----- Forwarded Message -
Sent: Tuesday, October 31, 2017, 8:39:04 PM PDT
Subject: Fw: Thủ tướng Ngô Đình Diệm
Kinh gửi .
Thủ tướng NgôĐình Diệm
Chúng tôi viết những bài này để :
– tưởng nhớ Tổng thống Ngô Ðình Diệm, người đã dành lại Ðộc Lập cho Tổ Quốc, xây dựng Ðất Nước về mọi mặt vàđem lại An Bình cho Ðồng Bào ;
– đáp yêu cầu của những người Việt muốn biết những gìđã xảy ra trên Quê Hương Miền Nam Việt Nam thời khai sáng nền Cộng hòa Việt Nam ;
– ghi lại những gì bản thân mình biết năm 1963 đãđưa đến cái chết của vị Tổng thống dân cử, để nhà nước Mỹ cướp ‘quyền Dân Tộc tự quyết’đểđưa Việt Nam Cộng hòa vào tay cộng sản Bắc Việt. Họ lợi dụng chiêu bài ‘Vì nhân quyền’để tiếp tay bạo quyền chống lại nạn nhân chếđộđộc tài. Khi Obama sang Việt Nam năm 2016, Ted Osius, đại sứ hai nước (mang hai cờ trên áo) đã mời những người đòi nhân quyền có tiếng đến gặp Tổng thống Obama, nhưng ông đã‘nhắm mắt’để công an trấn áp dã man và bắt đi cho đến khi cuộc ‘xem mặt Obama’ chấm dứt, ‘côn đồ’ thả các vị này ra. Huề. Hiện nay, Tổng thống Trump sắp đến Việt Nam, các vị này bắt đầu bị làm khó dễ lại. Khi vì Tiền và Quyền, bọn ‘tư bản’ lẫn ‘cộng sản’đều xấu giống nhau và chúng rất thân thiện với nhau.
Do đó, những tin tức được viết ra đây, chúng tôi đều xác tín là‘Sự Thật’ và, nếu cóđiều gì không hợp ý quý vị, chúng tôi xin được thứ tha.}
I.- QUỐC TRƯỞNG BỔ NHIỆM THỦ TƯỚNG.
Trong hồi ký‘Le Dragon d’Annam’ (Con Rồng Việt Nam’, Quốc trưởng Bảo Đại cho thấy ông rất quý trọng ông NgôĐình Diệm vàđã mời ông này lập chính phủ tới 4 lần vàông chỉ nhận 2 lần :
1.- Lần đầu năm 1933, vì muốn thực hiện chương trình cải cách hầu khôi phục dần chủ quyền Việt Nam, vua Bảo Đại đãđặt NgôĐình Diệm vào chức vụ thượng thư bộ Lại (Nội Vụ) đứng đầu nội các kiêm tổng thư ký hội đồng hỗn hợp Việt Pháp về‘Canh Tân’ do nhận thấy : « Tôi cho vời một viên quan tỉnh trẻ tuổi nhất là NgôĐình Diệm, lúc ấy làm Tuần Vũ tỉnh Phan Thiết, đểđảm trách bộ Lại. Diệm năm ấy mới 31 tuổi, nổi tiếng là thông minh liêm khiết. Đây là một người quốc gia bảo thủ…». Vì thấy người Pháp không đáp ứng những yêu cầu của ông về canh tân nên chỉ vài tháng sau NgôĐình Diệm đã từ chức để phản đối, mặc dù nhà vua cố thuyết phục ông nên tiếp tục. Khi bất đắc dĩ phải chấp thuận cho ông từ chức nhà vua bảo ông Diệm: ‘Mong rằng sự ra đi của quan Thượng sẽ mở mắt cho người Pháp’… Lúc đó, Bảo Đại đã chỉ kỳ vọng ởông Diệm khi viết ‘NgôĐình Diệm đi rồi, tôi hoàn toàn thất vọng’.
