học đến cùng độc giả. Con số quá đủ cho một tấm lòng đối với bạn bè đồng đội của mình. Tôi hẹn với lòng, sau Mặc Niệm Chiến tranh là bỏ viết. Tôi đã gởi gấm những gì mà tôi cần gởi gấm. Nhưng bây giờ, tôi lại ngồi trước máy. Những lời của anh Hòa chẳng khác cơn bão xoáy lốc vào tâm não. Một đằng, tôi cảm thấy mình thật hãnh diện, bởi vì tôi đã có mặt tại một đơn vị đã từng tạo nên một thành tích kỷ lục có một không hai trong QLVNCH…
Phải. Không tự kiêu sao được khi đám lính khăn choàng đen huy hiệu Diều Hâu vồ mồi đã làm địch Bình Định kinh hồn bạt vía. Chúng tôi đã áp dụng tối đa chiến thuật dạ kích. Anh bạn, tôi xin nhắc lại, nếu địch là ma, thì ta cũng là ma, tại sao mấy ngài chỉ huy cao cấp chỉ biết cái chiến thuật nhà giàu, ngày đánh, đêm về phố nhảy đầm hay ngủ với vợ. Tại sao các ngài không thành lập những đội quân chuyên đánh đêm, hay đổi lại chiến thuật đánh ngày sang đánh đêm. Địch lợi dụng bóng tối tại sao ta lại không lợi dụng bóng tối để đột kích mật khu, phá nát hậu cần, gây cảm giác lo âu kinh sợ cho đối phương, bắt đối phương lúc nào cũng hoang mang giao động? Tại sao cứ chơi trò đóng đồn phòng thủ, chờ chuông báo tử.
Chuông báo tử. Những hồi chuông đã kéo hối hả khắp cả miền Nam, và bóng u minh đã òa chụp xuống từng người, từng thân phận. Không phải vì ta hèn. Chưa có một đội quân nào trên thế giới này, thua trận, nhưng lại tự hào cùng hàng ngũ, cùng màu cờ sắc áo như quân đội miền Nam này. Không phải một ngày, một tháng, mà cả đời. Chỉ có những kẻ trong cuộc mới hiểu và thấm thía được nỗi tự hào. Và đó là lý do cắt nghĩa tại sao tôi lại phải viết hoài, viết không mệt về màu áo cũ của mình.
Viết về một đơn vị, để mà tự hào, nhưng riêng tôi lúc này còn để hối hận.. Bởi vì, ngòi viết của tôi chưa bao giờ có một nhân vật như Y Brep trên trang giấy. Và tôi cũng chưa bao giờ mời ông Tướng giải phóng, trung đội phó của tôi một cốc rượu, một lon bia. Ông ta anh hùng như thế, dẫn toán vào mật khu, hù lính Bắc quân, thế mà mỗi ngày vẫn chào tay tôi, trình diện tôi, giúp đỡ tôi, nâng bước chân tôi lên trên những bãi chiến trường sôi bỏng. Thế mà tôi không có cả một lời. Và dù có viết, thì đám kiểm duyệt ở Sài Gòn lại bôi đen chữ Tướng viện dẫn tôi chơi xỏ một ông tướng nào đó. Vâng, tôi đã vô tình quên họ, những người lính của trung đội tôi như Y Đao, Nay Lat, Y Suk, như Nha, Vọng, Tròn, Hường, Nai, Lợi, Ký, Mễ, Ưng Luông. Tôi chỉ bận tâm đến bản thân tôi. Tôi chỉ tìm mọi cơ hội để được thăng quan tiến chức, hay để được thoát khỏi địa ngục trong lúc họ vẫn tiếp tục cùng chiếc poncho, hay lon cơm gạo sấy, coi đơn vị là mái nhà vĩnh viễn của mình mà không một lời ta thán”.
*
Diều Hâu Bỏ Núi bi phẫn, uất hận như hàng trăm ngàn chiến sĩ nơi sa trường đã liều mình dấn thân trong lửa đạn để bảo vệ quê hương nhưng thời điểm cuối cùng đành ngậm ngùi tan hàng!
“Suốt cả tuần, trận đánh vẫn chưa ngã ngũ. Hết đơn vị này tiếp đến đơn vị khác bị khựng lại khi tìm cách tiến qua mặc dù trước đó bom pháo dọn đường đã trút xuống như mưa thác. Những hang đá chằng chịt và kiên cố ở sườn đồi, nhìn xuống con lộ dẫn vào sâu trong rừng  đã khiến những cơn mưa bom, và đạn pháo binh phải chịu thua. Và đơn vị đã phải quay lui. Cuối cùng cấp trên điều động đơn vị chúng tôi đến mặt trận. Họ đã hiểu chiến thuật trận địa chiến phải bó tay trước những tên địch ngoan cố, xâm mình. Không dễ gì phải tấn công một cao điểm khi phải bò lên giữa một triền núi trống trải trước những họng súng đại liên đã chực sẵn. Và chỉ còn cách là dùng chiến thuật dạ kích. Chỉ có cách đó mới may ra làm câm họng những ổ súng tàn bạo.
Người lính bây giờ là người lính cảm tử. Trước hết hắn phải cố làm sao để nhận rõ nơi trú ẩn của địch, phải gắng định hướng chổ đặt khẩu súng nặng bằng cách nghe tràng nổ cũng như nhìn tia đạn lửa đến từ đâu, sau đó dùng máy hồng ngoại tuyến, tìm mọi cách bò đến, lao vào,  quăng lựu đạn tiêu diệt…
Đêm nay chúng tôi lại thêm một lần nữa, mặc đồ đen, ngậm dao găm, bọc đầy lựu đạn loại lân tinh. Tổ trưởng  còn mang theo ống nhắm hồng ngoại tuyến. Giờ G là 3 giờ sáng. Theo kinh nghiệm chiến trường, khoảng thời gian này là khoảng lý tưởng nhất cho cuộc làm ăn đêm. Bởi lẽ bất cứ thằng lính nào cũng đã thấm mệt hay cũng đang mơ màng giấc ngủ. Và mật lệnh cho chúng tôi là hỏi Thần điểu đáp Kình Ngư.
Dĩ nhiên tôi để trung sĩ Thành làm tổ trưởng tiền sát gồm hạ sĩ Nga, hạ sĩ Y Mông và hạ sĩ Phát. Hắn gan lỳ và dữ tợn. Càng nguy hiểm chừng nào, hắn lại càng say mê, phấn khích chừng nấy.
Tôi xiết chặt tay hắn, và hắn cũng xiết chặt tay tôi như chuyền cho nhau sức mạnh. Hắn thầm thì, giọng ngạt mùi rượu đế: Có gì thì nhờ ông thầy giúp đỡ con vợ tôi. Tôi cảm động đến rưng nước mắt. Tôi biết phải an ủi làm sao để hắn cảm thấy tự tin hơn. Mục tiêu không phải dễ gì thanh toán khi kẻ địch có lợi điểm hơn chúng tôi, và nhất là họ đang cố sức bảo vệ cây súng nặng. Tôi nói nhỏ: Đừng nói bậy không nên…
Tôi dẫn một tiểu đội bò lên hướng trái, và trung sĩ nhất Tông, trung đội phó, lãnh một tiểu đội bò lên hướng phải. Chúng tôi không gặp trở ngại nào khi bò qua bãi đất trống trước khi lên đồi. Chúng tôi phải dồn cục nhau. Hạ sĩ nhất Bảy bò đầu. Tôi bò theo hắn, vừa bò vừa quan sát bằng ống nhắm hồng ngoại tuyến. Trên lưng áo mỗi đứa có dấu hiệu lân tinh rất nhỏ để chúng tôi có thể dễ dàng nhận ra nhau. Qua máy nhắm, tôi có thể nhìn thấy mấy bóng đen của toán tiền sát đang lom khom vừa bò vừa chạy.
Bỗng nhiên, một tiếng nổ long trời lở đất nổi dậy, và sau đó là những tràng đạn tiểu liên, đại liên cắt xé màn đêm. Rõ ràng địch đã phát hiện chúng tôi. Tuy nhiên họ dường như không thể biết chúng tôi ở đâu. Chỉ có kẻ lợi là chúng tôi. Bởi vì chúng tôi có thể biết hang đá nào địch đang trú ẩn. Chúng tôi chỉ việc bò đến và quăng lựu đạn xuống hang đá.
Địch không mạnh như chúng tôi tưởng. Chúng tôi đã dễ dàng làm câm ổ súng nặng ngay đêm hôm ấy. Để đổi lại, trung đội phải chịu thiệt trung sĩ Thành, người hạ sĩ quan gan dạ nhất của đại đội. May mắn, hắn vẫn không chết, dù cả người hắn bị banh tơi tả do từ những trái lựu đạn mà địch đã gài trên lối dẫn đến hang đá. Hắn đã dọn đường cho những người lính cảm tử khác tiến lên để tiêu diệt ổ súng…
Giữa lúc ấy tín hiệu bay đến… Tin cho biết Sài Gòn đã ra lệnh bỏ cao nguyên!
Cả hàng quân đứng im phăng phắc. Những võng mô Nó đến sau khi chúng tôi được tin Mặt Trời sẽ bay đến thị sát chiến trường và gắn huy chương. Cái lệnh được ban từ một trung tâm hành quân nào đó ở rất xa, nghẹn ngào và hối hả xen giữa muôn ngàn âm thanh đàm thoại hổn loạn trong máy khuếch đại, đầy tiếng chửi thề, những lời phẫn uất, những câu hỏi mà không có câu trả lời, những tuyệt mất hết màu sinh khí. Những chiếc mũ rừng chụp lên những đầu tóc rối bù. Những chiếc quần trận mà bụi và đất đã lấy đi hết cả màu xanh, rách toạc lộ cả vãi quần lót… Trời đã trở chiều. Nắng còn sót lại làm thắm vàng cả cánh rừng bên cạnh. Ông nói kể từ giờ phút này anh em có quyền ra đi. Trước khi chia tay, xin anh em hãy cùng tôi đứng nghiêm một phút mặc niệm cho những người bạn của chúng ta đã bỏ mình. Rồi ông hô nghiêm, buồn bã. Chúng tôi cùng cúi đầu. Có những giọt nước mắt lăn trên má khô cằn, hóp sâu, bơ phờ của người lính già. Có những giọt lệ vẫn còn long lanh trên tròng con ngươi thất thần, đục lờ vì những đêm ngày căng thẳng trong lòng hỏa ngục. Có giọt lệ chưa kịp lăn, lại thêm những giọt lệ khác trào ra. Có thằng lính trẻ khóc tức tưởi khiến người lính già phải la lên: Mày làm như con nít lên ba. Làm sao tao gả con gái tao cho mày được”.
Chưa bao giờ chúng tôi cảm thấy buồn đến độ tê tái, héo úa cả ruột gan như lúc này. Súng vẫn nổ. Tiếng pháo vẫn vang dội ì ầm từ xa… Những cuộn khói vẫn còn bốc lên trên căn cứ. Những người bị thương vẫn rên rĩ. Mắt ai quay lại nhìn về hướng xa, mờ lệ. Lần đầu tiên tôi mới hiểu thế nào là nỗi mất mát. Chắc là không bao giờ tôi được cơ hội trở lại thành phố ấy nữa. Chắc là không bao giờ tôi còn trở về để ngồi trong quán cà phê có cô nàng đôi mắt rờn rợn liêu trai nữa. Mất rồi. Sự thật đến độ thật kỳ cục...
Bây giờ, thầy trò thi nhau mà chạy. Tướng cũng cuốn cờ, mà quân cũng cuốn vó. Lúc này là lúc tôi muốn bỏ tất cả. Tôi đã không còn đủ sức để gánh thêm cái trách nhiệm này nữa. Tội này ai gây nên. Lịch sử này ai gánh chịu. Những người lính của tôi, họ ít học, người gốc nông dân, người gốc Thượng, gốc Nùng, người bị bắt đi quân dịch, họ đâu có tội gì để gánh cái khối đá tảng của lịch sử. Những người có trách nhiệm bây giờ ở đâu, sao máy thì bặt tăm không một lời thăm hỏi. Hay họ đã chạy trốn rồi.
Sau đó chúng tôi vất súng cởi bỏ bộ đồng phục và mạnh ai nấy tan hàng. Riêng tôi thì không biết đi đâu nữa. Mặt trời cũng sắp lặn”.
*
Đọc những bài viết của Trần Hoài Thư về thân phận của người lính chiến mới cảm nhận những dòng thơ của anh. Trong thời chinh chiến trong thơ và văn của THT trước thực trạng bi thương trong cơn binh lửa.
Thi phẩm Ô Cửa (tuyển thơ toàn tập) dày 382 trang gồm 245 bài thơ liệt kê trong 8 trang Mục Lục. Thư Ấn Quán 2004. Trong phần Lời Mở tác giả cho biết “Tuyển tập nầy gồm những bài thơ trong Thơ THT (xb 1996), Qua Sông Mùa Mận Chín, Tháng Bảy Hành Quân Xa, Ngày Vàng, Người Lính… Có một số bài được chỉnh lại, khác với nguyên tác”. (Sau tuyển tập nầy có ấn hành hai thi phẩm Xa Xứ năm 2010, Vịn Vào Lục Bát năm 2017 có thêm những bài thơ thời lính trận).
Bài thơ Ô Cửa (trang 14 & 15) được chọn làm tựa đề cho tuyển tập thơ. Từ bài đầu tiên Đêm Vượt Sông đến bài cuối cùng Kết, tác giả không sắp xếp sáng tác theo thứ tự thời gian.
Với chân dung về một người lính trong Trần Hoài Thư từ lúc ra đơn vị tác chiến đến lúc buông súng. Thân phận người trai trong thời chiến qua bài thơ Thế Hệ Chiến Tranh:


“Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm không biết về đâu
… Thế hệ chúng tôi già như quả đất
Râu tóc mỗi ngày mọc những hoang mang…”
Cuộc sống của người lính tác chiến quá cơ cực, bóng tử thần rình rập nên:
“Chúng tôi sống, ngày là đêm, bóng tối
Trong hấm sâu, dưới địa đạo u minh
Hơi hụt hẫng, theo từng cơn địa chấn
Tai ù ù như bật vỡ âm thanh”
(Bóng Tối).
Quân Đoàn II có hai Sư Đoàn, SĐ 23 đảm trách các tỉnh phía Nam và SĐ 22 đảm trách các tỉnh phía Bắc. Nơi nầy có nhiều địa danh xảy ra chiến trận:
“Trung đội những thằng trai tứ chiếng
Những thằng bỏ lại tuổi thanh xuân
Diều Hâu bôi mặt hù ma quỉ
Thuở đất trời bày đặt nhiễu nhương…
… Trung đội ta những thằng giữ đất
Từ Qui Nhơn, Phù Cát, Phù Ly
Ra Tam Quan qua vùng An Lão
Từ Kỳ Sơn, Phước Lý, An Khê”
(Trung Đội)
Từ một nhà giáo ốm yếu, cận thị, làm lính chiến vẫn bạt mạng, sống bất cần, vì vậy khi Nhảy Trực Thăng ở Phước Lý:
“Thì ta ra trận, ta ra trận
Trăm lần thì cũng chuyện rong chơi
Vẫn chuyến bốc quân vào buổi sớm
Vẫn chuyến trở về không buồn vui”
Hết nơi nầy đến nơi khác từ núi rừng đến sình lầy như Đêm Đột Kích Ở Nho Lâm:
“Đồng nước mênh mông, quân ngoi ngóp
Đêm đặc lòng như thuỷ mộ quan
Òa lên trái sáng run hơi thở
Nghiến chặt hàm răng về Nho Lâm
Ai dẫn đường đi sao khựng lại
Trời đen không thấy một vì sao
Bốn bề thăm thẳm lau cùng sậy
Những rặng tre mờ in bóng cao”
Người lính Thám Kích luôn luôn ứng trực, không có giờ giấc, đôi khi hành quân cả tháng, vừa về đơn vị lại lên đường Trước Giờ Tiếp Viện:
“Nửa đêm kẻng giục, quân ra trận
Kinh động cả lòng đêm tối bưng
Nhận lấy ba ngày cơm gạo sấy
Không buồn chỉ một chút bâng khuâng
Đời ta là con số không vô tận
May trên đầu còn chiếc mũ rừng
Mũ nhẹ nên coi đời cũng nhẹ
Chiến tranh. Thì cũng tựa phù vân”.
Hình ảnh sống thực của người lính Thám Kích nay đây, mai đó mới phác họa được thảm cảnh:
“Diều Hâu đã về như một lũ âm binh
Kẻ trước kẻ sau lao vào địa ngục
Đêm không thấy đường giữ dây khỏi lạc
Chúng tôi băng đồng nước ngập
Giải cứu quê em”
(Đêm Tiếp Cứu Chợ Huyện)
Sống sót lúc hành quân, được trở về hậu cứ như Đàn Ngựa Về Thành:
“Khi trở lại ngồi trong lòng quán tối
Thuốc vàng tay và vầng trán đăm chiêu
Thế hệ chúng tôi những đứa đôi mươi
Hồn đã mọc những nụ buồn rất sớm
Khi trở lại, dựa lưng vào vách quán
Để giọt buồn pha đậm tuổi suy tư
Chiếc mũ rừng che nửa mặt âm u…”
Cũng như những bài trong văn xuôi, thế hệ của anh sinh nhầm trong cuộc chiến nên phải cam chịu đao binh, bất hạnh… thay vì nguyền rủa nhưng vẫn tự hào:
“Tôi đứng giữa những nỗi buồn lịch sử
Lẫn tự hào của tuổi trẻ hôm qua”.
Với ngọn đồi mà người lính Thám Kích đã bao lần hành quân rồi trong lần trở lại với Đồi Xưa:
“Tôi qua đồi xám mây mờ núi
Thương về đâu một lũ sáo rừng
Hôm qua đồi ngập hàng trăm xác
Đạn pháo đào sâu bãi chiến trường
Có ai dưới lớp mồ hoang dã
Nằm xuôi chân mắt mở trợn trừng
Chiều nay sao mọc về phương Bắc
Sao ruột lòng vắt đỏ phương Nam
Cỏ tranh lớp lớp che đường dốc
Phòng tuyến buồn hiu nhuốm nắng chiều
Trận đánh cũng đi vào quên lãng
Sao còn rờn rợn những hồn xiêu”
Chiến tranh thật tàn khốc, trên đồi dưới sông đều là mồ chôn xác người. Những nơi người lính trận nhập cuộc đều là chứng nhân cho những nấm mồ.
Những địa danh trong vùng trách nhiệm đó, ngoại các địa danh có tên trên bản đồ, và một nơi nguy hiểm, gọi là Eo Chết:
“Địch cho Trung Đội qua eo chết
Hai bên sườn đại liên đan nhau
Một hai ba… Lộn. Nằm co quắp
Còn lại vẫn ào lên ào lên
Đừng bò! Đừng bò!
Trung đội phó hét cuồng điên
Cỏ tranh bắt mồi cháy mạnh
Gió tạt khói mù
Bốn bề khói rợp
Khói cay cay cặp mắt nổ tròng
Khắp bốn bề gào thét xung phong
Cao điểm chiếm rồi
Vui mừng quá độ
Mà sao người lính Truyền Tin rơi lệ
Báo cáo trong tiếng mất tiếng còn
Về những thằng bị kiến cắn * ngủ yên”
(* Bị kiến cắn: Tử trận)
Địa danh Kỳ Sơn có nhiều nơi ở miền Bắc, và hình như chỉ ngọn đồi Bình Đinh mang tên nầy, cũng là nơi xảy ra hoạt động đơn vị của đối phương (Nông Trường 3 Sao Vàng) nên luôn luôn xảy ra nhiều cuộc đụng trận với nhau.
“Kỳ Sơn đồi trọc chim không đậu
Đại đội đi, một nửa không về
Lớp lớp người nhào lên, ngã gục
Đạn sủi bờ sủi đá, u mê
Kỳ Sơn cao độ hai trăm thước
Đêm hoảng kinh, đỏ huyết vầng trăng
Những xác hôm qua, vàng rám mỡ
Những anh hùng, ngụy tặc, nằm chung
Kỳ Sơn ơi,  Kỳ Sơn Kỳ Sơn
Người chưa về tóc mẹ bạc như sương
Ngày sau ai nhớ cho dòng lệ
Kỳ Sơn ơi, Kỳ Sơn Kỳ Sơn…”
Đọc bài thơ Kỳ Sơn nầy nhớ bài Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên:
“Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi…”.
Bài thơ Đêm Phục Kích Ở Luật Chánh cho thấy sự đối mặt với địch quân:
“Ráng thức, mắt ơi đừng nhắm nhé
Nơi nào cũng vậy, cũng hồn ma
Nơi nào cũng vậy, ngàn tinh tú
Nhoà nhạt trên cao, tựa mái nhà
… Trời hởi, thèm chao ơi giấc ngủ
Sao mà, ngực thình thịch nổ tung
Đêm nay dài quá, sao dài quá
Mà đám Sao Vàng chưa đến thăm?
… Ai biết đêm rồi ta trắng mắt
Để chuông chùa rộn rả bình minh?”
Lúc lâm trận, phải đối mặt nhau, súng đạn vô tình, ta không giết địch thì địch giết ta nhưng sau trận chiến, nhà thơ thể hiện tấm lòng nhân bản, hình ảnh cao đẹp của người lính chiến:
“Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Để thấy miền Nam lính hiền ghê gớm”
Có một nơi nào hơn ở Việt Nam
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam”
(Ta Lính Miền Nam)
Một Ngày Không Hành Quân tìm niềm vui bên ly rượu để nhớ đồng đội đã ra đi và với đối phương cũng rót rượu thương xót:
“Cô hàng ơi cho một ly không
Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
Trên đồi cao, mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn, đâu có gì thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em”
Sau những năm làm lính Thám Kích với xác người, thây ma… với thương tích, tử sinh… thế mà Từ Biệt Núi Rừng vẫn còn mang theo hình ảnh:
“Từ biệt núi rừng, vùng đất khổ
Những ngày bùn đỏ bám giày saut…
… Mà sao cứ nhớ chùm lan dại
Giữa bãi hoang tàn vẫn nở hoa
Thôi nhé, Trường Sơn xin bỏ lại
Ta về châu thổ lội qua Miên
Bỏ lại trên vai hòn núi nặng
Cho những bạn bè đồng đội anh em”.
*
Thư Quán Bản Thảo 55, tháng Giêng năm 2013 với chủ đề Dương Nghiễm Mậu. (TQBT do Trần Hoài Thư chủ trương, không bán, chỉ gởi tặng bạn bè, thân hữu yêu văn học, liên lạc với ban biên tập). Niềm vui khi nhận được TQBT 55 nhưng khi mở trang báo với nỗi buồn và xúc động.
Vài dòng trong Thư Tòa Soạn do thân hữu Trần Thị Nguyệt Mai viết: “Số báo kỳ này được thực hiện trong lúc người thân yêu của anh chủ trương nằm trong bệnh viện vì cơn stroke ác nghiệt. Anh chủ trương đã quyết định đình bản TQBT vô hạn định, tuy nhiên chị THT vẫn muốn tờ báo tiếp tục.
Với ý muốn ấy, chúng tôi - những người xem TQBT như một mái nhà của mình – đã cùng với anh chủ trương cố làm theo ý muốn của chị”. Chị Nguyễn Ngọc Yến, hiền thê THT, sát cánh cùng chồng để thực hiện TQBT và Thư Ấn Quán. Tháng 1 năm 2013 một cơn tai biến (stroke) đã làm chị ngã gục!
Ở trang báo kế tiếp, mục Sống & Viết, Trần Hoài Thư nói rõ hơn về thảm cảnh bất ngờ phủ chụp xuống gia đình ông, như sau:
“Bây giờ trận bão Sandy chỉ còn là lịch sử. Những thân cây nằm ngổn ngang trên đường như thế này đã được dọn sạch, và bên lề đường, thỉnh thoảng còn những gốc cây chưa kịp dọn, nằm trơ vơ, với gốc rễ và ụ đất như một di tích của trận thiên tai hãi hùng đã chụp xuống trên tiểu bang New Jersey chúng tôi.
Nhưng có một trận bão khác. Lần này ác nghiệt hơn bao giờ. Đó là trận bão stroke.
Nó chỉ nhắm vào Y. để mà đánh. Nó không có sức gió, hay có một triệu chứng gì để nhà khí tượng học có thể đoán ước về hướng đi, về vùng đất bị ảnh hưởng. Nó không cho chúng tôi biết để đề phòng. Làm sao tôi có thể lấy chắn, khiên để bao bọc che chở cho nhà tôi. Và ngay cả tôi? Làm sao tôi có thể hứng nỗi đau đớn thay cho Y. Tôi khóc. Mắt đỏ, sưng, nhưng tôi nói dối với người ta là tại cặp mắt mới vừa mổ. Sức gió dù mạnh đến mấy, ta cũng có thể phòng bị, vì kỹ thuật khoa học về khí tượng học có thể giúp ta được an toàn, nhưng sức stroke thì quá khủng khiếp. Dù y học tiên tiến cách mấy cũng đành bó tay. Để rồi nó khiến thân thể không thể ngồi, đứng, tay trái, chân trái không thể cục cựa. Nó đóng những cây đinh khổ nạn vào thân thể con người…”.
Cho đến tháng 4 năm 2018, trải qua 5 năm, kể từ ngày ngã bệnh chị phải ngồi xe lăng, anh THT luôn luôn túc trực chăm sóc vợ. Vài lần đưa vợ vào nursing home nhưng anh THT lại không đành lòng sống thui thủi một mình ở nhà, quá trống vắng nên đem về, khi bệnh tình trở nặng, lại mang vô. Anh chị có đứa con trai duy nhất, bác sĩ, làm việc ở tiểu bang lân cận nên không có cơ hội gần gũi với cha mẹ.
Với sự đồng tình của vợ, trong suốt những năm qua Thư Quán Bản Thảo vẫn ấn hành và Thư Ấn Quán vẫn tiếp tục thực hiện những tác phẩm của thân hữu. Có lẽ, vợ chồng THT là ‘cặp đôi” duy nhất ở hải ngoại có tấm lòng trong sáng, thiết tha đến việc bảo tồn văn học miền Nam trước năm 1975 ở hải ngoại.
Với THT, từ ngày làm lính trận, cận kề với cái chết nên bạt mạng, sống bất cần đời nhưng hết lòng với đồng đội, bắng hữu. Giang hồ lãng tử với bao mối tình si vẩn vơ cho qua ngày đoạn tháng. Con ngựa bất kham (anh tuổi Nhâm Ngọ) dừng chân trong vòng tay của người bạn đời.
Trên tạp chí Sóng Văn (1997), phỏng vấn chị Nguyễn Ngọc Yến, chia sẻ đôi điều:
“Cũng vì yêu mến văn chương, nên duyên văn nghệ đã đưa chúng tôi gặp nhau. Chúng tôi có những kỷ niệm đầy vui buồn theo vận mệnh thăng trầm của đất nước. Nhưng kỷ niệm tôi mang theo đến lúc tàn sinh là những ngày bồng con đi xin ăn ở một làng hẻo lánh bên bờ Thái Lan, sau những ngày đói khát, lênh đênh trên biển cả…
Đối với anh Thư, đi làm việc về hầu như ‘đóng đinh’ trước computer, gõ ‘lóc cóc’, ít khi để ý đến công việc gia đình. Nhưng tôi thấy việc nhà là trách nhiệm của một người vợ, nên không có gì phiền hà trong lòng cả…
Lúc nào viết cũng có ly cà phê và điếu thuốc để trước mặt, anh nói: có hút thuốc thì nguồn cảm hứng mới dồi dào. Tôi rất sợ mùi thuốc lá, nhưng đành chịu chớ biết sao giờ…”.
Những ngày cuối đời của vợ chồng Trần Hoài Thư tuy “bất hạnh về bệnh tình” nhưng là hình ảnh đẹp nhất, trân quý nhất. Và, vài dòng thơ trong thi phẩm Vịn Vào Lục Bát, THT trải lòng với vợ:
“Hôm nay lạnh, buồn tàn thu
Em nằm tôi hạ tôi hầu à ơi
À ơi bồ kết rụng rồi
Sao không rụng trái khổ đời nghiệt oan”
(Bồ Kết Rụng Rồi)
“Còn đây tấc dạ thước mền
Giường dưng, gối lạ, ngọn đèn vàng hiu
Còn đây, còn đêm tịch liêu
Trong tôi con sóng thủy triều trở trăn…
(Về Lại Phòng Ngủ)
Trước hình ảnh người vợ lâm trọng bệnh, THT tự trách mình gây “nghiệp oan” nên người bạn đời mới cam chịu:
“Em đi để nhận đoạn trường
Xe lăn định mệnh, chiếc giường nghiệp oan
Hay là em chuộc dùm chồng
Như xưa Chúa đã chuộc dùm thế gian?"
Sau khi chị Yến bị stroke lần thứ ba, những dòng thơ của THT với Em Cứ Nói Đi cho thấy tình trạng ngặt nghèo của chị và nỗi đau tuyệt vọng của anh, vô cùng cảm kích:
“Anh còn tai này em cứ nói đi
Anh không nghe thì tai anh sát kề cho rõ
Em cứ nói đi, dù chỉ là hơi thở
Dù tiếng mất tiếng còn dù chữ ngã chữ nghiêng…
… Em nằm đấy, trời ơi, sao mấy năm trời cứ nằm mãi vậy
Cửa đóng rồi, làm sao đón ánh nắng vào đây
Tay trái liệt rồi, sao tay phải vạ lây
Sao chân phải không cho chúng ta một niềm hy vọng?
… Anh không biết anh có còn  sức mạnh
Anh sắp ngã rồi, anh đang gắng sức dồn hơi
Chơi một trận cuối cùng trước khi bỏ cuộc chơi…”
(Đây là bài thơ mới nhất, anh vừa gởi cho tôi, trước kia khi anh bị thương vẫn tiếp tục cuộc chơi, nay vợ lâm trọng bệnh, anh xót xa hơn bản thân mình!). Có nhiều tác phẩm viết về tình nghĩa vợ chồng… với THT chỉ những câu thơ cũng nói hết đạo vợ chồng thật cao quý.
Ngày trước lúc còn trai trẻ THT Viết Dưới Trời Khói Lửa và đến lúc xế chiều của cuộc đời lại viết trong nỗi cô đơn và quặn đau! Niềm an ủi duy nhất của anh bây giờ còn viết được.
Léopoldine mới 19 tuổi chết đuối trên dòng sông Seine ngày 4 tháng 9 năm 1843, năm 1847 văn hào Victor Hugo làm bài thơ Demain, dès l'aube, chỉ 12 dòng thơ được xem như một tuyệt tác, tặng con gái đầu lòng đúng vào ngày giỗ thứ tư bên mộ Léopoldine tại Villequier sát bờ sông Seine và sự mất mát lớn lao này đã làm Hugo đau khổ suốt một thời gian dài và ông đã không in thêm tập thơ nào nữa trong mười năm sau cái chết của Léopoldine.
“Ngày mai, ngay lúc rạng đông, khi vùng quê bừng sáng,
Cha sẽ lên đường. Con ơi, cha biết con nóng lòng chờ đợi.
Cha sẽ đi qua rừng, cha sẽ đi qua núi.
Cha không thể nào lâu hơn nữa ở xa con.
Cha sẽ bước đi, mắt chìm sâu trong suy nghĩ,
Không nhìn quanh, chẳng nghe động tĩnh chi,
Cô đơn, lạc lõng, lưng khòm, tay chắp,
Lòng sầu đau, với cha ngày sẽ tối như đêm.
Cha sẽ không ngắm ánh chiều vàng rơi xuống,
Cũng như cánh buồm xa thẳm hướng Harfleur,
Và khi tới, cha sẽ đặt cho con trên mộ
Chùm ô rô xanh lá và thạch thảo trổ hoa”.
(Bản dịch của Đàm Trung Pháp)
Với tôi, nếu ngày nào đó chẳng may chị Yến ra đi và anh không còn viết được, có lẽ anh trở thành cái thây ma, phải không bạn ta? Rồi ngày nào đó, anh bỏ lại người thân, bằng hữu… thảnh thơi nơi phương trời xa lạ, Di Sản Văn Chương Miền Nam đã bao năm xây dựng, có lẽ cũng theo anh “Những người muôn năm cũ. Hồn ở đâu bây giờ?” (Vũ Đình Liên).
Vương Trùng Dương
Little Saigon, April 2018


__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

Trần Hoài Thư, Viết Dưới Trời Khói Lửa

$
0
0
 



 
Trần Hoài Thư, Viết Dưới Trời Khói Lửa
Vương Trùng Dương

Nhà văn, nhà báo Trần Hoài Thư được nhiều người viết và phỏng vấn vì anh chân tình trải lòng cùng bạn bè, người duy nhất ở hải ngoại làm sống lại văn học miền Nam và ấn hành những tác phẩm ở quê nhà bị bỏ quên theo năm tháng và không được xuất bản. Trong thời chiến, anh là cây cây bút duy nhất tham chiến tại mặt trận, ghi lại nhiều nhất những điều của người trong cuộc “Tôi là một tác giả viết văn làm thơ theo đôi giày trận. Nổi trôi từ Trường Sơn xuống tận đầm lầy Đồng Tháp Mười. Tôi nhìn bản thân mình, lấy kinh nghiệm của chính mình để mà thông cảm cùng những người cùng mang giòng máu như tôi…
Tôi là nhà văn sống và viết. Tôi tìm chất liệu ở con người thật của tôi. Tôi sống và viết bằng con người thật của tôi… Khi tôi ở trong quân đội, tôi viết về người lính, khi tôi đào ngũ, tôi viết về kẻ đào ngũ, khi tôi trở lại đơn vị bị giáng lon, thì viết về tâm trạng của người lao công chiến trường… Khi tôi bị thương nằm trong Quân Y Viện tôi viết về tâm trạng người thương binh, khi tôi ở trong trại khổ sai, tôi viết về sự thật cảnh tôi vồ chụp lấy thau cơm nhão nhẹt chua lè dành cho chó ăn ở bên hiên một doanh trại bộ đội Bắc Việt vì quá đói…”

