Quantcast
Channel: Books-Hoi Ky.
Viewing all 675 articles
Browse latest View live

1.- Lake County, FL đã chấp nhận trao Nghị Quyết Cờ Vàng cho 14 thành phố ở Lake County..

$
0
0
Xin chuyển đến Quý Vị, Quý NT và CH...

Nơi nào có người Việt Quốc Gia cư ngụ, nơi đó có Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa ngạo nghễ tung bay...

 Trân trọng..

BMH
Washington, D.C




1.- Lake County, FL đã chấp nhận trao Nghị Quyết Cờ Vàng 

cho 14 thành phố ở Lake County.. 

---------- Forwarded message ----------
From: ToAnh Nguyen <>
Date: 2017-11-21 11:19 GMT-05:00
Subject: TRÂN TRỌNG THÔNG BÁO TIN VUI


Kính gởi:
Quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo.
Quý  vị CT Cộng Đồng VN Tiểu bang Florida.
Quý vị CT các Hội Đoàn, Đoàn Thể.
Quý vị trưởng thượng, Quý vị truyền thông báo chí.
Quý Đồng Hương.
Kính thưa quý vị,
Chúng tôi vừa nhận được tin từ ông Sean Parks, Commisioners của Lake County, FL đã chấp nhận trao Nghị Quyết Cờ Vàng cho 14 thành phố ở Lake County vào:

Ngày 5 tháng 12 năm 2017.
Lúc: 9:00 Am
Tại:  301 Main Street.
Tavares, FL    32778

Sẽ có sự hiện diện của ông Thị Trưởng Đại Diện cho 14 Thành phố,  vinh danh và trao Nghị Quyết Cờ Vàng.
Chúng tôi xin thay mặt ông Lê Hùng Tòng và gia đình kính mời tất cả quý đồng hương bỏ chút thì giờ đến tham dự để biểu dương tinh thần đoàn kết đã trân quý gìn giữ Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của VNCH mặc dù chúng ta đã xa quê hương 42 năm.
Kính chúc quý vị một mùa Lễ Tạ Ơn an vui hạnh phúc bên gia đình.

Trân trọng,

Song Anh

TB:
Vì Song Anh không có đầy đủ email của những vị CT và HT đương kim nên nhờ quý vị forward dùm nếu thấy còn thiếu sót. Vì họ tổ chức trong bữa họp Council của City do đó chỗ ngồi có giới hạn.  Nếu quý vị tham dự được thì xin vui lòng hồi báo và cho biết chức vị trong CĐ để tiện việc giới thiệu và sắp xếp (nếu có thì giờ).


Parking at Parking Garage 
The round Building
3 rd Floor
Làm ơn có mặt càng sớm càng tốt.



 
2.- Hạ cờ máu việt cộng-Thượng Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà 
tại thành phố Sarasota, Nov 11-2017.

Được cư dân tại Sarasota (một thành phố phía nam của Tampa) cho biết có cờ VC treo tại Nathan Benderson Park Sarasota,  Ông Nguyễn Quốc Hùng CT CĐVN Trung Tâm Florida và Bà Nguyễn ThanhMỹ CT CĐNVQG Tampa Bay đã liên lạc với Quận Hạt Sarasota cũng như ban quản trị của Nathan Benderson Park Sarasota Florida và được biết ở đây hằng năm có cuộc đua thuyền của 72 quốc gia và cờ VC là lá cờ quốc gia họ đem tới để cắm .
 Sau nhiều lần liên lạc qua lại để khiếu nại , sau cùng họ đã đồng ý cho  Cộng Đồng hạ cờ VC thành cờ  Quốc Gia VNCH. Sáng ngày thứ Bảy 11/11/2017 vào lúc 9 30 sáng ,Ông Nguyễn Quốc Hùng, Bà Nguyễn ThanhMỹ,  một số Anh Chị em trong BCH CDNVQGTampa Bay cùng với một số cư dân Sarasota đã tới tận nơi để trao Nghị Quyết Cờ Vàng của tỉnh  bang Florida cho bà Sarah Kupiec Giám Đốc Ban Điều Hành NBP, và bà  ta đã tỏ rất  thông cảm và vui vẻ cho phái đoàn đổi cờ ! Phái đoàn sau đó đã cùng nhau đi  hạ 3 lá cờ VC chung quang hồ  để thượng cờ vàng VNCH - là lá cờ đã được  cựu thống đóc Jeb Bush ban hành làm lá cờ Tự Do Di Sản  ( Freedom and Heritage Flag)   biểu tượng chính thức cho cộng đồng  người Việt TNCS  tại tỉnh bang  Florida.
Sau khi thượng cờ   VNCH , tất cả đã cùng  nhau làm  lễ chào Quốc Kỳ nghiêm chỉnh trong niềm vui hãnh diện  của  một buổi sáng Thứ Bảy đẹp trời lập  Thu ! 

Sau đây là một số hình ảnh và link của  buổi hạ cờ này.



DSC01228.JPG
DSC01037.JPG
DSC00905.JPG

DSC00957.JPG

DSC00929.JPG

DSC00988.JPG

DSC01001.JPG

DSC01275.JPG




2017-11-10 10:24 GMT-05:00 Cộng Đồng Việt Nam Trung Tâm Florida <>:

Kính gởi:
Quý Vị Lãnh Đạo Tinh Thần Tôn Giáo
Qúy Vị Chủ Tịch/Hội Trưởng Các Hội Đoàn, Đoàn Thể
Qúy Truyền Thông Báo Chí
Quý Đồng Hương

Chúng tôi được biết tại công viên Benderson thuộc thành phố Sarasota, Florida, có treo một số cờ CSVN, 
chúng tôi đã liên lạc với giới chức trách nhiệm công viên trên, họ đồng ý hạ những cờ CSVN xuống và treo cờ VNCH lên. 