2.- Lần thứ tư và cũng là lần chót ngày 18.06.1954 khi hội nghị Genève đang khai diễn, với viễn ảnh đen tối, nếu không nói là tuyệt vọng, cho giải pháp Bảo Đại và phe quốc gia, Quốc Trưởng lại một lần nữa tìm đến ‘người mà tôi tin cẩn’. Ông đã thuật lại đầu đuôi câu chuyện như sau:
« …Tôi cho vời NgôĐình Diệm và bảo ông ta:
– Cứ mỗi khi tôi cần thay đổi chính phủ, tôi lại phải gọi đến ông. Ông thì lúc nào cũng từ chối. Nay tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị chia cắt làm đôi. Ông cần phải lãnh đạo chính phủ.
– Thưa Hoàng thượng, không thểđược ạ. Ông ta đáp. Tôi xin trình Ngài là sau nhiều năm suy nghĩ, tôi đã quyết định. Tôi định đi tu…
– Tôi kính trọng ýđịnh của ông. Nhưng hiện nay tôi kêu gọi đến lòng ái quốc của ông. Ông không có quyền từ chối trách nhiệm của mình. Sự tồn vong của Việt Nam buộc ông như vậy.
Sau một hồi yên lặng cuối cùng ông ta đáp:
–Thưa Hoàng thượng, trong trường hợp đó, tôi xin nhận sứ mạng mà Ngài trao phó.
Cầm lấy tay ông ta, tôi kéo sang một phòng bên cạnh, trong đó có cây thánh giá. Trước thánh giá tôi bảo ông ta:
– Đây Chúa của ông đây, ông hãy thề trước chân dung Chúa là giữ vững đất nước mà người ta đã trao cho ông. Ông sẽ bảo vệ nóđể chống lại bọn Cộng sản, và nếu cần, chống luôn cả người Pháp nữa.
Ông ta đứng yên lặng một lúc lâu, rồi nhìn tôi, sau nhìn lên Thánh giá, ông nói với giọng nghẹn ngào:
–Tôi xin thề. »
Quốc trưởng Bảo Đại đã trao cho NgôĐình Diệm toàn quyền dân sự và quân sựđể có thểđối phó với tình hình cực kỳ khó khăn lúc ấy.
Sau khi hội kiến với các nhân sĩ và chức sắc tôn giáo Việt Nam đang có mặt ở Pháp, kể cảông NgôĐình Luyện là bạn học với Bảo Đại từ hồi còn nhỏ, Bảo Đại đã triệu NgôĐình Diệm từđan viện Saint–André de Bruges (Bỉ) đểđến gặp ông ta tại lâu đài Thorenc ở Cannes. Như vậy, việc giao trọng trách cho NgôĐình Diệm là quyết định riêng của Bảo Đại không có sự tham ý với người Pháp. Chỉ có hội ý với một người Mỹ mà Bảo Đại quen biết và tin tưởng làông Bedell Smith, một đại diện Mỹ trong phái đoàn Mỹở Genèvre. Hai hôm sau, Bảo Đại thông báo sự bổ nhiệm và giới thiệu ông NgôĐình Diệm cho Tướng Ely, Cao ủy Pháp tại Việt Nam.
Sau đó, ông Diệm có buổi ra mắt và họp báo tại Hôtel Palais d’Orsay (Paris). Trong thời gian lưu lại Pháp, ông Diệm thuê một phòng ngủ rẻ tiền, không nhà tắm ở Hôtel de la Gare, gần khu phố nghèo nàn gần nhà ga xe lửa Austerlitz. Đây cũng là bằng chứng về con người và nhân cách của ông NgôÐình Diệm.
Ngày 26.06.1954, ông Diệm bay về Sài Gòn, cùng với Hoàng thân Bửu Lộc, Thủ tướng xuất nhiệm, để trao lại quyền hành cho ông Diệm.
II.- THỦ TƯỚNG NHẬM CHỨC.