Những bài thơ của anh trong thời khói lửa vẽ lên bức tranh thân phận người lính trong thời chiến.
Cả một đời, THT sống chân tình và trải lòng với đồng đôi, bằng hữu và đồng nghiệp, vì vậy anh được nhiều người đề cập đến qua các bài viết, phỏng vấn từ trước năm 1975 đến nay.
Nhận được Thư Quán Bản Thảo số 79, tháng 4 năm 2018. Trong mười bảy năm qua (TQBT 2001-2018) đây là số duy nhất do Phạm Văn Nhàn và bằng hữu thực hiện, anh “không được phép” viết và xem nội dung, chỉ lo việc ấn hành. TQBT số 79 dày 288 trang, gồm hai phần: Những truyện của THT trước năm 1975 (trang 7 -156) và những người viết về THT (157-266).
Với tôi, trong hai bài viết trước đây, bài “Trần Hoài Thư, Cây Sậy Giữa Đời” vì dáng dấp anh như cây sậy, làm lính chiến sống cùng cỏ lau. Con người với Blaise Pascal chỉ là “cây sậy có tư tưởng” nhưng với THT là cây sậy trên trận mạc, chứng nhân lịch sử trong thơ văn. Và,  “Trần Hoài Thư & Thủ Đức Gọi Ta Về”… Tôi đã viết về cuối năm 1966, Khóa I Nguyễn Trãi của Trường ĐH. CTCT gởi học giai đoạn I cùng với khóa 24 ở Trường Bộ Binh Thủ Đức, ở trong Ban Biên Tập SVSQ liên khóa 23 & 24 cùng với Trần Hoài Thư (Trong bài viết của Luân Hoán “Những Ngày Đầu Quân & Thời Ở KBC 4100” ghi rõ từng người, và các bài viết của THT cũng đề cập đến tháng ngày ở KBC 4100). Trong phần kết đã viết về THT:
“Là giáo sư, nhà văn, nhà thơ, gầy gò, cận thị… nhưng khi ra trường BB Thủ Đức lại về đơn vị tác chiến trong cương vị Trung Đội Trưởng của Đại Đội Thám Kích 405, Sư Đoàn 22 BB. Trần Hoài Thư đã 3 lần bị thương ngoài mặt trận… Trần Hoài Thư giữ chức vụ Trung Đội Trưởng Thám Kích trong thời gian gần 4 năm từ khi ra trường vào 8/1966 đến tháng 6/1970, hai lần bị thương, lần thứ ba thấy bản thân như sợi chỉ treo mành nên bỏ đơn vị, sống lang bạt, bụi đời với các bạn văn nghệ, bị bắt làm lao công đào binh”.
“Thôi giã từ những ngày tháng lông bông
Những cốc rượu đếm không bao giờ hết
Những bửa đói, bửa no, mà vui như tết
Những ngày hồng, ngày xám cũng chia tay
Thôi giã từ lũ bạn chiều nay
Tự nguyện ra tòa ký vào bản án
Giã từ nhé, môi son và má phấn
Những vỉa hè, những đường phố lê la”
(Huy Chương)
Mấy câu trong Lính Tiền Phương của THT là thực trạng ư? Ngậm ngùi và xót xa:
“Khi ra trận ta là thằng chết trước
Tổ quốc ghi ơn, lãnh tụ đẹp lòng”
Trong bài viết của Tình Bạn của Phạm Văn Nhàn: “… Tôi đưa Thư ra Nha Trang trình diện nơi Quân Vụ Thị Trấn (đồn Quân Cảnh). Ra tòa án binh. Giáng cấp. Rồi đến Đơn Vị 2 Quản Trị, đóng ở Diên Khánh, Nha Trang. Và từ đây, Trần Hoài Thư nhận sự vụ lệnh lên Sư Đoàn 23 BB trên Ban Mê Thuột. Tôi nói với Thư: tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Ngày tiễn Thư lên Ban Mê Thuột tại bến xe Nguyễn Hoàng, Nha Trang, tôi cởi chiếc jacket cho Thư mặc. Và có thêm hai người bạn tiễn Thư lên đường là nhà văn Nguyễn Âu Hồng (ở Mỹ) và nhà thơ Nguyễn Sa Mạc (còn ở VN). Và cũng từ ngày hôm đó, tôi xa Trần Hoài Thư!”
Thế nhưng anh không oán hận. Người lính vừa đánh giặc vừa cầm bút, “Cảm thấy mình thật hãnh diện, bởi vì tôi nguyên một giáo sư đệ nhị cấp, với đôi mắt cận 7 độ, gầy như que củi, từng được hoãn dịch vì lý do sức khỏe, lại có mặt tại một đơn vị đã từng tạo nên một thành tích kỷ lục có một không hai trong QLVNCH. Khó có một ai trong bất cứ đơn vị nào được Tướng Đỗ Cao Trí thăng cấp hai lần trong vòng hai tháng ngay tại mặt trận.” (Về Một Đại Đội Cũ). Và “Từ 405, tôi cũng đã mang 9 tác phẩm văn học đến cùng độc giả”. Thật là “Đại Đội 405 là một dấu ấn đậm sâu vào tâm trí của một người lính cũ”…
“Chưa có một đội quân nào trên thế giới này, thua trận, nhưng lại tự hào cùng hàng ngũ, cùng màu cờ sắc áo như quân đội miền Nam này. Không phải một ngày, một tháng, mà cả đời. Chỉ có những kẻ trong cuộc mới hiểu và thấm thía được nỗi tự hào.. Và đó là lý do cắt nghĩa tại sao tôi lại phải viết hoài, viết không mệt về màu áo cũ của mình” (Sđd).
“Chiếc bè đã đưa tôi vào dòng văn chương không phải đẹp và dịu dàng như một giấc mơ. Mà trái lại, văn chương bấy giờ là văn chương của lửa, lệ, và những gào thét, tra vấn, tử sinh. Văn chương bấy giờ là những ngày đêm trong lòng hỏa ngục, là những vết thương tóe máu đớn đau, là tiếng kêu trầm thống của một thế hệ mà, nói theo Tolstoi, chỉ những ông già bụng phệ ký giấy tuyên chiến, còn phần chết thì dành cho bọn thanh niên… Chất liệu văn chương của chúng tôi không phải là từ đơn đặt hàng của chế độ, hay những món hàng làm dáng du nhập từ ngoại quốc mà là sự thật bằng trái phá, bằng mồ mả oan khiên, bằng những người như chúng tôi bị nướng thiêu trong lò lửa chiến tranh.” (Về Những Trang Sách Cũ, trang 16 & 17)...
Ngoài các bài thơ tỏ bày cuộc sống người lính chiến, trở lại tác phẩm Thủ Đức Gọi Ta Về của Trần Hoài Thư để cảm nhận tấm lòng của anh với ngày tháng quân trường.
Tuổi thơ của THT không được may mắn “Ra đời tại Đà Lạt vào ngày 16 tháng 12 năm 1942, thất lạc cha ngay khi còn quá nhỏ, theo mẹ đến thành phố biển Nha Trang sống suốt thời thơ ấu rất đỗi cơ cực và hẩm hiu. Thời thơ ấu, từng bán hàng rong ở các bến xe ở Nha Trang, và từng đi bộ mỗi ngày khoảng 20 cây số để đi đến trường. Học trường Sinh Trung, Nam Tiểu Học Nha Trang và cuối cùng là trường Cô Nhi Viện Bết Lê Hem, Hòn Chồng, trước khi ra Huế gặp lại thân phụ từ Bắc di cư vào”.
Chỉ có thời gian yên lành trong thời trai trẻ “Ở Huế, theo học tại Quốc Học, Đại Học Huế, rồi trở vào Nam với Đại Học Khoa Học Sài Gòn. Không tốt nghiệp sư phạm, nhưng có duyên với bảng đen, phấn trắng, Trần Hoài Thư trở thành ông thầy dạy trung học và hành nghề tại trường Trần Cao Vân ở thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, trong các niên khóa từ 1964 đến 1966”. (THT Trò Chuyện Với Nguyễn Thị Hải Hà).
Cuộc đời quân ngũ của anh quá bầm dập, bị cận thị nặng, đúng ra anh được miễn dịch, là nhà giáo, nhà văn, nhà thơ thông thường vào ngành Chiến Tranh Chính Trị nhưng lại ra đơn vị nguy hiểm nhất của Sư Đoàn bộ binh vì mãi mê làm báo khi ở quân trường, được giải thưởng “Sinh Viên Sĩ Quan báo chí xuất sắc. Kèm theo phần thưởng tinh thần này là một quà tặng rất thích hợp cho một nhà văn: một cặp bút Pilot mới cáu trong hộp cứng”, nên cuối khóa đậu chót trong “bảng phong thần” vì vậy khi chọn đơn vị phải chấp nhận số phận hẫm hiu.
Bởi cái tội đam mê báo chí đó nên khi ở quân trường bỏ bê mấy môn học quân sự, bốc thăm chót bảng nhưng:
“Khóa của ta
Trên mấy trăm thằng tình nguyện
Đi Nhảy Dù, Thủy Bộ, Thám Báo ‘ác ôn’
Đứng đợi cả ngày để bốc lá thăm
Toàn thứ dữ mà vui như chợ Tết”
(Ta Lính Miền Nam)
Năm 1971, được thuyên chuyển về miền Tây, phục vụ trong Khối Chiến Tranh Chính Trị của Quân Đoàn IV, làm phóng viên chiến trường cho đến ngày tan hàng. Đây cũng là cơ hội với “Những chuyến đi vào trận mạc, với máy ảnh và cây viết. Tôi đã viết nhiều truyện lấy từ chất liệu sống này” (THT). Và, nơi nầy anh gặp chị Nguyễn Ngọc Yến, người bạn đời đã sát cánh bên anh để thực hiện các tác phẩm  của Thư Ấn Quán và tạp chí Thư Quán Bản Thao cho đến khi lâm trọng bệnh, ngồi xe lăng, qua bao năm anh, con người lãng tử chấm dứt để tận tình chăm sóc hiền thê.
Trần Quý Sách, Trần Hoài Thư gắn liền với cái tâm con người yêu chữ nghĩa. Trước năm 1975, ngay cả những truyện ngắn của anh khi đăng báo cũng bị kiểm duyệt cắt bỏ vì vậy khi ra hải ngoại, anh thực hiện Thư Ấn Quán để làm sống lại những gì đã mất “Đối với tôi, những tác giả trong thời chiến là thiệt thòi nhất. Họ phải ra trận, vừa đánh giặc vừa viết, không có cơ hội để xuất bản. Sau năm 75 không ai đếm xỉa đến văn chương của họ. Tôi muốn lấy lại danh dự cho họ”. Và, theo Như Không “Trần Hoài Thư như đã trở thành một chiếc cầu nối cho những độc giả và những người làm văn nghệ nổi tiếng một thời mà sau 75 họ không còn tác phẩm nào được tái bản hoặc xuất bản vì nhiều lý do, trong đó lớn nhất là vẫn lý do chính trị”.
Với tấm lòng của THT như vậy nên những gì đã viết về anh không có ý “áo thụng vái nhau” mà trân quý đáp lại lòng nhiệt huyết của cây bút sống thực, sống trọn tình trọn nghĩa trong tình chiến hữu và bạn bè với nhau.
Tác phẩm của Trần Hoài Thư đã xuất bản:
Trước 1975: Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang (tập truyện, 1968), Những Vì Sao Vĩnh Biệt (tập truyện, 1970), Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi (tập truyện,), Một Nơi Nào Để Nhớ (tùy bút, 1974)
Sau 1975: Ra Biển Gọi Thầm (tập truyện,1995), Ban Mê Thuột, Ngày Đầu Ngày Cuối (tập truyện,1997), Về Hướng Mặt Trời Lặn (tập truyện,1998), Thơ Trần Hoài Thư, Mặc Niệm Chiến Tranh (tập truyện), Thủ Đức Gọi Ta Về (hồi ức), Đại Đội Cũ & Trang Sách Cũ (hồi ức), Đánh Giặc Ở Bình Định (hồi ức), Đêm Rừng Tràm (tập truyện), Thế Hệ Chiến Tranh (tập truyện), Hành Trình Của Một Cổ Trắng (truyện vừa), Ở Một Nơi Trên Trường Sơn (tập truyện), Qua Sông Mùa Mận Chín (thơ), Quán (thơ), Ô Cửa (thơ tuyển toàn tập, 2004), Xa Xứ (thơ, 2010), Vịn Vào Lục Bát (thơ, 2017)…
*
Viết Dưới Trời Khói Lửa
Cũng giống như John Steinbeck (1902-1968), khi tham chiến tại Việt Nam trong binh chủng Pháo Binh rồi là phóng viên chiến trường “Ở bất cứ nơi nào, với hành trang là một khẩu súng, một cây bút và một cuốn sổ tay ghi chép lại tức thời những sự kiện diễn ra kèm theo những nhận định cảm quan của một người chứng kiến sự kiện thực của những con người thưc sự trong cuộc chiến” (Nguyễn Mạnh Trinh). Trần Hoài Thư cũng vậy trong đơn vị Thám Báo vừa cầm súng vừa cầm bút.
Trong bài viết Định Mệnh của Nguyễn Văn Dưỡng, nguyên trưởng phòng Nhì SĐ 22 bộ binh:
“Bao nhiêu trách nhiệm nguy hiểm trong vùng địch kiểm soát, đột kích, thám kích, tiền thám hay viễn thám kể cả tăng viện và là mũi tấn công chính trong một trận đánh dữ dội, đều giao cho Đại Đội Thám Kích 405 (biểu tượng: Diều Hâu). Vì vậy sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ của đơn vị nầy phải là quân nhân tình nguyện hoặc được chọn lựa trong thành phần có kinh nghiệm trận mạc, gan lì và nhất là sự bền bỉ chịu đựng gian khổ ở các đơn vị tác chiến khác của Sư Đoàn. Mặc dù Đại Đội Thám Kích không có trong Bảng Cấp Số của Sư Đoàn, nhưng do tính chất của nhiệm vụ khi thành lập – vì nhu cầu chiến trường - nên tính mệnh của mọi cấp trong ĐĐ/TK như “chỉ mành treo chuông” mỗi một khi được sử dụng. Ai vào thám kích mà ra khỏi được, không chết, ít nhất cũng mang theo vài chiếc thẹo trên mình. Trần Hoài Thư rời miền Trung vào miền Nam không biết được mấy Chiến Thương Bội tinh…”
Quan những bài sáng tác, trích những đoạn trong bài viết của Ytan62 Hoài Thư trong cơn binh lửa:
* Thám Báo
“Những ngày cuối tháng 12, mưa tầm tã cả núi rừng, lẫn cùng những cơn gió miền núi hú loạn cuồng trên những thân cổ thụ trong rừng già. Sương mù che khuất cả tầm mắt, mãi đến trưa chúng tôi mới nhận ra chút cảnh tượng xung quanh. Những hàng dây leo thả xuống đất, hay quấn chằng chịt trên bãi hoang, mà theo mùa mưa, tranh, cỏ thi nhau mọc cao đến quá đầu người. Ban đêm, chúng tôi phải dựa vào gốc cây để ngủ hay ngả lưng một tí. Thường thường tôi không bao giờ chợp một giấc mà không bị thức dậy bởi những tiếng động khả nghi. Cuối cùng tôi cũng khám phá ra rằng, sinh vật vẫn còn hiện diện trong khu rừng này. Có thể là một con nai, hay một con gấu cũng nên…
Có nghĩa là tôi sẽ không còn phải mang con tim đập thình thịch trong bóng tối đen đặc và lạnh buốt của rừng. Đám lính ngủ ngon lành xung quanh. Họ coi chiến tranh như một trò chơi cũng nên. Họ chẳng cần bận tâm gì đến hiện tại. Hay họ nghĩ là tôi, tay toán trưởng toán thám báo đã thay họ và có trách nhiệm bảo vệ họ. Thường những đêm mưa như thế, trong poncho, dựa lưng vào gốc cổ thụ, tôi vẫn thường bị hành hạ bởi lũ sinh vật còn sót lại của rừng…
Trong những lần nhảy xâm nhập, thường thường mỗi chiều tôi đã chọn điểm đứng sẵn, yêu cầu bộ chỉ huy đại đội sửa lại tần số, và giả vờ rút sâu hơn vào rừng hơn, để trời vào tối chúng tôi lại kéo nhau ra. Chỉ có cách đó mới tránh những cặp mắt của địch. Chúng tôi còn giả cả tiếng kêu của loài thú như mật hiệu. Hạ sĩ nhất Nay Lat có biệt tài giả giọng chim cú mèo. Một tiếng kêu báo hiệu toán tiền sát hãy đi chậm.. Hai tiếng kêu báo cho cả toán hãy dừng lại. Ba tiếng kêu giục toán phải đi nhanh hơn. Với những thằng nhảy toán như bọn tôi, sự sinh tử kề cận như lưỡi dao kê trên cổ. Chúng tôi phải tùy thuộc vào quyết định của trung đoàn trưởng, sư đoàn trưởng. Nói là lấy tin, báo cáo, dọ thám, thì không đúng. Họ dùng chúng tôi như những con vật thiêu thân cũng nên. Họ ném chúng tôi vào rừng để bảo đảm an ninh cho vòng đai của đơn vị họ. Họ để chúng tôi tự đối phó lấy. Trên nguyên tắc chiến thuật, nếu đụng trận thì lập tức sẽ có quân tiếp cứu, trực thăng yểm trợ bốc chúng tôi, hay phản lực dội bom. Nhưng cái chiến thuật ấy chỉ áp dụng ở đâu đó trên sách vở, hay lý thuyết…
Tim ngực tôi đánh thình thịch. Gai đã làm quần tôi bị rách toẹt và cào đau tôi đến tê điếng. (Loại gai màu đen tuyền, nhỏ như lưỡi câu). Chúng tôi phải tìm đến những bụi gai chó đẻ này mà vạch lối, thay vì đường mòn để tránh những con mắt của địch. Thỉnh thoảng chúng tôi thấy những tờ giấy truyền đơn chiêu hồi của Tâm Lý Chiến nằm vương vãi… Tôi có thể đem cả toán ra khỏi rừng, tìm một chỗ an toàn, rồi báo cáo láo. Hay tôi có thể dừng lại ở đây, không tiến xa hơn nữa. Tôi không muốn tôi chết giữa lúc mọi người được sống. Dù trong cõi này, chúng tôi đã trở thành những kẻ đi tìm cái chết rồi. Có thể, ngày mai, nơi này sẽ trở thành bình địa, vì người ta tin tưởng không có mặt chúng tôi ở đây. Tôi thương những người lính của tôi. Họ cũng thương tôi. Họ không bao giờ bỏ tôi. Tôi biết. Họ cũng không bao giờ cãi lệnh tôi.
Thế mà hôm nay, họ cãi. Họ dừng lại, khựng lại, bất chấp. Hình như họ nghe. Họ linh cảm được một điều bất trắc trong rừng. Mắt họ hoảng sợ. Họ thì thào: “Thiếu úy, thiếu úy có nghe gì không?” Tôi nói tao không nghe gì. Họ nói: “Có tiếng hát.” Tôi cố gắng hết sức. Rõ ràng họ nói đúng. Tiếng hát. Theo gió. Khi dìu dặt. Khi mất. Khi còn. Tiếng hát của người con gái. Vẳng lên ở bên kia bờ suối. Càng lúc, tiếng hát càng cuốn lốc, âm thanh càng bay bổng, để người nghe càng phải lặng cả hồn, để tâm não như tê thiếp. Chúng tôi cùng hướng về tiếng hát, chui rúc lách mình trong những buị cây hay gai rậm lá. Tiếng hát càng lúc càng rõ. Và nhờ ống nhòm tôi có thể nhận ra một cặp trai gái đang ngồi bên nhau trên bờ suối. Người thanh niên trong bộ đồng phục ka ki Nam Định. Và người con gái cũng trong bộ đồ đồng phục lính nữ.
Thằng Nga, tên lực lưỡng nhất, nhìn tôi. Đôi mắt hắn như lờ đục. Hắn muốn thanh toán. Dễ quá mà. Nếu muốn, hai đứa sẽ bò qua bờ suối, ngậm theo dao găm. Rồi hai đứa bất ngờ nhào ra, bịt miệng… Không. Tôi không thể chơi cái trò dã man như vậy. Tôi muốn người thanh niên kia, ít ra, có một giờ phút vĩnh cửu. Hãy cho anh ta được giữ gìn một tiếng hát. Tiếng hát cất lên từ chốn u minh, hoà nhập cùng núi rừng, cùng cây cỏ, cùng gió Hạ Lào, cùng chiến tranh, cùng tuổi trẻ. Tiếng hát như nói lên những điều câm nín từ những con tim của tuổi trẻ Việt Nam… Tiếng hát như bạt cả gió, khiến rừng như thể im phăng phắc, lá như thể thôi lay động trên cành. Và ít ra, tôi vẫn còn hiểu rằng, mỗi người đều có trái tim. Và trái tim thì lúc nào cũng sống vĩnh cửu”.
*
Trong bài viết Đêm Của Thám Kích, tác giả cho thấy cuộc sống của người lính chiến như sợi chỉ treo mành, bên bờ tử sinh:
“Đêm còn lại chúng tôi đã tìm một nghĩa địa làng để trú quân. Vẫn là những mả mới mả cũ. Vẫn là những bia mộ người chết bên cạnh quan tài của những con người còn thở. Người chết muốn yên, muốn an giấc ngàn thu, muốn tiêu diêu miền cực lạc, nhưng vẫn không xong, vẫn bị đám thanh niên từ đâu mò đến gài mìn, chong súng quấy rầy… Còn bọn này, vui lắm.. Chơi đùa với sinh tử. Bầu bạn với âm hồn…
Dù bộ quần áo be bết, giày lấm bùn non chưa khô, có thằng, quần bị rách chưa vá, nhưng mà, bọn này hiểu rõ hơn ai sức nặng của sông của núi. Núi sông đã làm rách quần rách áo, đã làm bạc trắng xác xơ màu vải trận, đã làm cổ áo đen bẩn vì mồ hôi lẫn đất bụi. Nỗi cực khổ này phải bỏ lên khay mà thờ mà lạy, mới phải…
Vẫn là những chữ nghĩa từ những tay trói gà không chặt, đêm ngày nặn óc moi tim để sáng tạo ra những bài văn, bài thơ, khẩu hiệu dính máu đỏ lòm. Nó không cho tuổi trẻ chúng tôi được yên. Nó lôi chúng tôi ra đấu tố giữa đêm hôm khuya khoắc.
Hạ sĩ nhất Ký bò tới nói: “Thiếu úy để tôi dẫn toán tiền thám vào làm tịt miệng bọn chuột. Không lẽ đêm nào cũng nghe chúng chửi mình sao, ông?”. Câu nói của ông Ký như khích tôi. Tôi trả lời: “Thì đi. Tôi cùng đi với ông” . Tôi dặn ông Tướng xem trung đội dùm. Tôi cũng bảo Đông và Tròn ở lại. Ông Ký thì thào với tôi: Ông nhớ theo tôi. Xem chừng những hố bom, hay những vũng nước trâu. Bọn du kích này tinh ranh lắm. Khi nó phát loa, tức là nó đã có cảnh giới, có chốt bảo vệ nó. Ông nghe không. Nó còn dạy đời. Nó nêu đích danh thám kích nữa. Thật vậy, tiếng loa bây giờ chỉ đích danh đơn vị tôi mà kết tội. Bọn hung thần thám kích ác ôn… Thì ra, đám du kích này cũng biết sợ chúng tôi. Chúng tôi lao vào trong đêm. Đứa này theo đứa kia. Ông Ký dẫn đầu. Kế đến là tôi. Sau đó là Minh cao bồi. Và cuối cùng là Nha. Thỉnh thoảng một trái sáng từ hướng trại binh Mỹ được bắn lên, sáng lòa cả không gian, và chúng tôi cả 4 đứa đều nằm rạp xuống. Ông Ký như một con hổ rừng. Chúng tôi vừa bò, vừa ngừng lại để nghe ngóng. Có một điều là địch ít có kích như chúng tôi nên việc xâm nhập vào mật khu địch thường thường ít khi bị phát giác. Chúng tôi cố gắng không lội nước. Tiếng lội là cả một đại nạn…
Những kinh nghiệm giúp họ vẫn còn tồn tại qua bao nhiêu ngày tháng lửa đạn chập chùng. Càng lúc chúng tôi càng nghe tiếng nước xoáy mạnh. Thì ra một con kênh đã chặn ngang. Tiếng nước chảy trong đêm thanh vắng càng nghe dữ dội. Có lẽ là nước lũ từ núi đổ xuống. Chúng tôi nằm trên bờ kinh. Không thể nào qua bên kia được. Rồi tiếng loa lại nổi lên, nghe rõ mồn một. Lúc ấy vầng trăng đã lẫn vào mây. Chúng tôi cùng nhau nhắm vào hướng tiếng loa và nổ súng. Tôi nghe tiếng la thất thanh ở bên kia bờ: Bọn biệt kích xâm nhập!. Bọn biệt kích xâm nhập!. Họ làm sao biết ở bên này, chúng tôi đang âm thầm rút lui. Như thể một trò chơi trốn bắt thời con nít. Quả đúng như lời ông Ký nói, từ đêm ấy, tiếng loa không còn nổi lên trong đêm nữa…”.
Bài viết nầy đã đăng trên tạp chí Bách Khoa, điều khôi hài THT gọi danh từ riêng ông Tướng (nhân vật trong truyện). Tác giả chia sẻ “Truyện ngắn của tôi trên Bách Khoa, khi viết về một buổi chiều phục kích tại một bìa làng, tôi có cho nhân vật ông Tướng – người trung đội phó gốc Nùng (tên thật là Lương Văn Tướng) vào trong truyện. Chẳng hạn “này ông Tướng, hôm nay tổ nào trực”. Tôi viết chữ Tướng với T hoa. Vậy mà ngài sát thủ lại kết tội tôi chơi xỏ một ông tướng nào dó, bôi tất cả những chữ Tướng trong bài văn!…
Kể ra như thế để các bạn hiểu về kiến thức trình độ của các ngài cán bộ thông tin Bộ Cắt Đục (dân sự) cũng như về nỗi khó khăn của người lính viết văn chúng tôi. Chúng tôi đã chiến đấu thật sự để bảo vệ họ được ung dung ở Sài Gòn. Và họ nhân danh sự dốt nát, để chém đâm những đứa con tinh thần của chúng tôi hết chỗ nói”!
*
Trong bài Mắt Đêm cho thấy lòng nhân đạo của người lính VNCH trong cơn lửa đạn:
“Khi tổ tiền sát viên chạy đến gần chiếc cầu gỗ, ẩn dưới bờ mương, tôi bắt đầu cho tổ của trung sĩ Y Bok tiếp tục tiến chiếm gò mả để yểm trợ cho tổ đi sau. Bên kia chiếc cầu gỗ, xóm nhà xác xơ. Vài ngôi nhà ngói bị đổ nát, còn lại những đống gạch vụn, dưới ánh nắng chói chang. Đại Bàng ra lệnh trong máy C.25,  hãy dặn các con anh coi chừng, có mãng cầu nhiều lắm đó.. Tôi ngoắc tay, ra hiệu người trung đội phó, làm một thủ lệnh sẵn sàng qua cầu. Đằng sau, trung đội 1 cũng bắt đầu tiến lên trên đám ruộng phía trái. Một chiếc L.19 đang bay đảo vòng trong bầu trời xanh lơ. Một trái khói trắng bốc lên cách gần tôi một trăm thước. Đó là quả đạn hiệu chỉnh của pháo binh. Tiếp đến là những quả dạn nổ long trời. Bụi cát bốc lên mù mịt. Đó là những quả đạn bắn hiệu quả.