Chúng tôi trân trọng kính mời quý vị bỏ chút thời giờ quý báu đến chứng kiến hạ cờ CSVN và tham dự lễ thượng kỳ VNCH do giới chức quản trị công viên cùng BCH/CĐVN/TTFL và BCH/CĐNVQG Tampa tổ chức tại Benderson Park - 5851 Nathan Benderson Circle, Sarasota, FL 43235 vào lúc 9:30 sáng Ngày 11 Tháng 11 Năm 2017.

Trân trọng kính chào quý vị 

Ngày 10 Tháng 11 Năm 2017
TM Ban Chấp Hành CĐVNTTFL N/K 2016-2018
Chủ Tịch

Nguyễn Quốc Hùng


ThanChuyen




3.- CDVN MASS HẠ CỜ VIỆT CỘNG TẠI TIỆM TẠP HÓA 
Ở KHU VỰC BOSTON, MA

-----Original Message-----
From: Chau Kelley < >
To: Sent: Sun, 19 Nov 2017 20:56
Subject: CDVN MASS HẠ CỜ VIỆT CỘNG TẠI TIỆM TẠP HÓA Ở KHU VỰC BOSTON, MA
Kính nhờ quý tổ chức truyền thông, báo chí làm ơn chuyển tải thông tin này đến quý đồng hương giùm.
Xin cám ơn!

Bảo Châu
CDVN MASS HẠ CỜ VIỆT CỘNG TẠI TIỆM TẠP HÓA Ở KHU VỰC BOSTON, MA

Boston, MA - Saturday November 18, 2017: Hai ngày sau khi nhận được tin báo của ông Phạm Hùng Khánh, đồng hương VN cư ngụ tại khu vực và cũng là Trưởng Ban Trị Sự Chùa Phật Giáo Boston là có cờ Việt cộng trước tiệm tạp hóa V&D Variety Store tại 295 Adam St. ở thị trấn Dorchester thuộc thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts, Hội Đồng Quản Trị Trung Ương (HDQTTU), Hội Đồng Giám Sát cùng Ban Chấp Hành CDVN Mass đã họp sáng nay. Ngay sau buổi họp thì có bốn thành viên trong tổ chức cộng đồng là ông Nguyễn Thanh Bình, Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ CDVN Mass, ông Lê Văn Rai, thành viên của HDQTTU, anh Joe Thạch, thành viên của HDQTTU và cũng đại diện cho Hội Võ Thuật cổ truyền Bình Định và chúng tôi là Bảo Châu Kelley, Trưởng Khối Chính Trị của CDVN Mass đã cùng nhau đi đến tiệm tạp hóa nói trên. Chúng tôi đã trao đổi với chủ tiệm tình hình lá cờ đỏ sao vàng là lá cờ của Việt cộng mà cộng đồng người Việt sinh sống trong khu vực là người tỵ nạn cộng sản và nói lên nguyện vọng của cộng đồng là chủ tiệm hãy dẹp bỏ lá cờ làm cho cư dân rất bức xúc. Chủ tiệm vui vẻ cho phép chúng tôi cứ tự nhiên lấy lá cờ đỏ sao vàng xuống vì chỉ là một người nào đó dán quảng cáo bán điện thoại bên ngoài cửa kiếng của tiệm chứ tiệm này không có hiểu gì về lá cờ đỏ và cũng không có bán điện thoại của công ty này.

Thế là chúng tôi kéo nhau ra gỡ bảng quảng cáo có lá cờ Việt cộng. Nhưng không có dễ dàng tháo gỡ bởi vì chất liệu của loại bảng quảng cáo này làm bằng chất keo dính rất chắc. May mắn thay là anh Joe Thạch đã có mang theo đồ nghề trong xe và cả ba người hì hục vừa gỡ vừa gọt ra từng miếng nhỏ cho tới khi cả tờ quảng cáo lớn biến mất.
Chúng tôi kính mong quý đồng hương hãy cảnh giác với những chiêu trò của Việt cộng là dán quảng cáo có cờ Việt cộng bên cạnh lá cờ Vàng của người Việt tỵ nạn cộng sản chúng ta trong khu vực có người Việt sinh sống ở những doanh nghiệp không phải do người Việt làm chủ. 

Bởi vì hầu hết những người Việt thì đã dư biết là lá cờ Việt cộng là điều không thể chấp nhận được ở trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản bất cứ nơi đâu. Chúng tôi cũng mong chia sẻ kinh nghiệm này để quý đồng hương cũng luôn để ý đến môi trường xung quanh mình và nếu có thấy cờ của Việt cộng thì hãy báo cho tổ chức cộng đồng địa phương để cùng nhau hạ cờ máu như chúng tôi đã đồng tâm hiệp lực làm hôm nay. Những chủ doanh nghiệp thường thì họ không biết cái cờ nào là cờ nào cả nhưng trong trường hợp hôm nay. Do đó, chúng ta hãy nhẹ nhàng giải thích cho họ quan điểm của cộng đồng tỵ nạn cộng sản và thường thì họ rất vui lòng hợp tác dẹp bỏ cờ cộng sản. Nhưng nếu lỡ như họ không chịu hợp tác thì chúng ta cứ việc chụp hình và kêu gọi đồng bào mình hãy cùng nhau tẩy chay doanh nghiệp đó và nếu cần thiết thì hãy biểu tình.