Tại sân bay Tân Sơn Nhất, khi ông NgôĐình Diệm xuống máy bay- mặc dù có sự chuẩn bị chu đáo của những người ủng hộông Diệm- chỉ có khoảng 500 người đón tiếp ông mà phần đông thuộc giới Công Giáo và các thành viên Tổng liên đoàn Lao công Việt Nam. Một dấu hiệu không mấy tốt cho vị Thủ tướng trong hoàn cảnh này. Trong hoàn cảnh cực kỳ bấp bênh và rối loạn bên bờ vực thẳm về chính trị, quân sự, kinh tế và xã hội. Lúc bấy giờ chỉ cần ổn định được tình thế thìđã xứng đáng là một vị cứu tinh rồi.
Chánh phủ Bửu Lộc chỉ bàn giao lại dinh Gia Long và sở Nội dịch với năm bảy chiếc xe cũ kỹ, với một tiểu đội cảnh sát canh gác. Vài hôm sau, Thủ tướng bay ra Hà nội để xem xét tình hình và tiếp xúc chánh khách miền Bắc để mời tham gia chính phủ và Nội các được trình diện quốc dân đồng bào ngày 07.07.1954. Trong đó, ông NgôĐình Diệm là Thủ tướng kiêm Tổng trưởng bộ Quốc phòng và Nội vụ. Tuy nhiên, ông không có trong tay Quân đội (Tướng Nguyễn văn Hinh, Tổng Tham mưu trưởng, nắm giữ) và Công an Cảnh sát do Bình Xuyên chỉ huy.
III.- NHỮNG BIẾN CỐÐÁNG GHI TRONG NĂM 1954.
1.- Điện Biên Phủ thất thủ.
Tin Điện Biên Phủ mất vào ngày 07.05.1954, chẳng những làm thất vọng nhiều người Pháp mà còn tạo một bầu không khí tuyệt vọng nơi những người Việt quốc gia, trong đó có Bảo Đại, và cả người Mỹ.
2.- Hội nghị Genève 1954
Hội nghị Genève 1954 được khai mạc ngày 26.04.1954 tại Thành phố Genève (Thụy Sỹ) để bàn về vấn đề khôi phục hoà bình tại Triều Tiên và Đông Dương. Nhưng vấn đề Triều Tiên không đạt được kết quả, nên từ ngày 08.05.1954, vấn đềĐông Dương được đưa ra thảo luận, dưới sựđồng chủ tọa của Anthony Eden (trưởng đoàn Anh) và Viacheslav Molotov (trưởng đoàn Liên bang Xô viết) với các phái đoàn : Pháp, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Lào, Campuchia, Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam và Lào được ký bởi đại diện của hai lực lượng quân sự chính có liên quan, là Thiếu tướng Delteil (Pháp) và Tạ Quang Bửu (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) có nội dung chính như sau :
– Ngừng bắn ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương.
– Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc; Chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam. – 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên hoàn thành việc tập trung. Dân chúng được tự do đi lại giữa 2 miền.
– Mỗi bên quản lý lãnh thổ Hiệp định chia cho mình cho đến khi tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam.
– Thành lập hai cơ quan kiểm soát: Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến (tiếng Anh: International Control Commission, ICC; tiếng Pháp:
ommission Internationale pour la Surveillance et le Contrôle, CISC) gồm Ấn Độ, Ba Lan và Canada, với Ấn Độ làm chủ tịch và Ban Liên hợp (tiếng Anh: Joint Commission; tiếng Pháp: Commission Mixte) gồm Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trưởng đoàn Quốc gia Việt Nam, Trần Văn Đỗ, phản đối sự chia cắt đất nước bất cứởđâu vàđã không ký vào bản hiệp định. Hoa Kỳ cũng không ký.
Cuối cùng, vì tranh cãi và mặc cả vào buổi chiều ngày 20.07.1954, Hiệp ước đình chiến chỉđược soạn thảo xong và ký kết sau 12 giờđêm, tức qua sáng 21.07.1954, nên đồng hồở trụ sở nơi họp vẫn giữ nguyên ở 12 giờđêm 20.07.1954. Ngày 21.0-07-54, khi Tổng thống Eisenhower họp báo để giải thích hiệp định Genève cho quốc dân Mỹ, thì bên ngoài đã có một nhóm sinh viên Việt Nam biểu tình lên án các cường quốc chia đôi đất nước của họ.