Tôi áp người vào bờ mương, nghe thân thể rung động. Toán lính nằm dọc theo bờ, súng chĩa về ngôi làng. Tôi bặm môi, ra hiệu thằng mang máy đến gần, và báo cáo: Phú Sơn, đây Phú Sơn ba nghe không trả lời. Tôi báo cáo cho anh trình lại thẩm quyền, các con tôi sắp vượt qua cầu. Trình Đại Bàng cho yểm trở. Nghe rõ trả lời. Bàn tay buông lỏng. Tiếng rè rè từ ống liên hợp cất lên: Tôi nghe năm trên năm. Bây giờ những quả đạn pháo binh nổ dồn dập. Những cột khói đen cuồn cuộn, quyện với hơi nóng rát mặt tỏa lên. Tôi được Đại Bàng bảo hãy chờ. Cho pháo binh cầy nát mục tiêu đã. Rồi mình qua. Tôi đáp, nghe năm trên măng, rồi nằm ngửa, súng đặt trên đùi. Tay lấy chiếc khăn, chiếc khăn màu lam mà Quỳnh đã gởi cho tôi trong lần chia ly cuối cùng, đẫm nước mắt, lau vội mặt kính nhem nhuốc nước bùn, tôi nghe nỗi kích thích lạ kỳ, tràn ngập trong từng tế bào, trong huyết quản. Thân thể bị lay động dưới sức nổ của đạn trái phá. Tôi xoay người lại, đặt đầu ống liên hợp vào tai lắng nghe những mẩu âm thoại dồn dập trong máy. Nắng đã bắt đầu lên, và cánh đồng trải dài nhảy múa trước mắt.
Bây giờ, Đại Bàng ra lệnh: Hãy qua cầu. Đứa con 2, yểm trở cho anh. Tôi đứng, hét: Tổ tiền sát viên, qua ngôi làng, chiếm ngôi nhà trước mặt.. Tiến. Hạ sĩ I Ký cầm cây M.16, qua cầu, chạy như bay đến sau đống gạch vụn. Những người lính còn lại tiếp tục chạy qua cầu, yên ổn. Tôi thở dài nhẹ nhõm. Tôi không ngờ tình hình lại yên ổn như thế. Khi nãy, trung đội tôi còn ở trong ngôi vườn cách ngôi làng một cánh đồng đất bùn, chúng tôi đã phải nổ súng dữ dội khi thấy những người bà ba đen chạy vụt qua. Binh I Mễ hét lên: Bọn nó chạy đó, thiếu úy. Tiếp sau, những tràng nổ liên thanh chát chúa vang lên, kèm với những quả đạn M.79. Tôi hét lên: Ai cho lệnh bọn mày bắn, hả? Tiếng Đại Bàng từ trong ống liên hợp ra lệnh thôi bắn, thôi bắn. Tôi bực dọc đá một thằng lính ngồi bên cạnh, say sưa nhả đạn. Ai cho mày bắn, hả? Mày lỡ bắn vào  dân thì sao? Nó phân trần, bực dọc: Em thấy bọn nó mặc bà ba đen, chạy vụt qua mà. Tôi hét: Ai cho mày bắn? Đại Bàng la tùm lum, mày vác tai mà nghe! Binh Nay nói: Ở đây là V.C. hết. Thiếu úy không thấy ca-nông nhả, sao. Tôi không trả lời, rảo về phía tổ trung sĩ Y Đao, bố trí phía trái. Những nhánh hoa giấy đỏ thắm bò qua những sườn nhà trơ nóc, lung lay trong gió. Bầu trời thật xanh. Tôi ngồi xuống, và cảm thấy ngứa ở các ngón chân. Các ngón chân cọ quậy trong đôi tất ướt nước bùn. Tôi nghĩ đến câu nói của binh Nay. Có lý, có lý…
Đằng sau nhà, có tiếng hét của người lính: Lên không. Đầu hàng đi. Tao ném lựu đạn xuống bây giờ. Tôi đứng dậy, tiến về tiếng hét. Thằng Trung cầm trái M.26, sắp bỏ vào miệng rút chốt.. Tôi gọi giựt: Khoan đã. Muốn chết hả? Trung nói: Thiếu úy, em nghe tiếng động trong hầm, bọn nó núp trong hầm, thiếu úy. Tôi nạt: Mày tưởng bắt bọn nó dễ dàng như vậy sao? Trung cầm trái lựu đạn, phân bua: Thì ở đây là bọn nó rồi còn gì. Tôi nói: Lỡ dưới hầm toàn dân không thì sao? Tôi chỉ tay vào trái lựu đạn cay, sao  mày không dùng thứ này? Ai dạy mày, hả.
Tôi nằm trên miệng hầm, sát tai vào lớp đất. Có tiếng rục rịch khe khẽ. Tôi bảo Trung và cả tổ nằm chĩa súng xung quanh miệng. Tôi hét. Đồng bào ở dưới thì lên, bọn tôi tới giải phóng đồng bào. Đồng bào không lên, chết chịu. Tôi đếm từ một đến mười…
Tôi đếm một, hai, ba, bốn, năm. Đồng bào lên không. Trái lựu đạn cay của Trung được đưa ra, và miệng nó sắp rút chốt, thì người đàn bà hiện lên trong khoảng tranh mờ tối của cửa hầm. Mụ ta có bầu, trạc độ 39, 40 tuổi. Mụ vừa trồi đầu lên vừa chắp tay lạy: Lạy các ông, chúng con vô tội. Binh Hai hét: Còn bao nhiêu người ở dưới đó? Mụ rên rỉ: Dạ còn chừng bảy, tám người. Gia đình con cả. Tiếp đến một lũ người trồi đầu lên. Đi đầu là hai ông già, mấy người đàn bà, một đứa con gái còn nhỏ và mấy đứa con nít. Họ mang theo những chiếc va-li thiếc, những thúng đồ hoặc những túi vải bố. Tôi bảo lính dồn đám người về một góc.
Nắng chói lòa trên nền nhà đổ vụn và những mảnh chai phản chiếu một màu nhức nhối. Tôi cảm thấy khó chịu, khi những giọt mồ hôi bắt đầu ri rỉ xuống cổ. Mụ đàn bà cứ réo: Lạy các ông, các ông tha con. Binh nhất Hai lên đạn rắc rắc. Mụ nói các quan ơi tôi vô tội. Binh Hai vội đá cái va-li thiếc bay đi một khoảng và nói: Sao mụ có bầu. Chồng mụ ở đâu rồi. Mụ đàn bà vội nói: Chồng tôi, ảnh làm lính Quân Cụ ở Qui Nhơn. Tôi cười. Bao giờ cũng vậy, mỗi lần hành quân qua mỗi ngôi làng mất an ninh, chỉ thấy đàn bà, trẻ con và ông già bà lão. Đàn bà phần nhiều có chửa. Và một điều lạ, hỏi chồng bà ở đâu, chúng tôi chỉ nghe ảnh đi lính Quân-Cụ, Quân-Nhu, hay nằm bệnh viện. Lần này mụ đàn bà cũng nói như vậy. Tôi bảo lính lấy dao găm cạy va-li thiếc, lục soát. Nắp va li được mở tung. Có một bộ ka-ki vàng. Binh Hai hét: Chồng mụ đi lính Quân Cụ hay đi giải phóng. Nói mau. Hắn sắp bạt tai, thì tôi vội ngăn lại. Tôi không thể chịu nổi những gương mặt thảm thê, những đôi mắt ngơ ngác sợ sệt đó. Mụ đàn bà nhìn tôi van lơn. Hai ông già tiếp tục nhìn ra cánh đồng chói nắng.
Những người khác nhìn xuống đất. Tôi quay mặt lại. Binh Hai vẫn tiếp tục điều tra, dọa dẫm. Nắng đã làm nhức mắt. Tôi muốn nhắm mắt lại, ngủ một giấc, một giấc thôi. Mẹ tôi ở đó, những đêm ôm chặt tôi trốn dưới gầm giường. Đạn réo ngoài sân, ngoài ngõ, ngoài hiên. Đạn réo trên đầu, trên mùng, Mẹ tôi ở đó, trên sân nắng, hai tay để lên đầu, khóc lóc nhìn bọn lính Tây tra hỏi. Vẫn những giọt nước mắt, vẫn những tiếng khóc lóc, như một âm vang từ xa xôi vọng lại, từ một quê hương, một xóm làng đìu hiu. Tôi chống hai tay vào đầu gối, mệt nhọc đứng dậy.
Tôi nói: Thôi, để yên đó. Mùi thối từ ngôi nhà gạch bên cạnh bốc lên, đến buồn nôn. Có lẽ là một xác sinh vật nào đó. Những quả cà-nông vẫn tiếp tục dội về, như một cung  đàn buồn thảm. Chiếc L.19 vẫn rà rà trên đầu. Tôi đi về phía nhà sau. Toán lính đang lục soát trong nhà bếp…
Đến bốn giờ chiều, chúng tôi được lệnh mang số dân cư ngụ tại đây về vùng có an ninh. Trung đội tôi bọc chót. Tôi phải khổ tâm mới bảo họ lên đường. Những thúng gạo, nồi niêu, những bát chén, kèm theo những tiếng khóc nức nở. Tôi nghĩ đến một quê hương đã mất. Tôi phải bảo tính thúc từng người. Hình như không có người nào muốn đi. Cuối cùng đoàn người lục tục lên đường. Viên cố vấn Mỹ đi theo đại đội,  đếm từng đầu người, rồi ghi trên sổ tay. Đồng ruộng trải dài, thỉnh thoảng vài hố bom cày, loang loáng nước. Đoàn người chậm chạp đi qua những con ruộng đất bùn…
Cuối cùng, đoàn người được đưa về làng ven lộ yên ổn. Có ba, bốn người ở lại. Tôi khổ sở nhìn đám người chậm chạp, cử động trong màu sắc nhá nhem. Đại-bàng bảo nhiệm vụ của mình đến đây đã hết. Sơn-tây cho mấy đứa con sẵn sàng ra lộ, chờ lên con cua. Tôi đứng trên thềm một ngôi nhà gạch, nói lớn: Bây giờ đồng bào có thể yên tâm ở lại. Đây là vùng an ninh, có lính quận bảo vệ. Đồng bào được tự quyền đi lại. Đồng bào có thể về thành phố. Chúng tôi cám ơn đồng bào…
Toán lính trở về dưới ánh trăng mập mờ. tiếng côn trùng vọng về âm u.. Những khóm tre xõa tóc như những bóng ma quái. Tôi cảm thấy lạnh. Trong máy C.25, các đứa con của trung đội 2, báo cáo bắt được một người đàn ông vừa trốn từ chân núi trở về và sắp sửa bắn một người đàn bà, trong đêm lại mò lên núi. Các đứa con báo cáo vị trí đã bị tiết lộ, bây giờ di chuyển toán lính về một địa điểm khác. Tôi lặng mình trong âm thanh quen thuộc từ ống liên hợp. Tiếng gọi và trả lời của người lính mang máy tiếp tục trồi lên, khe khẽ. Vô sự, các đứa con tôi đang zulu, đừng nổ súng ẩu, nghe bồ…
Dưới ánh trăng, khóm lá loang loáng những giọt sương đêm. Tôi nằm trên poncho. Người lính giúp việc mở bi-đông rượu, nói: Thiếu úy, uống một tí cho ấm. Tôi nói ừ đưa tao uống một tí. Sao mày lại kỳ vậy. Mỗi lần hành quân, lại mang cả bi-đông rượu theo. Uống say làm sao gác được. Hắn cười uống để đánh giặc cho hăng, thiếu úy…
Sáng hôm sau, tôi dắt trung đội đi lục soát khu vực toán kích nổ súng hồi đêm. Hy vọng sẽ tìm thêm một kẻ bị thương nằm lại đâu đó. Thằng Ngọc dắt tôi đến chỗ người bị bắn hồi đêm…
Một tháng sau, tôi cùng một thằng bạn lái xe jeep trở về thành phố. Chúng tôi ngồi trước hàng hiên của một tiệm giải khát. Tôi bỗng thấy đứa con gái nhỏ đứng trên lan can của một nhà tắm hơi. Tôi nhớ mang máng con bé bị tát tai trong chuyến hành quân trước. Con bé có mái tóc dài, dáng gầy, và đôi mắt ngơ ngắc. Con bé gánh đôi thúng gạo nặng, hai chân lún sâu dưới bùn, lảo đảo bước đi. Con bé đứng dưới gốc đa. Bây giờ con bé đang đứng trên lan can một tiệm Tắm Hơi. Tôi đứng dậy, đá cái lon sữa, đá một cái thật mạnh”.
*
Bài viết về Ban Mê Thuột Ngày Đầu Ngày Cuối, Diều Hâu Bỏ Núi và Về Một Đại Đội Cũ vào thời đểm THT ở Quân Đoàn IV tháng Ba năm 1975 những sự kiện xảy ra gợi cho tác giả liên tưởng lại hình ảnh trong quá khứ để kết nối với hiện tại. Và với lối viết linh động như bản thân mình là người trong cuộc. Theo lời tác giả về Ban Mê Thuột… “Đây là một câu truyện được xây dựng từ những dữ kiện có thật theo lời kể của cựu thiếu úy trinh sát trung đoàn 45/SĐ23B và cũng là người bạn cùng một sư đoàn, Nguyễn Lương Sơn. Tác giả mong được nói lên phần nào về một biến cố lịch sử mà những người lính vô danh VNCH đã là những chứng nhân, và hơn nữa đã tham dự thật sự vào, bằng máu, nước mắt, kiêu hãnh và tủi nhục trong những ngày oan nghiệt nhất của lịch sử đất nước từ ngày đầu tiên 10/3 đến ngày cuối cùng 17/3/75 tại Ban Mê Thuột.
Bài viết Về Một Đại Đội Cũ, tác giả ghi “Kính dâng hương hồn anh Hồ Văn Hòa” đã một thời sát cánh bên nhau.
“Đêm nay, quê người, và hơn 30 năm xa cách cho hai cánh diều hâu bỏ đàn bỏ tổ. Những giọt lệ bỗng nhiên lại thêm một lần chảy lạnh cả tâm hồn. Người sống nhớ về người đã chết. Người may mắn nhớ về người không may mắn. Nguồn cội từ một mái nhà được phanh ra, để cùng nhau tự hào và cũng để cùng nhau mà khóc thầm. Những con người, không bao giờ nhìn lên, mà chỉ nhìn xuống, cam phận - THT”
“Từ 405, anh Hòa đã mang chiếc khăn quàng cổ màu đen về 35 BĐQ. Từ 405, tôi cũng đã mang 9 tác phẩm văn học đến cùng độc giả. Con số quá đủ cho một tấm lòng đối với bạn bè đồng đội của mình. Tôi hẹn với lòng, sau Mặc Niệm Chiến tranh là bỏ viết. Tôi đã gởi gấm những gì mà tôi cần gởi gấm. Nhưng bây giờ, tôi lại ngồi trước máy. Những lời của anh Hòa chẳng khác cơn bão xoáy lốc vào tâm não. Một đằng, tôi cảm thấy mình thật hãnh diện, bởi vì tôi đã có mặt tại một đơn vị đã từng tạo nên một thành tích kỷ lục có một không hai trong QLVNCH…
Phải. Không tự kiêu sao được khi đám lính khăn choàng đen huy hiệu Diều Hâu vồ mồi đã làm địch Bình Định kinh hồn bạt vía. Chúng tôi đã áp dụng tối đa chiến thuật dạ kích. Anh bạn, tôi xin nhắc lại, nếu địch là ma, thì ta cũng là ma, tại sao mấy ngài chỉ huy cao cấp chỉ biết cái chiến thuật nhà giàu, ngày đánh, đêm về phố nhảy đầm hay ngủ với vợ. Tại sao các ngài không thành lập những đội quân chuyên đánh đêm, hay đổi lại chiến thuật đánh ngày sang đánh đêm. Địch lợi dụng bóng tối tại sao ta lại không lợi dụng bóng tối để đột kích mật khu, phá nát hậu cần, gây cảm giác lo âu kinh sợ cho đối phương, bắt đối phương lúc nào cũng hoang mang giao động? Tại sao cứ chơi trò đóng đồn phòng thủ, chờ chuông báo tử.
Chuông báo tử. Những hồi chuông đã kéo hối hả khắp cả miền Nam, và bóng u minh đã òa chụp xuống từng người, từng thân phận. Không phải vì ta hèn. Chưa có một đội quân nào trên thế giới này, thua trận, nhưng lại tự hào cùng hàng ngũ, cùng màu cờ sắc áo như quân đội miền Nam này. Không phải một ngày, một tháng, mà cả đời. Chỉ có những kẻ trong cuộc mới hiểu và thấm thía được nỗi tự hào. Và đó là lý do cắt nghĩa tại sao tôi lại phải viết hoài, viết không mệt về màu áo cũ của mình.
Viết về một đơn vị, để mà tự hào, nhưng riêng tôi lúc này còn để hối hận.. Bởi vì, ngòi viết của tôi chưa bao giờ có một nhân vật như Y Brep trên trang giấy. Và tôi cũng chưa bao giờ mời ông Tướng giải phóng, trung đội phó của tôi một cốc rượu, một lon bia. Ông ta anh hùng như thế, dẫn toán vào mật khu, hù lính Bắc quân, thế mà mỗi ngày vẫn chào tay tôi, trình diện tôi, giúp đỡ tôi, nâng bước chân tôi lên trên những bãi chiến trường sôi bỏng. Thế mà tôi không có cả một lời. Và dù có viết, thì đám kiểm duyệt ở Sài Gòn lại bôi đen chữ Tướng viện dẫn tôi chơi xỏ một ông tướng nào đó. Vâng, tôi đã vô tình quên họ, những người lính của trung đội tôi như Y Đao, Nay Lat, Y Suk, như Nha, Vọng, Tròn, Hường, Nai, Lợi, Ký, Mễ, Ưng Luông. Tôi chỉ bận tâm đến bản thân tôi. Tôi chỉ tìm mọi cơ hội để được thăng quan tiến chức, hay để được thoát khỏi địa ngục trong lúc họ vẫn tiếp tục cùng chiếc poncho, hay lon cơm gạo sấy, coi đơn vị là mái nhà vĩnh viễn của mình mà không một lời ta thán”.
*
Diều Hâu Bỏ Núi bi phẫn, uất hận như hàng trăm ngàn chiến sĩ nơi sa trường đã liều mình dấn thân trong lửa đạn để bảo vệ quê hương nhưng thời điểm cuối cùng đành ngậm ngùi tan hàng!
“Suốt cả tuần, trận đánh vẫn chưa ngã ngũ. Hết đơn vị này tiếp đến đơn vị khác bị khựng lại khi tìm cách tiến qua mặc dù trước đó bom pháo dọn đường đã trút xuống như mưa thác. Những hang đá chằng chịt và kiên cố ở sườn đồi, nhìn xuống con lộ dẫn vào sâu trong rừng  đã khiến những cơn mưa bom, và đạn pháo binh phải chịu thua. Và đơn vị đã phải quay lui. Cuối cùng cấp trên điều động đơn vị chúng tôi đến mặt trận. Họ đã hiểu chiến thuật trận địa chiến phải bó tay trước những tên địch ngoan cố, xâm mình. Không dễ gì phải tấn công một cao điểm khi phải bò lên giữa một triền núi trống trải trước những họng súng đại liên đã chực sẵn. Và chỉ còn cách là dùng chiến thuật dạ kích. Chỉ có cách đó mới may ra làm câm họng những ổ súng tàn bạo.
Người lính bây giờ là người lính cảm tử. Trước hết hắn phải cố làm sao để nhận rõ nơi trú ẩn của địch, phải gắng định hướng chổ đặt khẩu súng nặng bằng cách nghe tràng nổ cũng như nhìn tia đạn lửa đến từ đâu, sau đó dùng máy hồng ngoại tuyến, tìm mọi cách bò đến, lao vào,  quăng lựu đạn tiêu diệt…
Đêm nay chúng tôi lại thêm một lần nữa, mặc đồ đen, ngậm dao găm, bọc đầy lựu đạn loại lân tinh. Tổ trưởng  còn mang theo ống nhắm hồng ngoại tuyến. Giờ G là 3 giờ sáng. Theo kinh nghiệm chiến trường, khoảng thời gian này là khoảng lý tưởng nhất cho cuộc làm ăn đêm. Bởi lẽ bất cứ thằng lính nào cũng đã thấm mệt hay cũng đang mơ màng giấc ngủ. Và mật lệnh cho chúng tôi là hỏi Thần điểu đáp Kình Ngư.
Dĩ nhiên tôi để trung sĩ Thành làm tổ trưởng tiền sát gồm hạ sĩ Nga, hạ sĩ Y Mông và hạ sĩ Phát. Hắn gan lỳ và dữ tợn. Càng nguy hiểm chừng nào, hắn lại càng say mê, phấn khích chừng nấy.
Tôi xiết chặt tay hắn, và hắn cũng xiết chặt tay tôi như chuyền cho nhau sức mạnh. Hắn thầm thì, giọng ngạt mùi rượu đế: Có gì thì nhờ ông thầy giúp đỡ con vợ tôi. Tôi cảm động đến rưng nước mắt. Tôi biết phải an ủi làm sao để hắn cảm thấy tự tin hơn. Mục tiêu không phải dễ gì thanh toán khi kẻ địch có lợi điểm hơn chúng tôi, và nhất là họ đang cố sức bảo vệ cây súng nặng. Tôi nói nhỏ: Đừng nói bậy không nên…
Tôi dẫn một tiểu đội bò lên hướng trái, và trung sĩ nhất Tông, trung đội phó, lãnh một tiểu đội bò lên hướng phải. Chúng tôi không gặp trở ngại nào khi bò qua bãi đất trống trước khi lên đồi. Chúng tôi phải dồn cục nhau. Hạ sĩ nhất Bảy bò đầu. Tôi bò theo hắn, vừa bò vừa quan sát bằng ống nhắm hồng ngoại tuyến. Trên lưng áo mỗi đứa có dấu hiệu lân tinh rất nhỏ để chúng tôi có thể dễ dàng nhận ra nhau. Qua máy nhắm, tôi có thể nhìn thấy mấy bóng đen của toán tiền sát đang lom khom vừa bò vừa chạy.
Bỗng nhiên, một tiếng nổ long trời lở đất nổi dậy, và sau đó là những tràng đạn tiểu liên, đại liên cắt xé màn đêm. Rõ ràng địch đã phát hiện chúng tôi. Tuy nhiên họ dường như không thể biết chúng tôi ở đâu. Chỉ có kẻ lợi là chúng tôi. Bởi vì chúng tôi có thể biết hang đá nào địch đang trú ẩn. Chúng tôi chỉ việc bò đến và quăng lựu đạn xuống hang đá.
Địch không mạnh như chúng tôi tưởng. Chúng tôi đã dễ dàng làm câm ổ súng nặng ngay đêm hôm ấy. Để đổi lại, trung đội phải chịu thiệt trung sĩ Thành, người hạ sĩ quan gan dạ nhất của đại đội. May mắn, hắn vẫn không chết, dù cả người hắn bị banh tơi tả do từ những trái lựu đạn mà địch đã gài trên lối dẫn đến hang đá. Hắn đã dọn đường cho những người lính cảm tử khác tiến lên để tiêu diệt ổ súng…
Giữa lúc ấy tín hiệu bay đến… Tin cho biết Sài Gòn đã ra lệnh bỏ cao nguyên!
Cả hàng quân đứng im phăng phắc. Những võng mô Nó đến sau khi chúng tôi được tin Mặt Trời sẽ bay đến thị sát chiến trường và gắn huy chương. Cái lệnh được ban từ một trung tâm hành quân nào đó ở rất xa, nghẹn ngào và hối hả xen giữa muôn ngàn âm thanh đàm thoại hổn loạn trong máy khuếch đại, đầy tiếng chửi thề, những lời phẫn uất, những câu hỏi mà không có câu trả lời, những tuyệt mất hết màu sinh khí. Những chiếc mũ rừng chụp lên những đầu tóc rối bù. Những chiếc quần trận mà bụi và đất đã lấy đi hết cả màu xanh, rách toạc lộ cả vãi quần lót… Trời đã trở chiều. Nắng còn sót lại làm thắm vàng cả cánh rừng bên cạnh. Ông nói kể từ giờ phút này anh em có quyền ra đi. Trước khi chia tay, xin anh em hãy cùng tôi đứng nghiêm một phút mặc niệm cho những người bạn của chúng ta đã bỏ mình. Rồi ông hô nghiêm, buồn bã. Chúng tôi cùng cúi đầu. Có những giọt nước mắt lăn trên má khô cằn, hóp sâu, bơ phờ của người lính già. Có những giọt lệ vẫn còn long lanh trên tròng con ngươi thất thần, đục lờ vì những đêm ngày căng thẳng trong lòng hỏa ngục. Có giọt lệ chưa kịp lăn, lại thêm những giọt lệ khác trào ra. Có thằng lính trẻ khóc tức tưởi khiến người lính già phải la lên: Mày làm như con nít lên ba. Làm sao tao gả con gái tao cho mày được”.
Chưa bao giờ chúng tôi cảm thấy buồn đến độ tê tái, héo úa cả ruột gan như lúc này. Súng vẫn nổ. Tiếng pháo vẫn vang dội ì ầm từ xa… Những cuộn khói vẫn còn bốc lên trên căn cứ. Những người bị thương vẫn rên rĩ. Mắt ai quay lại nhìn về hướng xa, mờ lệ. Lần đầu tiên tôi mới hiểu thế nào là nỗi mất mát. Chắc là không bao giờ tôi được cơ hội trở lại thành phố ấy nữa. Chắc là không bao giờ tôi còn trở về để ngồi trong quán cà phê có cô nàng đôi mắt rờn rợn liêu trai nữa. Mất rồi. Sự thật đến độ thật kỳ cục...
Bây giờ, thầy trò thi nhau mà chạy. Tướng cũng cuốn cờ, mà quân cũng cuốn vó. Lúc này là lúc tôi muốn bỏ tất cả. Tôi đã không còn đủ sức để gánh thêm cái trách nhiệm này nữa. Tội này ai gây nên. Lịch sử này ai gánh chịu. Những người lính của tôi, họ ít học, người gốc nông dân, người gốc Thượng, gốc Nùng, người bị bắt đi quân dịch, họ đâu có tội gì để gánh cái khối đá tảng của lịch sử. Những người có trách nhiệm bây giờ ở đâu, sao máy thì bặt tăm không một lời thăm hỏi. Hay họ đã chạy trốn rồi.
Sau đó chúng tôi vất súng cởi bỏ bộ đồng phục và mạnh ai nấy tan hàng. Riêng tôi thì không biết đi đâu nữa. Mặt trời cũng sắp lặn”.
*
Đọc những bài viết của Trần Hoài Thư về thân phận của người lính chiến mới cảm nhận những dòng thơ của anh. Trong thời chinh chiến trong thơ và văn của THT trước thực trạng bi thương trong cơn binh lửa.
Thi phẩm Ô Cửa (tuyển thơ toàn tập) dày 382 trang gồm 245 bài thơ liệt kê trong 8 trang Mục Lục. Thư Ấn Quán 2004. Trong phần Lời Mở tác giả cho biết “Tuyển tập nầy gồm những bài thơ trong Thơ THT (xb 1996), Qua Sông Mùa Mận Chín, Tháng Bảy Hành Quân Xa, Ngày Vàng, Người Lính… Có một số bài được chỉnh lại, khác với nguyên tác”. (Sau tuyển tập nầy có ấn hành hai thi phẩm Xa Xứ năm 2010, Vịn Vào Lục Bát năm 2017 có thêm những bài thơ thời lính trận).
Bài thơ Ô Cửa (trang 14 & 15) được chọn làm tựa đề cho tuyển tập thơ. Từ bài đầu tiên Đêm Vượt Sông đến bài cuối cùng Kết, tác giả không sắp xếp sáng tác theo thứ tự thời gian.
Với chân dung về một người lính trong Trần Hoài Thư từ lúc ra đơn vị tác chiến đến lúc buông súng. Thân phận người trai trong thời chiến qua bài thơ Thế Hệ Chiến Tranh:


“Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm không biết về đâu
… Thế hệ chúng tôi già như quả đất
Râu tóc mỗi ngày mọc những hoang mang…”
Cuộc sống của người lính tác chiến quá cơ cực, bóng tử thần rình rập nên:
“Chúng tôi sống, ngày là đêm, bóng tối
Trong hấm sâu, dưới địa đạo u minh
Hơi hụt hẫng, theo từng cơn địa chấn
Tai ù ù như bật vỡ âm thanh”
(Bóng Tối).
Quân Đoàn II có hai Sư Đoàn, SĐ 23 đảm trách các tỉnh phía Nam và SĐ 22 đảm trách các tỉnh phía Bắc. Nơi nầy có nhiều địa danh xảy ra chiến trận:
“Trung đội những thằng trai tứ chiếng
Những thằng bỏ lại tuổi thanh xuân
Diều Hâu bôi mặt hù ma quỉ
Thuở đất trời bày đặt nhiễu nhương…
… Trung đội ta những thằng giữ đất
Từ Qui Nhơn, Phù Cát, Phù Ly
Ra Tam Quan qua vùng An Lão
Từ Kỳ Sơn, Phước Lý, An Khê”
(Trung Đội)
Từ một nhà giáo ốm yếu, cận thị, làm lính chiến vẫn bạt mạng, sống bất cần, vì vậy khi Nhảy Trực Thăng ở Phước Lý:
“Thì ta ra trận, ta ra trận
Trăm lần thì cũng chuyện rong chơi
Vẫn chuyến bốc quân vào buổi sớm
Vẫn chuyến trở về không buồn vui”
Hết nơi nầy đến nơi khác từ núi rừng đến sình lầy như Đêm Đột Kích Ở Nho Lâm:
“Đồng nước mênh mông, quân ngoi ngóp
Đêm đặc lòng như thuỷ mộ quan
Òa lên trái sáng run hơi thở
Nghiến chặt hàm răng về Nho Lâm
Ai dẫn đường đi sao khựng lại
Trời đen không thấy một vì sao
Bốn bề thăm thẳm lau cùng sậy
Những rặng tre mờ in bóng cao”
Người lính Thám Kích luôn luôn ứng trực, không có giờ giấc, đôi khi hành quân cả tháng, vừa về đơn vị lại lên đường Trước Giờ Tiếp Viện:
“Nửa đêm kẻng giục, quân ra trận
Kinh động cả lòng đêm tối bưng
Nhận lấy ba ngày cơm gạo sấy
Không buồn chỉ một chút bâng khuâng
Đời ta là con số không vô tận
May trên đầu còn chiếc mũ rừng
Mũ nhẹ nên coi đời cũng nhẹ
Chiến tranh. Thì cũng tựa phù vân”.
Hình ảnh sống thực của người lính Thám Kích nay đây, mai đó mới phác họa được thảm cảnh:
“Diều Hâu đã về như một lũ âm binh
Kẻ trước kẻ sau lao vào địa ngục
Đêm không thấy đường giữ dây khỏi lạc
Chúng tôi băng đồng nước ngập
Giải cứu quê em”
(Đêm Tiếp Cứu Chợ Huyện)
Sống sót lúc hành quân, được trở về hậu cứ như Đàn Ngựa Về Thành:
“Khi trở lại ngồi trong lòng quán tối
Thuốc vàng tay và vầng trán đăm chiêu
Thế hệ chúng tôi những đứa đôi mươi
Hồn đã mọc những nụ buồn rất sớm
Khi trở lại, dựa lưng vào vách quán
Để giọt buồn pha đậm tuổi suy tư
Chiếc mũ rừng che nửa mặt âm u…”
Cũng như những bài trong văn xuôi, thế hệ của anh sinh nhầm trong cuộc chiến nên phải cam chịu đao binh, bất hạnh… thay vì nguyền rủa nhưng vẫn tự hào:
“Tôi đứng giữa những nỗi buồn lịch sử
Lẫn tự hào của tuổi trẻ hôm qua”.
Với ngọn đồi mà người lính Thám Kích đã bao lần hành quân rồi trong lần trở lại với Đồi Xưa:
“Tôi qua đồi xám mây mờ núi
Thương về đâu một lũ sáo rừng
Hôm qua đồi ngập hàng trăm xác
Đạn pháo đào sâu bãi chiến trường
Có ai dưới lớp mồ hoang dã
Nằm xuôi chân mắt mở trợn trừng
Chiều nay sao mọc về phương Bắc
Sao ruột lòng vắt đỏ phương Nam
Cỏ tranh lớp lớp che đường dốc
Phòng tuyến buồn hiu nhuốm nắng chiều
Trận đánh cũng đi vào quên lãng
Sao còn rờn rợn những hồn xiêu”
Chiến tranh thật tàn khốc, trên đồi dưới sông đều là mồ chôn xác người. Những nơi người lính trận nhập cuộc đều là chứng nhân cho những nấm mồ.
Những địa danh trong vùng trách nhiệm đó, ngoại các địa danh có tên trên bản đồ, và một nơi nguy hiểm, gọi là Eo Chết:
“Địch cho Trung Đội qua eo chết
Hai bên sườn đại liên đan nhau
Một hai ba… Lộn. Nằm co quắp
Còn lại vẫn ào lên ào lên
Đừng bò! Đừng bò!
Trung đội phó hét cuồng điên
Cỏ tranh bắt mồi cháy mạnh
Gió tạt khói mù
Bốn bề khói rợp
Khói cay cay cặp mắt nổ tròng
Khắp bốn bề gào thét xung phong
Cao điểm chiếm rồi
Vui mừng quá độ
Mà sao người lính Truyền Tin rơi lệ
Báo cáo trong tiếng mất tiếng còn
Về những thằng bị kiến cắn * ngủ yên”
(* Bị kiến cắn: Tử trận)
Địa danh Kỳ Sơn có nhiều nơi ở miền Bắc, và hình như chỉ ngọn đồi Bình Đinh mang tên nầy, cũng là nơi xảy ra hoạt động đơn vị của đối phương (Nông Trường 3 Sao Vàng) nên luôn luôn xảy ra nhiều cuộc đụng trận với nhau.
“Kỳ Sơn đồi trọc chim không đậu
Đại đội đi, một nửa không về
Lớp lớp người nhào lên, ngã gục
Đạn sủi bờ sủi đá, u mê
Kỳ Sơn cao độ hai trăm thước
Đêm hoảng kinh, đỏ huyết vầng trăng
Những xác hôm qua, vàng rám mỡ
Những anh hùng, ngụy tặc, nằm chung
Kỳ Sơn ơi,  Kỳ Sơn Kỳ Sơn
Người chưa về tóc mẹ bạc như sương
Ngày sau ai nhớ cho dòng lệ
Kỳ Sơn ơi, Kỳ Sơn Kỳ Sơn…”
Đọc bài thơ Kỳ Sơn nầy nhớ bài Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên:
“Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi…”.
Bài thơ Đêm Phục Kích Ở Luật Chánh cho thấy sự đối mặt với địch quân:
“Ráng thức, mắt ơi đừng nhắm nhé
Nơi nào cũng vậy, cũng hồn ma
Nơi nào cũng vậy, ngàn tinh tú
Nhoà nhạt trên cao, tựa mái nhà
… Trời hởi, thèm chao ơi giấc ngủ
Sao mà, ngực thình thịch nổ tung
Đêm nay dài quá, sao dài quá
Mà đám Sao Vàng chưa đến thăm?
… Ai biết đêm rồi ta trắng mắt
Để chuông chùa rộn rả bình minh?”
Lúc lâm trận, phải đối mặt nhau, súng đạn vô tình, ta không giết địch thì địch giết ta nhưng sau trận chiến, nhà thơ thể hiện tấm lòng nhân bản, hình ảnh cao đẹp của người lính chiến:
“Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Để thấy miền Nam lính hiền ghê gớm”
Có một nơi nào hơn ở Việt Nam
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam”
(Ta Lính Miền Nam)
Một Ngày Không Hành Quân tìm niềm vui bên ly rượu để nhớ đồng đội đã ra đi và với đối phương cũng rót rượu thương xót:
“Cô hàng ơi cho một ly không
Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
Trên đồi cao, mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn, đâu có gì thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em”
Sau những năm làm lính Thám Kích với xác người, thây ma… với thương tích, tử sinh… thế mà Từ Biệt Núi Rừng vẫn còn mang theo hình ảnh:
“Từ biệt núi rừng, vùng đất khổ
Những ngày bùn đỏ bám giày saut…
… Mà sao cứ nhớ chùm lan dại
Giữa bãi hoang tàn vẫn nở hoa
Thôi nhé, Trường Sơn xin bỏ lại
Ta về châu thổ lội qua Miên
Bỏ lại trên vai hòn núi nặng
Cho những bạn bè đồng đội anh em”.
*
Thư Quán Bản Thảo 55, tháng Giêng năm 2013 với chủ đề Dương Nghiễm Mậu. (TQBT do Trần Hoài Thư chủ trương, không bán, chỉ gởi tặng bạn bè, thân hữu yêu văn học, liên lạc với ban biên tập). Niềm vui khi nhận được TQBT 55 nhưng khi mở trang báo với nỗi buồn và xúc động.
Vài dòng trong Thư Tòa Soạn do thân hữu Trần Thị Nguyệt Mai viết: “Số báo kỳ này được thực hiện trong lúc người thân yêu của anh chủ trương nằm trong bệnh viện vì cơn stroke ác nghiệt. Anh chủ trương đã quyết định đình bản TQBT vô hạn định, tuy nhiên chị THT vẫn muốn tờ báo tiếp tục.
Với ý muốn ấy, chúng tôi - những người xem TQBT như một mái nhà của mình – đã cùng với anh chủ trương cố làm theo ý muốn của chị”. Chị Nguyễn Ngọc Yến, hiền thê THT, sát cánh cùng chồng để thực hiện TQBT và Thư Ấn Quán. Tháng 1 năm 2013 một cơn tai biến (stroke) đã làm chị ngã gục!
Ở trang báo kế tiếp, mục Sống & Viết, Trần Hoài Thư nói rõ hơn về thảm cảnh bất ngờ phủ chụp xuống gia đình ông, như sau:
“Bây giờ trận bão Sandy chỉ còn là lịch sử. Những thân cây nằm ngổn ngang trên đường như thế này đã được dọn sạch, và bên lề đường, thỉnh thoảng còn những gốc cây chưa kịp dọn, nằm trơ vơ, với gốc rễ và ụ đất như một di tích của trận thiên tai hãi hùng đã chụp xuống trên tiểu bang New Jersey chúng tôi.
Nhưng có một trận bão khác. Lần này ác nghiệt hơn bao giờ. Đó là trận bão stroke.
Nó chỉ nhắm vào Y. để mà đánh. Nó không có sức gió, hay có một triệu chứng gì để nhà khí tượng học có thể đoán ước về hướng đi, về vùng đất bị ảnh hưởng. Nó không cho chúng tôi biết để đề phòng. Làm sao tôi có thể lấy chắn, khiên để bao bọc che chở cho nhà tôi. Và ngay cả tôi? Làm sao tôi có thể hứng nỗi đau đớn thay cho Y. Tôi khóc. Mắt đỏ, sưng, nhưng tôi nói dối với người ta là tại cặp mắt mới vừa mổ. Sức gió dù mạnh đến mấy, ta cũng có thể phòng bị, vì kỹ thuật khoa học về khí tượng học có thể giúp ta được an toàn, nhưng sức stroke thì quá khủng khiếp. Dù y học tiên tiến cách mấy cũng đành bó tay. Để rồi nó khiến thân thể không thể ngồi, đứng, tay trái, chân trái không thể cục cựa. Nó đóng những cây đinh khổ nạn vào thân thể con người…”.
Cho đến tháng 4 năm 2018, trải qua 5 năm, kể từ ngày ngã bệnh chị phải ngồi xe lăng, anh THT luôn luôn túc trực chăm sóc vợ. Vài lần đưa vợ vào nursing home nhưng anh THT lại không đành lòng sống thui thủi một mình ở nhà, quá trống vắng nên đem về, khi bệnh tình trở nặng, lại mang vô. Anh chị có đứa con trai duy nhất, bác sĩ, làm việc ở tiểu bang lân cận nên không có cơ hội gần gũi với cha mẹ.
Với sự đồng tình của vợ, trong suốt những năm qua Thư Quán Bản Thảo vẫn ấn hành và Thư Ấn Quán vẫn tiếp tục thực hiện những tác phẩm của thân hữu. Có lẽ, vợ chồng THT là ‘cặp đôi” duy nhất ở hải ngoại có tấm lòng trong sáng, thiết tha đến việc bảo tồn văn học miền Nam trước năm 1975 ở hải ngoại.
Với THT, từ ngày làm lính trận, cận kề với cái chết nên bạt mạng, sống bất cần đời nhưng hết lòng với đồng đội, bắng hữu. Giang hồ lãng tử với bao mối tình si vẩn vơ cho qua ngày đoạn tháng. Con ngựa bất kham (anh tuổi Nhâm Ngọ) dừng chân trong vòng tay của người bạn đời.
Trên tạp chí Sóng Văn (1997), phỏng vấn chị Nguyễn Ngọc Yến, chia sẻ đôi điều:
“Cũng vì yêu mến văn chương, nên duyên văn nghệ đã đưa chúng tôi gặp nhau. Chúng tôi có những kỷ niệm đầy vui buồn theo vận mệnh thăng trầm của đất nước. Nhưng kỷ niệm tôi mang theo đến lúc tàn sinh là những ngày bồng con đi xin ăn ở một làng hẻo lánh bên bờ Thái Lan, sau những ngày đói khát, lênh đênh trên biển cả…
Đối với anh Thư, đi làm việc về hầu như ‘đóng đinh’ trước computer, gõ ‘lóc cóc’, ít khi để ý đến công việc gia đình. Nhưng tôi thấy việc nhà là trách nhiệm của một người vợ, nên không có gì phiền hà trong lòng cả…
Lúc nào viết cũng có ly cà phê và điếu thuốc để trước mặt, anh nói: có hút thuốc thì nguồn cảm hứng mới dồi dào. Tôi rất sợ mùi thuốc lá, nhưng đành chịu chớ biết sao giờ…”.
Những ngày cuối đời của vợ chồng Trần Hoài Thư tuy “bất hạnh về bệnh tình” nhưng là hình ảnh đẹp nhất, trân quý nhất. Và, vài dòng thơ trong thi phẩm Vịn Vào Lục Bát, THT trải lòng với vợ:
“Hôm nay lạnh, buồn tàn thu
Em nằm tôi hạ tôi hầu à ơi
À ơi bồ kết rụng rồi
Sao không rụng trái khổ đời nghiệt oan”
(Bồ Kết Rụng Rồi)
“Còn đây tấc dạ thước mền
Giường dưng, gối lạ, ngọn đèn vàng hiu
Còn đây, còn đêm tịch liêu
Trong tôi con sóng thủy triều trở trăn…
(Về Lại Phòng Ngủ)
Trước hình ảnh người vợ lâm trọng bệnh, THT tự trách mình gây “nghiệp oan” nên người bạn đời mới cam chịu:
“Em đi để nhận đoạn trường
Xe lăn định mệnh, chiếc giường nghiệp oan
Hay là em chuộc dùm chồng
Như xưa Chúa đã chuộc dùm thế gian?"
Sau khi chị Yến bị stroke lần thứ ba, những dòng thơ của THT với Em Cứ Nói Đi cho thấy tình trạng ngặt nghèo của chị và nỗi đau tuyệt vọng của anh, vô cùng cảm kích:
“Anh còn tai này em cứ nói đi
Anh không nghe thì tai anh sát kề cho rõ
Em cứ nói đi, dù chỉ là hơi thở
Dù tiếng mất tiếng còn dù chữ ngã chữ nghiêng…
… Em nằm đấy, trời ơi, sao mấy năm trời cứ nằm mãi vậy
Cửa đóng rồi, làm sao đón ánh nắng vào đây
Tay trái liệt rồi, sao tay phải vạ lây
Sao chân phải không cho chúng ta một niềm hy vọng?
… Anh không biết anh có còn  sức mạnh
Anh sắp ngã rồi, anh đang gắng sức dồn hơi
Chơi một trận cuối cùng trước khi bỏ cuộc chơi…”
(Đây là bài thơ mới nhất, anh vừa gởi cho tôi, trước kia khi anh bị thương vẫn tiếp tục cuộc chơi, nay vợ lâm trọng bệnh, anh xót xa hơn bản thân mình!). Có nhiều tác phẩm viết về tình nghĩa vợ chồng… với THT chỉ những câu thơ cũng nói hết đạo vợ chồng thật cao quý.
Ngày trước lúc còn trai trẻ THT Viết Dưới Trời Khói Lửa và đến lúc xế chiều của cuộc đời lại viết trong nỗi cô đơn và quặn đau! Niềm an ủi duy nhất của anh bây giờ còn viết được.
Léopoldine mới 19 tuổi chết đuối trên dòng sông Seine ngày 4 tháng 9 năm 1843, năm 1847 văn hào Victor Hugo làm bài thơ Demain, dès l'aube, chỉ 12 dòng thơ được xem như một tuyệt tác, tặng con gái đầu lòng đúng vào ngày giỗ thứ tư bên mộ Léopoldine tại Villequier sát bờ sông Seine và sự mất mát lớn lao này đã làm Hugo đau khổ suốt một thời gian dài và ông đã không in thêm tập thơ nào nữa trong mười năm sau cái chết của Léopoldine.
“Ngày mai, ngay lúc rạng đông, khi vùng quê bừng sáng,
Cha sẽ lên đường. Con ơi, cha biết con nóng lòng chờ đợi.
Cha sẽ đi qua rừng, cha sẽ đi qua núi.
Cha không thể nào lâu hơn nữa ở xa con.
Cha sẽ bước đi, mắt chìm sâu trong suy nghĩ,
Không nhìn quanh, chẳng nghe động tĩnh chi,
Cô đơn, lạc lõng, lưng khòm, tay chắp,
Lòng sầu đau, với cha ngày sẽ tối như đêm.
Cha sẽ không ngắm ánh chiều vàng rơi xuống,
Cũng như cánh buồm xa thẳm hướng Harfleur,
Và khi tới, cha sẽ đặt cho con trên mộ
Chùm ô rô xanh lá và thạch thảo trổ hoa”.
(Bản dịch của Đàm Trung Pháp)
Với tôi, nếu ngày nào đó chẳng may chị Yến ra đi và anh không còn viết được, có lẽ anh trở thành cái thây ma, phải không bạn ta? Rồi ngày nào đó, anh bỏ lại người thân, bằng hữu… thảnh thơi nơi phương trời xa lạ, Di Sản Văn Chương Miền Nam đã bao năm xây dựng, có lẽ cũng theo anh “Những người muôn năm cũ. Hồn ở đâu bây giờ?” (Vũ Đình Liên).
Vương Trùng Dương
Little Saigon, April 2018