Chúng tôi xin cám ơn quý đồng hương Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ với Tổ chức CDVN Massachusetts để bảo vệ cộng đồng chúng ta luôn luôn vững mạnh và không để Việt cộng thâm nhập với những chiêu trò làm lợi cho cộng sản.
Xin mời quý vị hãy vào video trên youtube qua kênh của Chau Kelley có tựa đề là "CDVN Mass hạ cờ Việt cộng tại tiệm tạp hóa ở Boston, MA - Sat Nov 18, 2017"để theo dõi toàn bộ quá trình hạ cờ Việt cộng và xin cám ơn quý độc giả đã đọc bài, like và chia sẻ!  Sau đây là đường dẫn link trực tiếp:

YouTube : CDVN Mass hạ cờ Việt cộng tại tiệm tạp hóa ở Boston, MA - Sat Nov 18, 2017



Bảo Châu Kelley tường thuật từ Level5 Media
Note: có vài hình ảnh chụp bởi anh Joe Thạch.



_
__._,_.___

Posted by: hungthe <

Tướng Trần Văn Trung : Một Nhân Cách Lớn

$
0
0


      Tướng Trn Văn Trung :  Mt Nhân Cách Ln



Tôi nh khi thông báo vi các chiến hu trong ngành v tình trng nguy kch ca tướng Trn Văn Trung khi nm ti mt bnh vin ti Paris trước l Phuc sinh, anh Lê Trung Hin có viết my dòng sau:


Trung tướng Trn Văn Trung
Trung Tướng Trn Văn Trung, theo nhn đnh ca chúng tôi, nhng quân nhân đã phc v nhiu năm ti Tng cc Chiến Tranh Chính Tr, không phi là thánh, nhưng là mt v ch huy trưởng, mt tướng lãnh QLVNCH đc đ và liêm chính, rt đáng kính trng và quí mến.

Sđánh giá chân tình và khách quan ca người sĩ quan dưới quyn cũng là cách nhìn ca đông đo anh em chúng tôi, trong ngành nói riêng và các chiến hu mt thi sát cánh trong quân lc VNCH nói chung. Nếu vinh danh ông trong l ph c mt khi ông qua đi thì vi tư cách mt tướng lãnh, ông xng đáng được tán tng như mt trong nhng khuôn mt lãnh đo có nhân cách ln, mt ông tướng va sch, va đc đ, hết lòng phc v cho lý tưởng quc gia và tp th quân đi màông là mt thành viên có mt đến gi phút chót ca cuc chiến.
Nay bnh tình dù có qua cơn hôn mê, nhưng sc kho cũng đã tui gn chin chc, tôi mun viết ít hàng vông ch yếu là nhc li vài giai thoi vông tưóng đu ngành đ nếu bài viết cóđến tay ông thì cũng là mt điu an i, chí ít cũng có nhng đàn em, thuc cp còn nhđến ông trong nim kính trng, dù thế thái nhân tình cóđo ln, quân đi có tan hàng, đt nước có sang trang.
Mười năm trùng hp vi nn đ nh cng hòa dưới triu Tng thng Nguyn Văn Thiu, người ta biết nhiu đến mt khuôn mt tướng lãnh: tướng ba sao Trn Văn Trung. Ông ni tiếng vìđng đu mt cơ quan đu não v tinh thn ca quân lc VNCH sut mười năm lin, li có bà v cu hoa khôi n trung hc Đng Khánh (Huế). Hai người hay xut hin cp đôi trong các Đi hi Nhc tr ti Thđô nhân dp gây quĩ Cây Mùa Xuân cho các chiến sĩ vào các năm chiến trường cao đim cui 60 đu thp niên 70, vi s tham d ca c chc ngàn gii tr Sài gòn ti các tđim sân vn đng Hoa lư và Tho cm viên.
Nhìn dáng v b ngoài vi cp kính trng trên khuôn mt đượm nét trí thc ca mt người tui 40 khi ông va đeo mt sao và mi v nhm chc Tng Cc trưởng CTCT, nhiu người không nghĩông làông tướng. Nhìn bà la tui kém ông c mười năm, người ta phi nhìn nhn bà có sc đp sc so, thon cao, đm nét Tây phương. Trước đó nhiu năm ông có làm Tùy viên quân lc ti Tòa Đi s VNCH ti Paris, nên trong li giao lưu đi thường, hai ông bà rt lch thip, ci m, mang phong cách ngoi giao hơn là nhng người đơn thun trong gia đình binh nghip.

Trung tướng Trn Văn Trung
Cũng có thi có li đn thi bà Hoài Nam thiên Cng vì có bà m nuôi là bà Tun Chi, cu hiu trưởng trung hc Đng Khánh, người đã cùng thượng ta Thích Đôn Hu ra bưng theo Vit Cng hi Mu Thân Huế. Thc cht phu nhân tướng Trung rt hiu nhng người Cng sn, li cóý thc chính trđc lp và chng nh hưởng gì khi có người trong gia đình theo phía CS. Ngược li người ta hay khen bà có tướng vượng phu. Gn như vy nếu ai tin tướng s. Trong cuc đi làm tướng, ông ch mt ln đm nhim chc v tiu đoàn trưởng (tiu đoàn khinh binh s 27 đu tiên ca quân đi quc gia hay hành quân trên vùng châu th sông Hng), v sau theo nhu cu phát trin ca quân đi, ông chuyn sang làm các công tác tham mu cao cp ti B Tng tham mưu. Ông cũng có duyên vi ngành quân hun, có ln đã ch huy quân trung võ khoa ThĐc, nơi đào to hàng chc ngàn sĩ quan tr b cho quân đi quc gia. Khi chiến tranh đi vào cuc đ sc gia hai ý thc h thìông được chuyn v làm Tng cc trưởng Tng cc CTCT, mt cơ quan mà mô hinh t chc ca nó bt chước quân đi Trung hoa Dân quc, nm toàn b các công tác an ninh, tâm lý chiến, chính hun, xã hi, quân tiếp v, văn hóa văn ngh, báo chí và tuyên úy quân đi.