3.- Cuộc di cư từ Bắc vào Nam.
Trong khi chính phủ Pháp đưa 36,000 quân viễn chinh Pháp vào Nam thì chính phủ Việt Nam, với sự trợ giúp phương tiện của Hoa kỳ và Pháp, phụ trách việc tiếp đón và tìm nơi tạm trú cho trên 800 ngàn đồng bào di cư từ Bắc vào Nam. Nếu công an và bộđội cộng sản không ngăn chận bằng võ lực, thì số người di cư chắc chắn đã còn tăng cao hơn. Thủ tướng NgôĐình Diệm cho lập phủ Tổng Uỷ Di Cư.
Bản thân chúng tôi nhớ lại, lúc đó, được nghỉ học một thời gian ngắn vì trường được dùng làm nơi tạm trú và, khi đi học lại, các lớp học phải đón ba nhóm học sinh khác nhau : sáng, trưa và chiều. Tại các nhà thờ, vì lúc đó chưa thể dâng lễđồng tế, nên chỉ một Linh mục dâng Thánh Lễ tại bàn thờ chính và, đồng thời, có thể có Linh mục khác dâng Thánh Lễ tại bàn thờ phụ với người giúp lễ bắt buộc.
4.– Đem lại Độc Lập cho Tổ Quốc.
Để cho Toàn Dân được Dân Chủ thì, trước hết, Tổ Quốc phải được Độc Lập tức Chủ quyền Quốc gia phải được ngoại bang tôn trọng và người dân có Tự Do. Khi đó, mỗi Công Dân mới có thể tham gia bầu người đại diện cho mình Lãnh đạo Đất Nước. Bởi thế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phải tiến hành :
a./ Tiếp thu Dinh Norodom.
Khi từ Pháp về nước, Thủ tướng NgôĐình Diệm cư ngụ và làm việc tại dinh Gia Long như các Thủ tướng tiền nhiệm trong khi Cao ủy Đông dương (Haut-commissaire de France en Indochine đại diện chính phủ Pháp để‘cai trị’ vùng đất thuộc địa. Trước 1945, chức này có tên là Toàn quyền Đông dương, Gouverneur-général de l’Indochine Française với nhiều quyền hành hơn) ở tại Dinh Norodom, rộng lớn hơn, biểu hiện quyền người Pháp ở Việt Nam. Do đó, Thủ tướng NgôĐình Diệm phải dành cho được nơi này.
Ngày 07.09.1954, Dinh Norodom được bàn giao giữa Cao ủy Pháp, Thống tướng 5 sao Paul Ely, và Thủ tướng NgôĐình Diệm. Khi đó, quốc kỳ Pháp được hạ xuống và cờ Việt Nam được kéo lên. Thủ tướng Diệm cho đổi tên thành Dinh Độc Lập.
b./ Dành quyền chỉ huy Quân đội.
Ngày Song thất (7 tháng 7) năm 1954, khi Thủ tướng NgôĐình Diệm thành lập Nội các, giới quan sát chánh trị quốc tế nhận định chánh phủ không thọ quá 6 tháng vìông Diệm, tuy kiêm nhiệm Tổng trưởng Quốc phòng lẫn Nội vụ, nhưng không nắm được Quân đội và Cảnh sát. Các lực lượng này đặt dưới sự chỉ huy của Tướng Nguyễn văn Hinh, Tổng Tham mưu trưởng, vàông Lê văn Viễn, tức Bảy Viễn, thủ lãnh Bình Xuyên, đều làđàn em của Tướng Ely, Cao ủy Pháp.