__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

MỸ CHÁNH, QUẢNG TRỊ CHẶNG ĐƯỜNG NGÚT NGÀN TỬ KHÍ

$
0
0

 

MỸ CHÁNH, QUẢNG TRỊ CHẶNG ĐƯỜNG NGÚT NGÀN TỬ KHÍ

Đoàn Kế Tường 
Mùa hè 72, quốc lộ 1 từ Mỹ Chánh lên Quảng Trị đi vào lịch sử dưới tên Đại lộ Kinh hoàng. Thêm một thảm sát sau Mậu Thân 68. Ưu điểm của Tuyển tập Bút ký Phóng sự Chiến trường 1972 do Nxb Văn nghệ Dân tộc in năm 1973 là đã ghi lại ánh mắt cùng tâm tình của những phóng viên có mặt ngay trên vùng giao tranh. Với tất cả tàn khốc của trận chiến. [Trần Vũ]

Linh VNCH - QT My Chanh
Tôi đã chờ trong ấm ức, từng bản tin chiến sự, từng chuyến theo chân hành quân các đơn vị Nhảy dù, Thủy quân Lục chiến, tôi hy vọng được về gần gũi quê hương mà tôi đã bỏ đi. Sau hơn hai tháng trời chui rúc trong các khu tạm cư khốn khổ, ngày 29 tháng 6-1972 hàng trăm ngàn trái tim người dân Quảng Trị đã cùng hòa điệu nhịp nhàng trong niềm mơ ước hiện hình được trở về quê hương theo chân đoàn quân áo hoa anh dũng. Buổi sáng niềm vui phả ngập trong hồn. Tuyến Mỹ Chánh không còn là lằn mức ranh giới, từng đoàn con yêu của tổ quốc súng đạn lên vai qua sông tiến về phương Bắc, ở đó bầu trời dang rộng đôi tay chào đón. Tôi theo họ. Phải về nhìn lại đoạn đường như một tì vết ô nhục, bạo tàn mà ngày bỏ đi biết bao nhiêu đồng bào, trong đó có cả bạn bè và thân nhân mình đã nằm xuống ngủ yên.
Đoạn đường với đầy dẫy bất trắc, đạn trọng pháo của Bắc quân rải đều đặn hai bên. Tiếng đạn đã trở thành quen thuộc trong trí nhớ hãi hùng. Cầu Bến Đá gãy gục, vài ba quả mìn chống chiến xa nằm chênh hênh bên bờ cỏ ngụy trang đã khô. Vài đám dân gầy gò hốc hác bồng bế nhau chạy về nhìn thấy người chiến binh miền Nam mà trào nước mắt. Phía dưới chiếc cầu nổi vừa được bắc xong, người lính công binh ngồi dựa lưng vào vách tường sập đổ tìm giấc ngủ. Rồi cũng qua cầu đi lần về thành phố đổ nát phía trước, con dốc Bến Đá che khuất đoạn đường vừa qua còn lại đó một địa ngục khủng khiếp của cả một đoàn xe cháy nám nối đuôi chồng chất gần năm cây số.
Bắt đầu bằng những chiếc xe gắn máy đủ loại, đủ kiểu nằm ngổn ngang bên những xác người đã khô, khẳng khiu những đốt xương trong áo quần ám kín. Tôi đã bật khóc thành tiếng, tiếng khóc uất nghẹn căm hờn không thể thoát ra cổ họng. Ngày 1 tháng 5-1972, một trong những chiếc xe khốn nạn đã đưa tôi đến đây với hàng chục ngàn đồng bào khác đã nhận lãnh những đầu đạn của Bắc quân bắn phủ đầu. Tôi đã bỏ chạy trên xác anh em, bà con mình mà không dám ngoảnh mặt nhìn lại. Bây giờ trở về đoạn đường máu thắm mạch đất cố tình tìm lại trên những đống xương nhầy nhụa trắng hếu này một khuôn mặt quen thuộc cũng là một điều khó khăn. Một mái tóc nằm bên một cái sọ và một cái áo dài màu tím phủ nắm xương tàn. Từ một cánh cửa gãy lìa của một xe cứu thương vài cánh tay đưa ra tội nghiệp. Trên một chiếc băng ca người lính xấu số đã thật sự chết hai lần nằm với nắng mưa suốt hai tháng trời.
soldier holding dead family member
Tôi lay mình trong đoàn xe ngộp mùi tử khí sình thúi như một chứng nhân cho một cuộc thảm sát vĩ đại của người Việt dành cho người Việt. Một bà mẹ chết gục trên thành xe, hai tay còn ôm chặt xác con. Trên một chiếc xe khác ngổn ngang một đống xương gần hai chục người đã cùng chết một lần. Tôi muốn ngộp đi vì không khí cô độc mùi tử thi dày đặc, quay mặt chạy xuống bãi cát bên vệ đường, bãi cát Hải Lăng là một rừng xác người khô héo bên những đồ đạc họ đã mang theo trên bước đường chạy loạn. Rải rác đó đây xác lính Bắc quân hai tay ghì chặt bá súng AK cũng xương trắng, đầu lâu bên cạnh những nạn nhân của họ.
Ngày mai những người dân Quảng Trị khi trở về ngang đây tìm một quê hương đã điêu tàn chắc chắn họ không tránh khỏi ngậm ngùi bởi một phần đời của mình đã để lại đó. Một đoạn đường ô nhục nhất trong lịch sử dân tộc hiếu hòa. Có lời nào có thể bào chữa nổi những hành động bạo tàn của Bắc quân với vũ khí tối tân trên tay họ nhắm vào đám dân lành vô tội. Có bao nhiêu người đã nằm xuống ở đó, chắc chắn không dưới vài ngàn. Tướng Giáp và những người chủ trương cuộc chiến này nghĩ gì về cuộc thảm sát đồng bào Quảng Trị do quân đội của họ gây nên? Những hình ảnh về đoạn đường máu này có phải là những chiến thắng thiết thực nhất của những người Cộng sản không?
Đoạn đường Mỹ Chánh — Quảng Trị với hàn ngàn oan hồn rên xiết chắc chắn sẽ là niềm đau vĩ đại cho cả dân tộc hai miền Nam-Bắc. Đành rằng mặt thật của bất cứ một cuộc chiến tranh nào cũng là tàn phá nhưng không có nghĩa phải đem sự tàn phá của bom đạn vô tri được xử dụng bởi những bàn tay thô bạo đổ lên đầu đám người khốn khổ, hiền hòa đang cố chạy thoát ra khỏi vòng ảnh hưởng của chiến tranh ngoại trừ một cuộc chiến diệt chủng. Tôi nghĩ không thể nào là một cuộc xung đột tình cờ được, bởi lẽ ngay khi tiếng súng đầu tiên thoát nòng từ bàn tay của một tên lính Bắc quân nào đó bắn thẳng vào đoàn xe này đã có sự hiện diện của tôi tại chỗ. Không một người dân nào trên xe có lấy một tấc sắt để kháng cự và họ đã chạy bừa vào bãi cát mênh mông như đàn ong vỡ tổ. Đạn đại pháo và bắn thẳng của quân bộ chiến miền Bắc thi nhau đốn ngã rừng người. Họ phải giữ dân ở lại dù chỉ là cái xác không hồn. Một cuộc tàn sát có tính toán và được ra lệnh hẳn hoi đã diễn ra thật man rợ mà sau hai tháng những ai may mắn như tôi được nhìn lại không khỏi phải úp mặt trong lòng bàn tay.
Mãi mãi đoạn đường Mỹ Chánh — Quảng Trị đã trở thành một tì vết tủi nhục cho dân tộc không có gì xóa tẩy được. Liệu nấm mồ tập thể to lớn đó với khung cảnh bi thảm này có đủ để thức tỉnh những kẻ đang chơi trò chém giết để thỏa mãn quyền lợi và tham vọng mà hàn gắn được niềm thù hận anh em suốt mấy chục năm dài.
ĐKT (1972)
Trần Vũ đánh máy lại tháng 2-2018 từ Tuyển tập Bút ký Phóng sự Chiến trường 1972 (Nxb Văn Nghệ Dân Tộc: 1973).