Trung tướng Trn Văn Trung - B sưu tp ch ký ca Đi Úy Thch Văn James
Có người nói ông là người ca tướng Thiu nên mi được giao mt chc v nhiu quyn lc như vy, thc cht hai ông là bn cùng khóa võ bĐp Đá (tin thân ca Khóa 1 Đà Lt), vì tin cy nhau trong thi bui d có binh biến li biết tướng Trung không có mưu đ chính tr và tham vng cá nhân, nên tông tông đã buc chân ông vào chc v này cho đến ngày tàn cuc. Nói cho ngay cũng chng ông tướng nào có kh năng thích hp hơn, nên khi được tín nhim trong trách nhim đu ngành cũng mt phn ông là con người luôn vìđi cuc và chp hành theo đúng v trí ca người lính. Chính ông cũng mun gi thế phi đng phái trong quân đi, ông không đ cho vic s dng các phương tin ca quân đi cho bt c liên danh nào, k c hai ông Thiu-K. Ông Thiu cũng không th t chc h thng đng trong quân đi min Nam mà phi ly đi ngũ giáo viên làm nng ct cho Đng Dân Ch ca ông thông qua người cùng x là mt B trung Giáo dc.

V trình đ, tướng Trung là người có kh năng viết và nói, li gii ngoi ng và thích đc. Gn như nhng din văn hoc hun th viết cho các lãnh đo t tng tư lnh đến tng tham mưu trưởng trong các dp l ln đu có chp bút ca ông, riêng các din t ca riêng ông, ông viết ly. Các văn thư tham mưu quan trng, các kế hoch, đán nhm nâng cao tinh thn binh sĩ hoc phát đng các chiến dch đch vn hóa gii tuyên truyn ca đi phương, ông không ch là người cho ý kiến mà t tay chnh sa, thêm bt cho hoàn chính trước khi ph biến đến các đơn vđ thi hành. Là người đng đu cơ quan phát ngôn ca quân đi, nhưng ông ít khi xut hin trong các cuc hp báo, rt thn trng khi phát ngôn, đc bit nhng vn đ nhy cm báo chí cn khai thác, nht là dưới thi ông Thiu rt nhiu v vic gây tai tiếng làm nn lòng chiến sĩ.
Nhưng ông cũng biết lng nghe dư lun qun chúng và tp th chiến sĩ. Bn tin đu tiên trong ngày trên bàn làm vic là mc Đim báo quc phòng, son riêng cho ông đ va nm tình hình chiến s va xem báo chí truyn thông h nói gì, đ tđó chđng sa sai, nhưng kết qu cũng ch là hn chế khi thc cht các tướng ch huy chiến trường vn có thói quen rng nào cp ny, hùng c nht phương và các cán b CTCT cp quân khu tiu khu phi bó tay, không th sánh vi cán b chính tr ca đi phương khi h kiêm luôn cp y tay chân ca Đng.

Trung Tướng Trn văn Trung tng cc trưởng tng cc chiến tranh chính tr và ho s Hoàng Vinh trước tác phm Hoàng Vinh ti thư vin Quc Gia Sài Gòn năm 1973
Có mt điu thú v là dưới thi ông v tng cc. ngành CTCT đã chn danh nhân Nguyn Trãi làm Thánh t cho ngành Nhân vt lch sđã son Bình NgôĐi Cáo vi câu danh ngôn ly chí nhân thay cường bo/đem đi nghĩa thng hung tàn và các khóa đào to SVSQ hin dch cho trung Đi hc CTCT đu ly các danh hiu Nguyn Trãi 1. NT2, NT3Ngu nhiên có s trùng hp là phe Hà-ni h cũng vinh danh Nguyn Trãi làm danh nhân văn hóa, xếp cao hơn c Nguyn Du v văn hc. Khi xóa s chếđ min Nam, h lên án ngành ca tướng Trung đã pham mt ti ác là dám ly nhân vt này làm thánh t, nhưng khi hn hc đa đy nhng người thua cuc h có biết đâu chính Nguyn Trãi đã viết, hn thù ri kêu gi tr thù thì oán mãi không thôi.