Ngày 09.09.1954, Tướng Hinh dùng đài phát thanh Pháp Á để chỉ trích Thủ tướng vàđòi cải tổ chánh phủ. Ngày 11.09.1954, Thủ tướng Diệm ra lệnh tướng Hinh phải đi Pháp trong vòng 24 tiếng, với nhiệm vụ khảo sát tổ chức quân đội Pháp trong vòng 6 tuần. Tướng Hinh từ chối và phản đối bằng cho một tiểu đội thiết giáp chạy quanh dinh Độc lập và dùng đài phát thanh chống chánh phủ. Tướng Hinh gởi thư yêu cầu sự can thiệp của Bảo Đại.
Ngày 20.09.1954, 9 trên 18 Tổng, Bộ trưởng lo sợ tình hình, đệđơn xin từ chức. Nhưng Đại tá Landsdale (CIA) và Toà Đại sứ Hoa kỳđã giúp ông Diệm giải quyết được cuộc khủng hoảng. Đại sứ Heath nói với tướng Hinh Hoa kỳ sẽ ngưng viện trợ quân sự vàĐại tá Landsdale tặng hai vé phi cơđi Manila cho hai sĩ quan tham mưu của tướng Hinh. Sau đó, Thủ tướng cử tướng Lê văn Tỵ thay tướng Hinh trong chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân đội.
Sự khó khăn khác lại đến với Thủ tướng Diệm vìông từ chối đề nghị của Đại sứ Heath và tướng O’Daniel, trưởng đoàn cố vấn quân sự Mỹ, yêu cầu ông giữ tướng Hinh lại trong Quân đội. Do đó, Đại sứ Heath thay đổi thái độ, gửi điện tín về Washington để tố cáo Thủ tướng Diệm bất tài và cần thay đổi. Tuy nhiên, Tổng thống Dwight D. Eisenhower và Hội đồng an ninh Quốc gia cùng Lưỡng viện Quốc hội lại thấy ông Diệm có thể lãnh đạo mặt trận chống Cộng ởĐông nam Á châu, nên bác bỏđề nghị của đại sứ Heath và Tổng thống gửi tướng Lawton Collins, đặc sứ sang Sài gòn với thư của Tổng thống Mỹ xác nhận ủng hộ Thủ tướng Diệm vàđề nghị thảo luận với ông một chương trình viện trợ kinh tế và quân sự qui mô hơn.
Chuyện lại chẳng may, hai tướng Collins và Ely, Cao ủy Pháp, quen nhau từĐệ nhị Thế chiến và Ely đã chi phối được Collins. Nên, ngày 0812.1954, hai ông vào hội kiến Thủ tướng Diệm tại dinh Độc lập và yêu cầu bổ nhiệm ông Phan huy Quát làm Tổng trưởng Quốc phòng và Bảy Viễn làm Tổng trưởng Nội vụ. Ông Diệm từ chối, tướng Collins nổi giận vàđề nghị chính phủ Hoa kỳđưa Bảo Đại về vàủng hộ Phan huy Quát làm Thủ tướng thay ông Diệm. Nếu không thực hiện được điều này, thì Mỹ nên rút ra khỏi Việt Nam.
Đọc xong tường trình này, Tổng thống Eisenhower và Bộ trưởng Ngoại giao Foster Dulles thật hoang mang, lưỡng lự. Hai ông mời Thượng nghị sĩ Mike Mansfield (Dân chủ, đối lập) đến tòa Bạch ốc để hội ý vàông nầy bác thỉnh cầu của tướng Collins vì Thủ tướng Diệm đang hành động tích cực. Ngày 14.12.1954. Tổng thống Eisenhower chỉ thị cho tướng Collins tiếp tục viện trợ cho Việt Nam vàủng hộ Thủ tướng Diệm.
c. Độc lập về tài chính. Ngày 30.12.1954, chánh phủ Pháp vàđại diện 3 nước Việt-Miên-Lào ký Hiệp định Paris, theo đó, Pháp nhìn nhận toàn vẹn chủ quyền tài chánh và tiền tệ của 3 nước Việt-Miên-Lào và có hiệu lực kể từ ngày 02.01.1955. Kết quả là từ nay, ngân khoản viện trợ của các nước được chuyển thẳng vào trương mục của Việt Nam, chứ không phải qua Ngân hàng Pháp quốc (Banque de France) như trước đó. Từđây, chánh phủ Việt Nam toàn quyền quản lý ngân sách quốc gia.