__._,_.___

Posted by: Truc Chi 

Ý NGHĨA NGÀY QUỐC HẬN 30.4.

$
0
0



Một mặt trận hai kẻ thù
Giặc cộng bán nước, tàu phù xâm lăng.

Ý NGHĨA NGÀY QUỐC HẬN 30.4.
Hậu duệ VNCH Nguyen Thi Hong.
Image may contain: text


Đã qua bốn mươi hai năm, nỗi đau tháng tư đen luôn là niềm trăn trở của người dân miền nam từng phút từng giây không bao giờ nguôi. Không phải chỉ những người dân khốn khổ dưới cùm gông của người cộng sản mới phải chịu đựng. Mà những người đã từng thoát ra khỏi sự kềm kẹp của bạo quyền cũng xót xa ngày đêm, như nhà thơ Dương Thượng Trúc đã thổn thức qua bài Tháng Tư Tổ Quốc Phủ Màu Tang:
Tháng tư Tổ Quốc phủ màu tang.
Dân tộc đau thương oán hận tràn.
Tủi phận nam nhi đời lữ thứ.
Hướng về quê mẹ lệ chứa chan…

Thật vậy! một hoàn cảnh éo le đã đến với nhân dân miền nam sau ngày 30.4. 1975, Sài Gòn đã tạm mất tên, một niềm đau trộn lẩn với cái hận của tất cã con dân nước VNCH. Người dân miền nam gần như bàng hoàng khi biết được một bọn vô thần đã tràn ngập hết cả non sông!

Tháng Tư năm 1975, một đàn khỉ từ hang Pắc Bó lần lượt tràn về thành phố với chiêu bài giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, do “bác và đảng” chủ xướng, nhưng thực chất là đã xua quân vào xâm chiếm Miền Nam, đã biến hàng chục triệu người dân vô tội trở thành nạn nhân của cuộc “chiến tranh thần thánh” đó! 

Từ Quảng Trị, Đồng Hà cho đến các tỉnh thuộc Miền Cao Nguyên Trung Phần hàng chục triệu đồng bào bỏ cửa bỏ nhà đi lánh nạn cộng sản, và trên đường lánh nạn đó, hàng triệu người đã vong mạng vì bom mìn vì đại pháo của Nga Sô của Trung cộng mà “bác và đảng” đã du nhập về để “giải phóng Miền Nam”.

Thực tế ngày nay ai cũng biết nếu không có hồ chí minh, một tay sai đắc lực của CS Quốc Tế đệ tam, khi thì dựa vào Tàu, lúc ngã vào Nga, đã mang chủ nghĩa hận thù giai cấp và súng ống vay mượn của các đàn anh đem vào VN tạo ra trận chiến 20 năm (1955-1975). 

Để rồi 42 năm sau ngày gọi là “giải phóng miền nam” hồ chí minh và đảng cộng sản VN đã đưa đồng bào và đất nuớc đến tình trạng bế tắc toàn diện về mọi mặt như ngày hôm nay. Trong khi các nước Đống Âu, họ chọn cách từ bỏ chủ nghĩa cộng sản thì người dân của các nước này đều đã được hưởng tự do, dân chủ, nhân quyền và đất nước đã phát triển toàn diện.

Riêng VN sau ngày người cộng sản gọi là ” Giải phóng miền nam – Thống nhất đất nước” các đỉnh cao trí tuệ của đảng đã làm kiệt quệ hoàn toàn nền kinh tế quốc dân vì một lũ cướp mang danh là đoàn quân ” giải phóng”. Chúng giải phóng gì mà mà bây giờ từ người lớn tới đứa con nít mới chào đời đều phải mang nợ giùm cho đảng và nhà nước, giải phóng là như vậy sao?. 

Người dân miền nam VN đâu cần bác và đảng….vì đó chính là đầu dây mối nhợ của những sự bất ổn từ xã hội đến chính trị, an ninh quốc phòng… đang diển ra hàng ngày trên đất nước VN.

Nếu ngày ấy…
Nếu ngày ấy bến Nhà Rồng đóng cửa
Người lang thang quay trở lại Nghệ An
Làm giáo làng hay một chân thư lại
Thì ngày nay dân đã thoát lầm than
Nếu ngày ấy, sông Sài Gòn nổi sóng
Người đang leo bỗng rớt mẹ xuống sông
Bấy sấu đói đã reo mừng ruớc bác
Thì ngày sau xương đâu trắng cánh đồng
Nếu ngày ấy trên bong tàu đêm tối
“Người lao công đang quét dọn hành lang”
Cơn sóng dữ tiễn đưa về đáy biển
Thì ngày nay quê mẹ đã bình an
Nếu ngày ấy trời Paris trở lạnh
Cục gạch hồng chẳng đủ ấm qua đêm
Bác chết cóng trên mình cô đầm nái
Thì ngày nay tổ quốc đã êm đềm
Nếu ngày ấy, tên toàn quyền rộng lượng
Cho người vào trường thuộc địa, khỏi thi
Mẫu quốc đã có thêm Hoàng Cao Khải
Mà An Nam cũng thoát cảnh “bác đi”
Nếu nếu nếu, thêm một ngàn lần nếu
Bác chẳng đi! Đi chẳng có ngày về!
Về, thượng mã phong bờ hang Pác Bó
Thì ngày nay đâu có lũ u mê!
(Cậu Bảy)

Nếu ngày ấy không có bác thì không có đảng csVN, và sẽ Không có cuộc chiến 20 năm (1955-1975) tại Việt Nam.

Nếu thường dân miền Bắc chết trong «chiến tranh chống Mỹ cứu nước» không nhiều, thì trái lại số thường dân miền Nam chết ít nhất 1 triệu người, bởi miền Nam là trận địa của chiến tranh khủng bố và du kích mà quân chính quy cộng sản miền Bắc phối hợp với quân Giải phóng miền Nam đã làm tiêu hao sinh mạng và tài sản miền Nam suốt 15 năm trong 20 năm hiện hữu của chánh thể VNCH. Các con số được thống kê như sau:
Về số quân nhân VNCH bị tử vong

– Từ năm 1961 đến 1973 là năm ký Hiệp định Paris, theo Bộ Quốc Phòng Mỹ, mỗi năm VNCH mất trung bình 2.5% quân số (chết, bị thương và đào ngũ), tổng cộng khoảng 180 000 người.
– Theo Spencer Tucker trong Encyclopedia of Vietnam War (p.175), số quân nhân VNCH chết từ 184 000 đến 250 000.
– Theo John Prados trong La guerre du VietNam, số quân nhân tử trận từ 220 000 đến 244 000 ( p. 698)

– Theo trang mạng thevietnamwar.com, số quân nhân tử trận là 223 748 người và bị thương là 1 169 000. Thống kê nầy được xác nhận bởi Combined Action Combat Casualty File.
Chiến tranh Việt Nam đã cướp đi nhiều sĩ quan cao cấp của VNCH
Sau đây là số tướng lãnh nhiệm chức hay được truy thăng sau khi tử trận, phần lớn là tử nạn trực thăng.

– 1 trung tướng (Đỗ cao Trí) được truy thăng đại tướng.
– 3 thiếu tướng (Nguyễn Viết Thanh, Trần Thanh Phong và Nguyễn Văn Hiếu) được truy thăng trung tướng.
– 3 chuẩn tướng (Trương Quang Ân, Nguyễn Huy Ánh KQ, Phan Đình Soạn) được truy thăng thiếu tướng.

– 12 đại tá (Lưu Kim Cương KQ, Nguyễn Bá Liên, Nguyễn Văn Phước, Đỗ Văn An, Nguyễn Văn Khương, Nguyễn Trọng Bảo, Lê Đức Đạt, Ngô Hán Đồng, Trương Hữu Đức, Lý Đức Quân, Bùi Quý Cảo, Huỳnh Công Thành) được truy thăng chuẩn tướng.

* Ngoài ra, phải kể 5 vị tướng đã tự sát khi Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng: 2 thiếu tướng là Nguyễn Khoa Nam và Phạm Văn Phú; 3 chuẩn tướng là Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng và Lê Nguyên Vỹ; Các cấp tá đã tự sát là:Trung tá Đặng Sĩ Vĩnh, Trung tá Nguyễn Văn Long (CSQG). Bị cộng sản tử hình cố đại tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng Chương Thiện.

*Có 34 tướng lãnh bị đi tù học tập cải tạo (
6 trung tướng, 11 thiếu tướng, 17 chuẩn tướng) trong đó có nhiều người đã giải ngủ, 24 người bị giam từ 10 đến 17 năm ( Nguyễn Chấn Á, Lý Tòng Bá, Văn Thành Cao, Huỳnh Văn Cao,Trần Văn Cẩm,Trần Văn Chơn HQ, Nguyễn Hữu Có,Trần Bá Di, Lê Minh Đảo, Đỗ Kế Giai, Vũ Văn Giai, Hồ Trung Hậu, Trần Quang Khôi, Hoàng Văn Lạc, Nguyễn Vĩnh Nghi, Bùi Văn Nhu (thiếu tướng cảnh sát, chết ở trại Nam Hà) Đoàn Văn Quảng, Phạm Ngọc Sang, Phạm Duy Tất, Lê Văn Thân, Lê Văn Tư, Phan Đình Thứ, Lê Trung Trực, Mạch Văn Trường).

Với thành tích to lớn như vậy nên lãnh tụ đảng CSVN, hồ chí minh được liệt vào danh sách những kẻ diệt chủng tàn ác nhất thế kỷ 20, theo bình chọn của Daily Mail – tờ báo có lượng phát hành hàng đầu nước Anh hồi tháng 10/2014. Nguồn: http://www.dailymail.co.uk/…/Hitler-Stalin-The-murderous-re…

Đây không phải lần đầu tiên báo chí nước ngoài đưa Hồ Chí Minh vào danh sách tủi hổ như vậy. Trước đây một tờ báo tên tuổi của Ba Lan là Polska Time đã xếp Hồ Chí Minh là 1 trong số 13 tội đồ của nhân loại.
Một con người với nhiều tội ác như vậy, mà đám đầu lĩnh Ba Đình lại lập lăng rồi ướp xác để thờ tên tội đồ này, rồi còn bắt cã nước học tập” tư tưởng của tên diệt chủng hcm”. Một loại tư tưởng làm ung thối đất nước, một loại tư tưởng làm di hại không biết bao nhiêu là thế hệ

TỔNG KẾT THIỆT HẠI NHÂN MẠNG SAU NGÀY 30.4.1975
Hồ chí minh và đảng csVN đã gây vô vàn đau thương, tang tóc, cho hàng triệu đồng bào Việt hơn nửa thế kỷ qua. Theo cuốn “Hắc Thư về Cộng sản” của nhà sử học Stephane Courtois, tội ác giết người của Cộng sản Đệ Tam tính ra hàng trăm triệu. Và Hồ chí Minh trong thành tích diệt chủng Việt, tính ra còn cao hơn Poll Pot, Mao Trạch Đông và Staline nữa. 

1 triệu người Việt Miền Bắc phải di cư tỵ nạn CS vào Nam năm 1954. Gần 4 triệu tỵ nạn CS ra khỏi nước, trong đó 1 triệu dùng thuyền nan vượt đại dương đến bến bờ và hơn nửa triệu làm mồi cho cá. 

Cả thế giới bàng hoàng, rúng động! Suốt cả mấy chục năm nay!
Ngoài ra đảng csVN đã áp dụng một chính sách nhằm trả thù những Sĩ quan, Hạ sĩ quan, và các chính khách trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, “đảng và bác” đã bắt bớ 104.000 gọi là “ngụy quân ngụy quyền”, đưa đi giam cầm, đày đọa tại các trại tù được xây dựng ở những chốn rừng thiêng nước độc mà“bác và đảng” gọi là “Trại cải tạo” để rồi 95.000 người đã chết, chết một cách tức tửi vì bị tra tấn nhục hình, vì đói khát, và vì bệnh tật. http://www..vn.net/article.php/20060711093615427

Sau ngày 30.4.1975 có ttrên 600,000 người Việt dùng thuyển nan vượt đại dương để tỵ nạn CS, chết trên biển vì sóng to gió lớn và cướp Thái Lan.http://motgoctroi.com/Vuotbien/Ditan_Vuotbien.htm

Nay tháng tư lại về, người miến nam không ai mà không hận sự xâm lăng của miền bắc, không ai mà không hận đảng csVN và hcm đã gieo tang tóc cho miền nam, cho con dân VNCH. Người dân không bao giờ quên được những trân thu vét tài sản của người miền nam qua những lần đổi tiền và đánh tư sản. Chúng đánh tư sản để đổi ngôi giai cấp từ vị trí vô sản lên “tư bản đỏ”, một giai cấp mới có của cải vật chất gấp ngàn lần hơn cái mà chúng gọi là tư sản. 

Chiến tranh xâm lược miền nam do miền bắc chủ xướng đã cướp hết của cải vật chất và quá nhiều nhân mạng của con dân VNCH trong cuộc chiến tự vệ từ 1955 tới 30.4.1975. Người dân VNCH không bao giờ quên câu nói của tên Nguyễn Hộ, Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam thành Hồ trong ngày ăn mừng “đại thắng mùa xuân” đã không giấu được bộ mặt nham nhở nói: “Nhà ngụy chúng ta ở; vợ ngụy chúng ta xài, con ngụy chúng ta sai”. Bản chất của cộng sản là như thế.

Thảm kịch kinh hoàng này chưa xảy ra lần nào trong lịch sử trên 4000 năm của VN, suốt ba lần Bắc Thuộc, một lần Pháp Thuộc, một lần Trịnh Nguyễn phân tranh đất nước chia đôi. Và cũng chưa thấy lần nào trong lịch sử thế giới có một cuộc chiến tàn phá với qui mô lớn như vậy. Một cuộc chiến mà hcm và đám đầu lĩnh đã cẩn thận bọc trong cái tên mỹ miều là ” giải phóng miền nam – đánh Mỹ cứu nước”.

Vì thế người Việt tị nạn cộng sản trên khắp thế giới và những người còn đang sống tại miền nam, không khỏi bùi ngùi căm thù hồ chí minh và đảng csVN, cái hận truyền kiếp với đảng csVN, để nhắc nhở cho nhau mối hận này, người Việt Hải Ngoại thường tổ chức những đêm thắp nến, hoặc tổ chức các cuộc biểu tình đã đảo cộng sản, trước các toà đại sứ csVN nơi các quốc gia tự do.

Vào ngày 30.4.1975 hàng năm trong khi người Việt Quốc Gia trên khắp thế giới tổ chức ngày Quốc hận để tưởng nhớ đến hàng triệu người bỏ mình trong cuộc chiến 20 năm, thì đảng csVN thường tổ chức mừng ngày cướp được miền nam ở trong nước và một số nơi có Việt gian sinh sống ở hải ngoại – để ăn mừng cái gọi “thắng cuộc”, đó là một cuộc đổi đời từ vượn lên người, đã hoàn toàn thoát xác trở thành những tên tư bản đỏ sống trên xương máu của đồng bào miền nam nói riêng và cã nước nói chung. 

Ở hải ngoại những người Việt tị nạn nào mà dùng thời điểm 30.4 để tổ chức ăn chơi hay những buổi trình diển ca nhạc núp dưới nhiều hình thức khác nhau, thì đó chính là những Việt gian nối giáo cho giặc kể cã tu sĩ của các tôn giáo. Quốc hận là quốc hận, không có một cụm từ nào khác có thể thay đổi được. Bất cứ một cá nhân, tổ chức chính trị hay tổ chức Dân Sự XH nào có chủ đích thay đổi nội dung cụm từ này đều là Việt gian cs đang tiếp tay để thi hành nghị quyết 37 của TW/ĐCSVN, đó là điều khẳn định.