Nh li đêm 29 khi tiếng đng cơ trc thăng ca TQLC M nđu trên nóc tòa đi s Mđ vi vàng đưa nhng người di tn cui cùng ra hm đi 7 trước khi cun c, thì tung Trung vn bn rn vi nhng cúđin thoi ti văn phòng ca ông, nm ngay cnh s quán M. Lúc này ni dung các cuc nói chuyn không còn là nhng vn đ chiến s, mà thc cht ông mun xem gi tàn cuc s theo chiu hướng nào. Vn thân vi Đi s Pháp ti Sài gòn, ông được ông Méreìllon đoan chc s có mt gii pháp cho vn đ Vit nam, thun li cho c bn bên. Đi đ min Nam s trung lp, ranh gii có th mt Huế và my tnh min Trung. Chuyn Sài gòn đ máu là không th có. Quá na đêm, ông st rut li thăm dò bên văn phòng Dương Văn Minh, nơi đây cho biết phía Bc Vit đi ý. Gii pháp do Đi s Pháp làm trung gian không thành. Sài gòn thc sđi dn vào hôn mê. Vũ Văn Mu cho phát li đui M ra khi nuc, chun b cho tiến trình buông súng ca phe min Nam vào sáng hôm sau.
Sáng 30, tướng Trung nhn được lnh tr li B TTM đ hp vi tướng Vĩnh Lc,Tng tham mưu trưởng gi th 25 ca min Nam. Hp khong mt tiếng, xut hin chun tướng Nguyn Hu Hnh, ông này va được DVM c làm Tham mưu trưởng liên quân. Viên tướng mt sao t l ngay trong phiên hp ông là người caMt trn gii phóng. Sau đó nghe k li, hai tướng cp cao nht ca quân lc VNCH và vài người na ra bến Bch Đng, lên mt con tàu nh ca Hi quân trc ch Cn Gi. Khi tàu còn trên sông Lòng To, cũng là lúc Dương Văn Minh kêu gi tp th chiến sĩ ca ta buông súng. Con tàu đi thoát, tướng Lc vào M (ông mi mt cách đây vài năm ), tướng Trung đi đnh cư ti Pháp, nơi ông có mi quan h lâu đi t ngày làm vic ti S quán VNCH Paris.
Ra hi ngoi, ông hiu thi và thế, ông sng n dt ti vùng ngoi ô Paris. Nhưng ni hoài nim v mt thi Sài gòn vang bóng vn thôi thúc trăn tr trong ông. Ông vn đng sau cng đng người Vit hi ngoi ti Pháp và tích cc h tr các hot đng ca t chc này trong các cao trào đu tranh nhân quyn và t do đích thc cho Vit nam. Ông tham dđu đn Ngày Quân lc mi năm và L Chiến sĩ trn vong ca Pháp. Qua báo chí hi ngoi, h hay đưa tin và hình nh ông đăng đàn phát biu rt sâu sc trong nhng dp l này.
Ghi li ít giai thoi vàđôi điu tôi biết vông không nhm tâng bc chân dung mt v tướng mt thi chúng tôi phc v dưới quyn, mà trong thin ý ch mun chia s góc nhìn v mt phn đi ca ông khi chính ông cũng như chúng tôi là chng nhân ca tn bi kch lch s còn phi nhc nh nhiu nhng thp niên sau.


Trung tướng Trn Văn Trung







__._,_.___


Posted by: nguyen vang 

Tướng Trần Văn Trung : Một Nhân Cách Lớn

$
0
0


      Tướng Trn Văn Trung :  Mt Nhân Cách Ln



Tôi nh khi thông báo vi các chiến hu trong ngành v tình trng nguy kch ca tướng Trn Văn Trung khi nm ti mt bnh vin ti Paris trước l Phuc sinh, anh Lê Trung Hin có viết my dòng sau:


Trung tướng Trn Văn Trung
Trung Tướng Trn Văn Trung, theo nhn đnh ca chúng tôi, nhng quân nhân đã phc v nhiu năm ti Tng cc Chiến Tranh Chính Tr, không phi là thánh, nhưng là mt v ch huy trưởng, mt tướng lãnh QLVNCH đc đ và liêm chính, rt đáng kính trng và quí mến.

Sđánh giá chân tình và khách quan ca người sĩ quan dưới quyn cũng là cách nhìn ca đông đo anh em chúng tôi, trong ngành nói riêng và các chiến hu mt thi sát cánh trong quân lc VNCH nói chung. Nếu vinh danh ông trong l ph c mt khi ông qua đi thì vi tư cách mt tướng lãnh, ông xng đáng được tán tng như mt trong nhng khuôn mt lãnh đo có nhân cách ln, mt ông tướng va sch, va đc đ, hết lòng phc v cho lý tưởng quc gia và tp th quân đi màông là mt thành viên có mt đến gi phút chót ca cuc chiến.
Nay bnh tình dù có qua cơn hôn mê, nhưng sc kho cũng đã tui gn chin chc, tôi mun viết ít hàng vông ch yếu là nhc li vài giai thoi vông tưóng đu ngành đ nếu bài viết cóđến tay ông thì cũng là mt điu an i, chí ít cũng có nhng đàn em, thuc cp còn nhđến ông trong nim kính trng, dù thế thái nhân tình cóđo ln, quân đi có tan hàng, đt nước có sang trang.
Mười năm trùng hp vi nn đ nh cng hòa dưới triu Tng thng Nguyn Văn Thiu, người ta biết nhiu đến mt khuôn mt tướng lãnh: tướng ba sao Trn Văn Trung. Ông ni tiếng vìđng đu mt cơ quan đu não v tinh thn ca quân lc VNCH sut mười năm lin, li có bà v cu hoa khôi n trung hc Đng Khánh (Huế). Hai người hay xut hin cp đôi trong các Đi hi Nhc tr ti Thđô nhân dp gây quĩ Cây Mùa Xuân cho các chiến sĩ vào các năm chiến trường cao đim cui 60 đu thp niên 70, vi s tham d ca c chc ngàn gii tr Sài gòn ti các tđim sân vn đng Hoa lư và Tho cm viên.
Nhìn dáng v b ngoài vi cp kính trng trên khuôn mt đượm nét trí thc ca mt người tui 40 khi ông va đeo mt sao và mi v nhm chc Tng Cc trưởng CTCT, nhiu người không nghĩông làông tướng. Nhìn bà la tui kém ông c mười năm, người ta phi nhìn nhn bà có sc đp sc so, thon cao, đm nét Tây phương. Trước đó nhiu năm ông có làm Tùy viên quân lc ti Tòa Đi s VNCH ti Paris, nên trong li giao lưu đi thường, hai ông bà rt lch thip, ci m, mang phong cách ngoi giao hơn là nhng người đơn thun trong gia đình binh nghip.