Mặc dù còn nhiều khó khăn trước mắt, nhưng những thành quảđạt được trong 6 tháng qua thật đáng khích lệ, Thủ tướng Ngôđình Diệm cho tổ chức Thánh Lễđêm Giáng sinh ngày 24.12.1954 ngoài sân sau dinh Độc lập, để tạơn Thiên Chúa.
IV.- NHỮNG BIẾN CỐÐÁNG GHI NĂM 1955.
1./ Thực thi chủ quyền tài chính.
Từ ngày 02.01.1955, chính phủ Ngôđình Diệm trực tiếp nhận viện trợ từ các nước khác, không phải qua Pháp. Do đó, ngân sách quốc gia chi trả lương cho quân nhân và công chức, tức quân đội tùy thuộc chính phủ.
Ngày 21.01.1955, Thủ tướng yêu cầu Pháp chấm dứt việc huấn luyện Quân đội Quốc gia Việt Nam và, ngày 11.02.1955, tướng Agostini (Pháp) và tướng Lê văn Tỵ, Tổng tham mưu trưởng, ký văn kiện chuyển toàn trách nhiệm về Quân đội cho chính phủ Việt Nam. Điều này không làm cho một số sĩ quan thân Pháp lâu nay hài lòng. Bây giờ, họ phải nhận lương hàng tháng từ Thủ tướng Ngôđình Diệm và làm việc với sự cố vấn của sĩ quan Hoa kỳ. Ngoài ra, trong số họ, có những kẻđãđánh giết những dân ta kháng chiến chống Pháp từ 1945 khi họ phục vụ trong quân đội hay công an Pháp như Trần văn Đôn, Lê văn Kim, Dương văn Minh, Mai hữu Xuân, Trần thiện Khiêm, Đặng văn Quang, Đỗ Mậu… Ngày 12.02.1955, chính phủ thâu hồi lại quyền quản trị thương cảng Sài Gòn từ tay người Pháp.
2./ Sự hợp tác của các giáo phái.
Vào năm 1955, Pháp ngưng viện trợ các giáo phái Cao đài, Hòa hảo và Bình xuyên để xây dựng các lực lượng quân sự khoảng 20 ngàn quân, mua khí giới và còn có một số tiền mặt khá quan trọng khác. Bây giờ, họ phải cần sự tài trợ từ ngân sách quốc gia, tức phải xin chánh phủ Ngôđình Diệm. Đây là là yếu tố quan trọng nhứt đểđịnh đoạt thái độ các giáo phái đối với ông Diệm, vị Thủ tướng hợp pháp. Nhờđó, ông Diệm đã thành công trong việc chấn chỉnh Quân đội và chấm dứt các giáo phái võ trang do thực dân Pháp dựng nên để chống Cộng.
Ngày 14.01.1955, đại tá Nguyễn Văn Huệ (Hòa hảo), tham mưu truởng của tuớng Trần văn Soái, đem 3.500 người về với Quân đội Việt Nam. Ngày 13.02.1955, Lực lượng Kháng chiến Liên Minh Quốc gia do tuớng Trình Minh Thế (Cao Đài) dẫn 5.000 quân vềủng hộ Thủ tướng Diệm. Các binh sĩ dưới quyền ông được sát nhập vào Quân đội Quốc gia, vàông Thế mang quân hàm Thiếu tướng. Ngày 10.03.1955, Thiếu tá Nguyễn Văn Đầy với 5.000 quân. Tướng Nguyễn Giác Ngộ, Lưc lượng Dân xã Hòa hảo, đã hứa đem 8.000 quân về, ngày 23.02.1955, nhưng chỉ thực hiện trong tháng 5, sau khi Bình Xuyên phải đầu hàng và Bảy Viễn trốn qua Pháp.
__._,_.___