Tháng Tư ai biến nước tôi
Thành lò hỏa ngục thiêu người tang thương
Hỡi ai còn nhớ quê hương
Lắng nghe tôi kể chuyện buồn tháng Tư
Nghe rồi xin chớ làm ngơ
Vì quê ta đã đến giờ đổi thay
Góp vào xin góp bàn tay
Làm cơn gió lộng thổi bay mây buồn
Ai còn nghĩ đến quê hương
Đứng lên mà rửa nỗi hờn tháng Tư
(Trích thơ “Nổi buồn tháng tư của N/A)

Tháng tư, là tháng mà các hậu duệ VNCH tưởng nhớ đến các anh hùng của Quân Lực VNCH đã tuẩn quốc trong ngày cuối của VNCH, những chiến sĩ đã bỏ mình cho hai chử tự do, để tưởng nhớ đến công đức của các thương phế binh VNCH đã hy sinh đời trai và một phần thân thể cho công cuộc bảo quốc an dân, đồng thời tưởng nhớ đến các quân cán chính đã chết trong lao tù khắc nghiệt của cộng sản mà chúng gọi là trại cải tạo, cuối cùng là tưởng nhớ đến hàng trăm ngàn đồng bào đã chết trong rừng sâu nước độc của các vùng kinh tế mới và các đồng bào vượt biên vượt biển đi tìm tự do trong 2 cuộc chạy trốn cộng sản năm 1954 và 1975. 

Một nén tâm hương cho những người đã nằm xuống vì đất nước VNCH.

Hậu duệ VNCH Nguyen Thi Hong, 31..3.2017


Image may contain: text


__._,_.___

Posted by: hai phan 

HƯỚNG-DẪN LỐI ĐI ĐẾN MỘ-PHẦN CỐ TT. NGÔ ĐÌNH DIỆM

$
0
0

                     HƯỚNG-DẪN LỐI ĐI ĐẾN MỘ-PHẦN CỐ TT. NGÔ ĐÌNH DIỆM
Hôm nay Thứ tư 06-04-2011 nhằm ngày 04-03 Tân-Mão. Chúng tôi bắt đầu khởi-hành chuyến đi từ Nam ra Bắc. Trước là tảo-mộ tổ-tiên, ông bà. Song song đó là kính-viếng các chiến-hữu cũng như anh hùng chiến-sĩ vô danh đã vị quốc vong thân.
Như thường-lệ của những năm qua, chúng tôi đều khởi đầu bằng lễ viếng mộ Cố Tổng-thống Ngô-Đình-Diệm, Cụ bà Thân sinh, hai bào đệ Ngô-Đình-Nhu và Ngô-Đình-Cẩn của Người.
Nhân đây chúng tôi xin gửi đến https://baovecovang2012.wordpress.com/một vài hình-ảnh, có thêm ghi-chú và hướng-dẫn lối đi cho những vị nào có dịp về nước. Hầu giúp ích quý vị, nếu quý vị có lòng đến viếng mộ-phần của Cố Tổng-thống Ngô-Đình-Diệm.
Nếu chúng ta phát xuất từ Saigon, chúng ta có nhiều đường để tới nơi. Nhưng chúng tôi dẫn cử 2 lối như sau là thuận-tiện nhất :
1- Đi bằng QL. IK – QL này trước khi Tổng-thống Ngô-Đình-Diệm thiết-lập xa-lộ Saigon – Biên-hòa, nó là đường xuyên Việt, tức Quốc lộ I.
Ngày xưa, người ta đi từ Saigon đến Biên-hòa thường phải qua chiếc cầu đầu tiên là cầu Sắt (Dakao), cầu này sàn bằng gỗ, mỗi lần xe đi qua kêu xập-xình, xập-xình rất vui tai. Rồi đi tới cầu Bình-lợi ở giữa có đường rầy xe lửa xuyên Việt, để tới Thủ-đức và qua núi Châu-thới tức là gần vào trung-tâm Biên-hòa.
vantoan_thammo1
Cầu Bình-lợi nằm trên trục đường Quốc-lộ I nằm trên sông Saigon, thời Pháp-thuộc đến trước khi Xa lộ Saigon – Biên-hòa khánh-thành. Ảnh : Sưu-tầm
Nay con đường này gọi là QL. 1K. Đến ngã tư có bảng chỉ-dẫn như dưới đây, chúng ta quẹo trái. Phải mất đúng 9 cây số mới tới nơi.
vantoan_thammo2
vantoan_thammo3
2- Nếu chúng ta đi bằng QL 13, đường đi Saigon – Lái-thiêu (Bình-dương). Chúng ta sẽ đến ngã tư thuộc ấp Đông Ba – Xã Bình-hòa – H. Thuận-an – Tỉnh Bình-dương. Chúng ta quẹo phải.
vantoan_thammo4
vantoan_thammo5
Từ ngã tư này chúng ta quẹo phải sẽ gặp trạm thu phí BOT và cứ đi thẳng thêm …
vantoan_thammo6
vantoan_thammo7
… Sau khi quẹo phải đi thêm 200m tới cổng chính như hình dưới đây :
vantoan_thammo9
NGHĨA TRANG NHÂN DÂN SỐ 6 - ẤP ĐÔNG AN – XÃ AN BÌNH – HUYỆN DĨ AN.
NGHĨA TRANG NHÂN DÂN SỐ 6 – ẤP ĐÔNG AN – XÃ AN BÌNH – HUYỆN DĨ AN.
Nhưng chúng ta đừng vào, tiếp tục đi thẳng thêm 100 thước nữa ta sẽ gặp một đường vào nữa (ngay tại ngã ba đầu đường chúng ta thấy có mộ phần của một số thủy-thủ người Nga bị lâm nạn – như hai hình dưới đây. (Họ bị tử nạn tại đâu chúng tôi không hỏi thăm nên không rõ)
Nhưng chúng ta cũng đừng vào.. Đi tiếp thêm 30 thước nữa …
vantoan_thammo11
vantoan_thammo12
Chúng ta sẽ thấy một lối nhỏ (hình dưới) cũng không vào …….
vantoan_thammo13
Nghĩa-trang này sát với đường lộ cái, nên kiếm mộ phần của Cụ rất dễ-dàng (hình dưới) …
vantoan_thammo14
Ba ngôi mộ của Người. Chúng tôi có đánh dấu bằng 3 ô vuông mầu vàng (hình dưới). Từ lề đường, ta phóng tầm mắt tới lưng 3 ngôi mộ này không quá 10 thước
vantoan_thammo15
Từ đây chúng ta thêm vài bước nữa thì đến ngay lối nhỏ vào mộ phận của Cụ. Hình dưới chúng tôi có đánh dấu lối vào bằng hình chữ nhật màu vàng sát với chân cột điện.
vantoan_thammo16
Ngay tại ngõ nhỏ này, chúng ta đã có thể thấy 3 ngôi mộ gia-đình Cụ rất dễ-dàng (chúng tôi có đánh dấu bằng màu vàng)
vantoan_thammo17
PHẦN II
HÌNH ẢNH CÁC MỘ PHẦN
Mộ-phần của  Cố Tổng-thống Ngô-Đình-Diệm
Mộ-phần của Cố Tổng-thống Ngô-Đình-Diệm
Mộ-phần của  bào-đệ Ngô-Đình-Nhu
Mộ-phần của bào-đệ Ngô-Đình-Nhu
Thật ấm lòng xiết bao, khi đến nơi, chúng tôi đã thấy có người đến trước. Hoa một số còn tươi thắm. Một số đã đã héo (được đặt tại mấy tấm bia). Hương gần tàn.
vantoan_thammo20
Chúng tôi bèn bỏ bớt những đóa hoa đã héo úa, chỉ để lại những hoa còn tươi. Dưới đây là ảnh trực diện. Mộ phần Ông Ngô-Đình-Nhu bên trái – ở giữa là của Cụ bà thân-sinh và ngoài cùng ( bên phải ) cố Chí-sĩ Ngô-Đình-Diệm.
vantoan_thammo20b
vantoan_thammo20c
Nhiều người vẫn không quên ông Ngô-Đình-Cẩn. Họ vẫn dâng hương và hoa để tưởng nhớ đến ông. Đối với bọn thân cộng và cộng-sản rất sợ ông nên gọi ông là : Hung-thần miền Trung.
vantoan_thammo21
Quả thật, dưới thời ông, cộng-sản và bọn tay-sai rất khổ-sở, các hoạt-động phá-hoại của chúng khó đạt được kết-quả như trung-ương đòi hỏi.
Bởi thế chúng ta không nên lấy làm lạ về cái gọi là “pháp nạn” lại được khởi xướng từ Huế.
vantoan_thammo22
vantoan_thammo23
Một điều rất đáng chú-ý : Ngôi mộ của ông Cẩn không cận-kề với gia-đình. Vì cớ mộ phần của ông được cải-táng không cùng ngày, và khi lập mộ cũng do những người thợ khác.
Nên chúng ta thấy mộ của ông không cùng kiểu-mẫu với gia-đình.
__._,_.___

Posted by: VIETLONG NGUYEN 

Khánh thành bia tưởng niệm Dr. Rupert Neudeck (Cap Anamur)

$
0
0



Khánh thành bia tưởng niệm Dr. Rupert Neudeck (Cap Anamur)
Thực Hiện
Bureau CTM Media - Âu Châu
-14/05/2018



Minh Hoài |

Neudeck tại thành phố Troisdorf
TROISDORF – ĐỨC QUỐC (CTM Media) – Thời tiết hôm nay 12.5.2018 rất ấm áp. Trong khuôn viên lâu đài Wissem tại thành phố Troisdorf đông đảo người Việt Nam và quan khách Đức về tham dự buổi lễ khánh thành bia tưởng niệm Dr. Rupert Neudeck. Mặc dầu cảnh sát hiện diện khá đông để bảo vệ những chính khách tối cao của chính quyền, buổi lễ vẫn diễn ra trong bầu không khí vui tươi và trang trọng qua sự điều hợp duyên dáng của hai người trẻ thuộc thế hệ thứ hai, đó là Tường Vân và Trúc Anh của nhóm Văn Vũ Điểm Sáng.
Anh John Meister

Trong bài diễn văn đầu tiên anh John Meister, một người tỵ nạn Việt Nam thế hệ thứ hai, lớn lên ở Đức, đã kể lại một số kỷ niệm rất thân mật và gần gũi với gia đình tiến sĩ Neudeck. Khi còn bé cha mẹ anh có lần dẫn anh đến nhà thăm ông bà Neudeck, và kể cho anh nghe rằng, TS Neudeck là người đã cứu sống gia đình. Lúc ấy cậu bé John mới lên bốn tuổi đáp lại rằng:“Nhưng ông đâu có cứu con!“. Sau này khi lớn lên và nhất là khi có gia đình anh John Meister càng ý thức một cách thấm thía, thế nào là ơn nghĩa được cứu sống để ngày hôm nay anh và cha mẹ quây quần bên các cháu, còn anh John tốt nghiệp chính trị học trong cơ quan chính phủ tại Hamburg.
TS Wolfgang Schäuble, chủ tịch quốc hội Đức


Vị đại khách của buổi lễ khánh thành là TS Wolfgang Schäuble, chủ tịch quốc hội Đức Quốc. Đây là một vinh dự rất lớn cho người tỵ nạn Việt Nam. „Sống hết lòng bắt đầu từ nhận thức rằng bạn có thể thay đổi cuộc sống.“, TS Wolfgang Schäuble trích lời của TS Rupert Neudeck. Đối với ông thì TS Neudeck là một người quyết tâm, quật cường và quên mình. Cùng với nhà văn Heinrich Böll TS Neudeck đã làm những việc có giá trị lên trên cả tình đồng loại. Vào thời điểm đó chính phủ Đức không muốn nhận người tỵ nạn Việt Nam, nhưng đối với TS Neudeck thảm trạng người Việt chết trên biển đã trở thành một „Lệnh truyền luân lý“. Không riêng gì tại Á Châu mà còn tại Phi Châu TS Neudeck đều ra tay giúp đỡ hết mình và quên mình. Vì thế, nếu còn sống chắc hẳn TS Neudeck sẽ không đồng ý xây bia tưởng nhớ ông, vì ông không coi trọng hình thức bề ngoài, ông chủ tịch quốc hội nhận định như vậy và kết thúc bằng câu: „TS Neudeck sống mãi trong lòng những người đã được ông cứu sống, cũng như trong tim những ai đã đáp ứng lời ông kêu gọi mà rộng tay đóng góp.“
Kế đến là phần phát biểu của phó đô trưởng, ông Rudolf Eich. Ông dí dỏm nói rằng:“Troisdorf không phải là thành phố đẹp nhất nhưng là thành phố nhiệt tâm nhất. Troisdorf có một người anh hùng đi giúp người khắp nơi trên thế giới, và vì thế chúng tôi đã chọn TS Neudeck làm gương cho thế hệ trẻ. Chúng tôi đã đặt tên cho một trường học tại Troisdorf là Rupert-Neudeck-Schule, một trường học không bài ngoại và can đảm dấn thân.“
Dr. Norbert Röttgen, chủ tịch Ủy Ban đối ngoại của Quốc hội Đức.

Một trong những người gần gũi gia đình TS Neudeck là Dr. Norbert Röttgen, cựu bộ trưởng bộ môi sinh. Hiện nay ông là chủ tịch Ủy Ban đối ngoại của Quốc Hội. Ông nhận thấy rằng TS Neudeck là một người có Ơn gọi; một người suy nghĩ sâu sắc, dám nói và dám làm; một người viết luận án tiến sĩ về Jean-Paul Sartre (triết lý hiện sinh) và Albert Camus, như là hai vị đại diện cho chủ trương „dầu gì đi nữa thì vẫn phải tranh đấu tới cùng vì nhân phẩm của từng cá nhân ở khắp mọi nơi“. Ông Dr. Röttgen đặt biệt cảm ơn người Việt Nam đã cho ông món quà là buổi lễ khánh thành ngày hôm nay, „qua cách thức quý vị tổ chức buổi lễ, qua những gì quý vị nói và cách nói của quý vị làm tôi rất cảm kích.“
Ông Ruprecht Polenz

Người sinh viên cùng thời và cùng tổ chức Sinh Viên Công Giáo với TS Neudeck là ông Ruprecht Polenz, (hiện là khâm sứ đặc nhiệm của Bộ Ngoại Giao) kể rằng, „khi còn là thành viên hội đồng thành phố Münster chúng tôi đã ủng hộ chiến dịch cứu thuyền nhân Việt Nam và đã nhận 100 người Việt nhiều hơn con số do chính phủ quy định.“ Ông Ruprecht Polenz cho rằng, nếu TS Neudeck còn sống thì ưu tư của ông hiện nay sẽ là kêu gọi Đối Thoại với các giáo hữu Hồi Giáo để cùng nhau tác tạo hòa bình… Và cái bia tưởng niệm giá trị nhất cho TS Neudeck chính là những kỷ niệm về TS Neudeck mà chúng ta mang trong trái tim mình.“
Ca Đoàn Công Giáo Việt Nam từ Hamburg

Trước khi người con trai của TS Neudeck là anh Marcel Neudeck lên tiếng là phần hợp ca của Ca Đoàn Công Giáo Việt Nam từ Hamburg với nhạc phẩm „Cap Anamur“ được một nhạc sĩ Đức tại Bayern sáng tác vào năm 1980. Kế đến Tường Vân và Trúc Anh đã giới thiệu giảng sư trường đại học nghệ thuật Aachen ông Jost Mayer, là người trách nhiệm thực hiện bia tưởng niệm TS Neudeck.
Marcel Neudeck

Anh Marcel Neudeck đã có một cử chỉ gây xúc động và để lại một ấn tượng rất đặt biệt trong mọi người, nhất là người Việt Nam. Anh xin lỗi quý quan khách cho anh phá lệ không chào theo thứ tự thông thường và trịnh trọng, nhất là khi có sự hiện diện của vị chủ tịch Quốc Hội Đức Quốc Dr. Wolfgang Schäuble (nhân vật thứ hai sau Tổng Thống Liên Bang Dr. Frank-Walter Steinmeier). Trong chiếc áo sơ-mi đơn giản như người cha của anh, Marcel Neudeck đã chào mọi người  „Liebe Schwestern und Brüder, liebe Tanten und Onkel, und liebe Mama!“, trong tiếng vỗ tay tán thành rộn ràng… „Tôi xin thay mẹ nói lời cảm ơn chân thành đến các bạn. Tôi đã lắng nghe rất kỹ những lời chia xẻ của các bạn. Giây phút này đối với tôi rất đặc biệt. Vui lẫn buồn. Tôi nghĩ, bố tôi Rupert đang hiện hữu với chúng ta ở đây, có thể trên cây này… Như Dr. Wolfgang Schäuble đã nói, bia tưởng niệm cho Rupert Neudeck tự nó là một mâu thuẫn. Rupert coi nặng tha nhân hơn mình… Tôi xin gửi đến các bạn một hình ảnh trắng đen chụp Rupert trên thuyền Cap Anamur, khi ông nhận một bức hình chân dung do một người Việt Nam vẽ tặng. Tôi nghĩ rằng Rupert thích một bức hình về mình như thế này…“
Bà Christel Neudeck

Kế lời người con trai, bà Christel Neudeck đã trích hai văn thư chào mừng của nữ thủ tướng Dr. Angela Merkel và nữ bộ trưởng quốc phòng Dr. Ursula von der Leyen. Ngoài ra, bà Neudeck còn nêu tên hai nhân vật quan trọng, mà nếu không có họ thì chiến dịch Cap Anamur đã không thành, đó là nhà văn Heinrich Böll và nhà báo Franz Alt. Bà quả quyết rằng, ai đến Đức và chấp nhận hiến pháp của Đức thì người đó cơ hội hội nhập thành công. Trước khi dứt lời và chấm dứt buổi lễ khánh thành bà mời mọi người ghé sang phòng hội để gặp gỡ Franz Alt cũng như chiếu cố quầy thông tin của tổ chức Grünhelme do cô Yvonne Neudeck (con gái của ông bà Neudeck) đảm trách. Đây là cơ hội để những người Việt Nam mang ơn có cơ hội trả ơn qua nỗ lực đóng góp tài chánh dài hạn cho chương trình nhân đạo của tổ chức Mũ Xanh của vị đại ân nhân TS Rupert Neudeck.
Photo: Minh Hoài & Minh Thông

https://s13393.pcdn.co/wp-content/uploads/2018/05/troisdorf_5.jpghttps://s13393.pcdn.co/wp-content/uploads/2018/05/troisdorf_2.jpghttps://s13393.pcdn.co/wp-content/uploads/2018/05/troisdorf_3.jpghttps://s13393.pcdn.co/wp-content/uploads/2018/05/troisdorf_1.jpghttps://s13393.pcdn.co/wp-content/uploads/2018/05/troisdorf_6.jpghttps://s13393.pcdn.co/wp-content/uploads/2018/05/troisdorf_8.jpghttps://s13393.pcdn.co/wp-content/uploads/2018/05/troisdorf_9.jpghttps://s13393.pcdn.co/wp-content/uploads/2018/05/troisdorf_sch%C3%A4uble-2.jpghttps://s13393.pcdn.co/wp-content/uploads/2018/05/troisdorf_13.jpghttps://s13393.pcdn.co/wp-content/uploads/2018/05/troisdorf_10.jpghttps://s13393.pcdn.co/wp-content/uploads/2018/05/troisdorf_11.jpghttps://s13393.pcdn.co/wp-content/uploads/2018/05/troisdorf_12.jpghttps://s13393.pcdn.co/wp-content/uploads/2018/05/troisdorf_5.jpg

__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh <
Viewing all 675 articles
Browse latest View live