Trung tướng Trn Văn Trung
Cũng có thi có li đn thi bà Hoài Nam thiên Cng vì có bà m nuôi là bà Tun Chi, cu hiu trưởng trung hc Đng Khánh, người đã cùng thượng ta Thích Đôn Hu ra bưng theo Vit Cng hi Mu Thân Huế. Thc cht phu nhân tướng Trung rt hiu nhng người Cng sn, li cóý thc chính trđc lp và chng nh hưởng gì khi có người trong gia đình theo phía CS. Ngược li người ta hay khen bà có tướng vượng phu. Gn như vy nếu ai tin tướng s. Trong cuc đi làm tướng, ông ch mt ln đm nhim chc v tiu đoàn trưởng (tiu đoàn khinh binh s 27 đu tiên ca quân đi quc gia hay hành quân trên vùng châu th sông Hng), v sau theo nhu cu phát trin ca quân đi, ông chuyn sang làm các công tác tham mu cao cp ti B Tng tham mưu. Ông cũng có duyên vi ngành quân hun, có ln đã ch huy quân trung võ khoa ThĐc, nơi đào to hàng chc ngàn sĩ quan tr b cho quân đi quc gia. Khi chiến tranh đi vào cuc đ sc gia hai ý thc h thìông được chuyn v làm Tng cc trưởng Tng cc CTCT, mt cơ quan mà mô hinh t chc ca nó bt chước quân đi Trung hoa Dân quc, nm toàn b các công tác an ninh, tâm lý chiến, chính hun, xã hi, quân tiếp v, văn hóa văn ngh, báo chí và tuyên úy quân đi.


Trung tướng Trn Văn Trung - B sưu tp ch ký ca Đi Úy Thch Văn James
Có người nói ông là người ca tướng Thiu nên mi được giao mt chc v nhiu quyn lc như vy, thc cht hai ông là bn cùng khóa võ bĐp Đá (tin thân ca Khóa 1 Đà Lt), vì tin cy nhau trong thi bui d có binh biến li biết tướng Trung không có mưu đ chính tr và tham vng cá nhân, nên tông tông đã buc chân ông vào chc v này cho đến ngày tàn cuc. Nói cho ngay cũng chng ông tướng nào có kh năng thích hp hơn, nên khi được tín nhim trong trách nhim đu ngành cũng mt phn ông là con người luôn vìđi cuc và chp hành theo đúng v trí ca người lính. Chính ông cũng mun gi thế phi đng phái trong quân đi, ông không đ cho vic s dng các phương tin ca quân đi cho bt c liên danh nào, k c hai ông Thiu-K. Ông Thiu cũng không th t chc h thng đng trong quân đi min Nam mà phi ly đi ngũ giáo viên làm nng ct cho Đng Dân Ch ca ông thông qua người cùng x là mt B trung Giáo dc.

V trình đ, tướng Trung là người có kh năng viết và nói, li gii ngoi ng và thích đc. Gn như nhng din văn hoc hun th viết cho các lãnh đo t tng tư lnh đến tng tham mưu trưởng trong các dp l ln đu có chp bút ca ông, riêng các din t ca riêng ông, ông viết ly. Các văn thư tham mưu quan trng, các kế hoch, đán nhm nâng cao tinh thn binh sĩ hoc phát đng các chiến dch đch vn hóa gii tuyên truyn ca đi phương, ông không ch là người cho ý kiến mà t tay chnh sa, thêm bt cho hoàn chính trước khi ph biến đến các đơn vđ thi hành. Là người đng đu cơ quan phát ngôn ca quân đi, nhưng ông ít khi xut hin trong các cuc hp báo, rt thn trng khi phát ngôn, đc bit nhng vn đ nhy cm báo chí cn khai thác, nht là dưới thi ông Thiu rt nhiu v vic gây tai tiếng làm nn lòng chiến sĩ.
Nhưng ông cũng biết lng nghe dư lun qun chúng và tp th chiến sĩ. Bn tin đu tiên trong ngày trên bàn làm vic là mc Đim báo quc phòng, son riêng cho ông đ va nm tình hình chiến s va xem báo chí truyn thông h nói gì, đ tđó chđng sa sai, nhưng kết qu cũng ch là hn chế khi thc cht các tướng ch huy chiến trường vn có thói quen rng nào cp ny, hùng c nht phương và các cán b CTCT cp quân khu tiu khu phi bó tay, không th sánh vi cán b chính tr ca đi phương khi h kiêm luôn cp y tay chân ca Đng.

Trung Tướng Trn văn Trung tng cc trưởng tng cc chiến tranh chính tr và ho s Hoàng Vinh trước tác phm Hoàng Vinh ti thư vin Quc Gia Sài Gòn năm 1973
Có mt điu thú v là dưới thi ông v tng cc. ngành CTCT đã chn danh nhân Nguyn Trãi làm Thánh t cho ngành Nhân vt lch sđã son Bình NgôĐi Cáo vi câu danh ngôn ly chí nhân thay cường bo/đem đi nghĩa thng hung tàn và các khóa đào to SVSQ hin dch cho trung Đi hc CTCT đu ly các danh hiu Nguyn Trãi 1. NT2, NT3Ngu nhiên có s trùng hp là phe Hà-ni h cũng vinh danh Nguyn Trãi làm danh nhân văn hóa, xếp cao hơn c Nguyn Du v văn hc. Khi xóa s chếđ min Nam, h lên án ngành ca tướng Trung đã pham mt ti ác là dám ly nhân vt này làm thánh t, nhưng khi hn hc đa đy nhng người thua cuc h có biết đâu chính Nguyn Trãi đã viết, hn thù ri kêu gi tr thù thì oán mãi không thôi.

Nh li đêm 29 khi tiếng đng cơ trc thăng ca TQLC M nđu trên nóc tòa đi s Mđ vi vàng đưa nhng người di tn cui cùng ra hm đi 7 trước khi cun c, thì tung Trung vn bn rn vi nhng cúđin thoi ti văn phòng ca ông, nm ngay cnh s quán M. Lúc này ni dung các cuc nói chuyn không còn là nhng vn đ chiến s, mà thc cht ông mun xem gi tàn cuc s theo chiu hướng nào. Vn thân vi Đi s Pháp ti Sài gòn, ông được ông Méreìllon đoan chc s có mt gii pháp cho vn đ Vit nam, thun li cho c bn bên. Đi đ min Nam s trung lp, ranh gii có th mt Huế và my tnh min Trung. Chuyn Sài gòn đ máu là không th có. Quá na đêm, ông st rut li thăm dò bên văn phòng Dương Văn Minh, nơi đây cho biết phía Bc Vit đi ý. Gii pháp do Đi s Pháp làm trung gian không thành. Sài gòn thc sđi dn vào hôn mê. Vũ Văn Mu cho phát li đui M ra khi nuc, chun b cho tiến trình buông súng ca phe min Nam vào sáng hôm sau.
Sáng 30, tướng Trung nhn được lnh tr li B TTM đ hp vi tướng Vĩnh Lc,Tng tham mưu trưởng gi th 25 ca min Nam. Hp khong mt tiếng, xut hin chun tướng Nguyn Hu Hnh, ông này va được DVM c làm Tham mưu trưởng liên quân. Viên tướng mt sao t l ngay trong phiên hp ông là người caMt trn gii phóng. Sau đó nghe k li, hai tướng cp cao nht ca quân lc VNCH và vài người na ra bến Bch Đng, lên mt con tàu nh ca Hi quân trc ch Cn Gi. Khi tàu còn trên sông Lòng To, cũng là lúc Dương Văn Minh kêu gi tp th chiến sĩ ca ta buông súng. Con tàu đi thoát, tướng Lc vào M (ông mi mt cách đây vài năm ), tướng Trung đi đnh cư ti Pháp, nơi ông có mi quan h lâu đi t ngày làm vic ti S quán VNCH Paris.
Ra hi ngoi, ông hiu thi và thế, ông sng n dt ti vùng ngoi ô Paris. Nhưng ni hoài nim v mt thi Sài gòn vang bóng vn thôi thúc trăn tr trong ông. Ông vn đng sau cng đng người Vit hi ngoi ti Pháp và tích cc h tr các hot đng ca t chc này trong các cao trào đu tranh nhân quyn và t do đích thc cho Vit nam. Ông tham dđu đn Ngày Quân lc mi năm và L Chiến sĩ trn vong ca Pháp. Qua báo chí hi ngoi, h hay đưa tin và hình nh ông đăng đàn phát biu rt sâu sc trong nhng dp l này.
Ghi li ít giai thoi vàđôi điu tôi biết vông không nhm tâng bc chân dung mt v tướng mt thi chúng tôi phc v dưới quyn, mà trong thin ý ch mun chia s góc nhìn v mt phn đi ca ông khi chính ông cũng như chúng tôi là chng nhân ca tn bi kch lch s còn phi nhc nh nhiu nhng thp niên sau.


Trung tướng Trn Văn Trung







__._,_.___


Posted by: nguyen vang 

Tướng Trần Văn Trung : Một Nhân Cách Lớn

$
0
0


      Tướng Trn Văn Trung :  Mt Nhân Cách Ln



Tôi nh khi thông báo vi các chiến hu trong ngành v tình trng nguy kch ca tướng Trn Văn Trung khi nm ti mt bnh vin ti Paris trước l Phuc sinh, anh Lê Trung Hin có viết my dòng sau:


Trung tướng Trn Văn Trung
Trung Tướng Trn Văn Trung, theo nhn đnh ca chúng tôi, nhng quân nhân đã phc v nhiu năm ti Tng cc Chiến Tranh Chính Tr, không phi là thánh, nhưng là mt v ch huy trưởng, mt tướng lãnh QLVNCH đc đ và liêm chính, rt đáng kính trng và quí mến.

Sđánh giá chân tình và khách quan ca người sĩ quan dưới quyn cũng là cách nhìn ca đông đo anh em chúng tôi, trong ngành nói riêng và các chiến hu mt thi sát cánh trong quân lc VNCH nói chung. Nếu vinh danh ông trong l ph c mt khi ông qua đi thì vi tư cách mt tướng lãnh, ông xng đáng được tán tng như mt trong nhng khuôn mt lãnh đo có nhân cách ln, mt ông tướng va sch, va đc đ, hết lòng phc v cho lý tưởng quc gia và tp th quân đi màông là mt thành viên có mt đến gi phút chót ca cuc chiến.
Nay bnh tình dù có qua cơn hôn mê, nhưng sc kho cũng đã tui gn chin chc, tôi mun viết ít hàng vông ch yếu là nhc li vài giai thoi vông tưóng đu ngành đ nếu bài viết cóđến tay ông thì cũng là mt điu an i, chí ít cũng có nhng đàn em, thuc cp còn nhđến ông trong nim kính trng, dù thế thái nhân tình cóđo ln, quân đi có tan hàng, đt nước có sang trang.
Mười năm trùng hp vi nn đ nh cng hòa dưới triu Tng thng Nguyn Văn Thiu, người ta biết nhiu đến mt khuôn mt tướng lãnh: tướng ba sao Trn Văn Trung. Ông ni tiếng vìđng đu mt cơ quan đu não v tinh thn ca quân lc VNCH sut mười năm lin, li có bà v cu hoa khôi n trung hc Đng Khánh (Huế). Hai người hay xut hin cp đôi trong các Đi hi Nhc tr ti Thđô nhân dp gây quĩ Cây Mùa Xuân cho các chiến sĩ vào các năm chiến trường cao đim cui 60 đu thp niên 70, vi s tham d ca c chc ngàn gii tr Sài gòn ti các tđim sân vn đng Hoa lư và Tho cm viên.
Nhìn dáng v b ngoài vi cp kính trng trên khuôn mt đượm nét trí thc ca mt người tui 40 khi ông va đeo mt sao và mi v nhm chc Tng Cc trưởng CTCT, nhiu người không nghĩông làông tướng. Nhìn bà la tui kém ông c mười năm, người ta phi nhìn nhn bà có sc đp sc so, thon cao, đm nét Tây phương. Trước đó nhiu năm ông có làm Tùy viên quân lc ti Tòa Đi s VNCH ti Paris, nên trong li giao lưu đi thường, hai ông bà rt lch thip, ci m, mang phong cách ngoi giao hơn là nhng người đơn thun trong gia đình binh nghip.

Trung tướng Trn Văn Trung
Cũng có thi có li đn thi bà Hoài Nam thiên Cng vì có bà m nuôi là bà Tun Chi, cu hiu trưởng trung hc Đng Khánh, người đã cùng thượng ta Thích Đôn Hu ra bưng theo Vit Cng hi Mu Thân Huế. Thc cht phu nhân tướng Trung rt hiu nhng người Cng sn, li cóý thc chính trđc lp và chng nh hưởng gì khi có người trong gia đình theo phía CS. Ngược li người ta hay khen bà có tướng vượng phu. Gn như vy nếu ai tin tướng s. Trong cuc đi làm tướng, ông ch mt ln đm nhim chc v tiu đoàn trưởng (tiu đoàn khinh binh s 27 đu tiên ca quân đi quc gia hay hành quân trên vùng châu th sông Hng), v sau theo nhu cu phát trin ca quân đi, ông chuyn sang làm các công tác tham mu cao cp ti B Tng tham mưu. Ông cũng có duyên vi ngành quân hun, có ln đã ch huy quân trung võ khoa ThĐc, nơi đào to hàng chc ngàn sĩ quan tr b cho quân đi quc gia. Khi chiến tranh đi vào cuc đ sc gia hai ý thc h thìông được chuyn v làm Tng cc trưởng Tng cc CTCT, mt cơ quan mà mô hinh t chc ca nó bt chước quân đi Trung hoa Dân quc, nm toàn b các công tác an ninh, tâm lý chiến, chính hun, xã hi, quân tiếp v, văn hóa văn ngh, báo chí và tuyên úy quân đi.


Trung tướng Trn Văn Trung - B sưu tp ch ký ca Đi Úy Thch Văn James
Có người nói ông là người ca tướng Thiu nên mi được giao mt chc v nhiu quyn lc như vy, thc cht hai ông là bn cùng khóa võ bĐp Đá (tin thân ca Khóa 1 Đà Lt), vì tin cy nhau trong thi bui d có binh biến li biết tướng Trung không có mưu đ chính tr và tham vng cá nhân, nên tông tông đã buc chân ông vào chc v này cho đến ngày tàn cuc. Nói cho ngay cũng chng ông tướng nào có kh năng thích hp hơn, nên khi được tín nhim trong trách nhim đu ngành cũng mt phn ông là con người luôn vìđi cuc và chp hành theo đúng v trí ca người lính. Chính ông cũng mun gi thế phi đng phái trong quân đi, ông không đ cho vic s dng các phương tin ca quân đi cho bt c liên danh nào, k c hai ông Thiu-K. Ông Thiu cũng không th t chc h thng đng trong quân đi min Nam mà phi ly đi ngũ giáo viên làm nng ct cho Đng Dân Ch ca ông thông qua người cùng x là mt B trung Giáo dc.


V trình đ, tướng Trung là người có kh năng viết và nói, li gii ngoi ng và thích đc. Gn như nhng din văn hoc hun th viết cho các lãnh đo t tng tư lnh đến tng tham mưu trưởng trong các dp l ln đu có chp bút ca ông, riêng các din t ca riêng ông, ông viết ly. Các văn thư tham mưu quan trng, các kế hoch, đán nhm nâng cao tinh thn binh sĩ hoc phát đng các chiến dch đch vn hóa gii tuyên truyn ca đi phương, ông không ch là người cho ý kiến mà t tay chnh sa, thêm bt cho hoàn chính trước khi ph biến đến các đơn vđ thi hành. Là người đng đu cơ quan phát ngôn ca quân đi, nhưng ông ít khi xut hin trong các cuc hp báo, rt thn trng khi phát ngôn, đc bit nhng vn đ nhy cm báo chí cn khai thác, nht là dưới thi ông Thiu rt nhiu v vic gây tai tiếng làm nn lòng chiến sĩ.
Nhưng ông cũng biết lng nghe dư lun qun chúng và tp th chiến sĩ. Bn tin đu tiên trong ngày trên bàn làm vic là mc Đim báo quc phòng, son riêng cho ông đ va nm tình hình chiến s va xem báo chí truyn thông h nói gì, đ tđó chđng sa sai, nhưng kết qu cũng ch là hn chế khi thc cht các tướng ch huy chiến trường vn có thói quen rng nào cp ny, hùng c nht phương và các cán b CTCT cp quân khu tiu khu phi bó tay, không th sánh vi cán b chính tr ca đi phương khi h kiêm luôn cp y tay chân ca Đng.

Trung Tướng Trn văn Trung tng cc trưởng tng cc chiến tranh chính tr và ho s Hoàng Vinh trước tác phm Hoàng Vinh ti thư vin Quc Gia Sài Gòn năm 1973
Có mt điu thú v là dưới thi ông v tng cc. ngành CTCT đã chn danh nhân Nguyn Trãi làm Thánh t cho ngành Nhân vt lch sđã son Bình NgôĐi Cáo vi câu danh ngôn ly chí nhân thay cường bo/đem đi nghĩa thng hung tàn và các khóa đào to SVSQ hin dch cho trung Đi hc CTCT đu ly các danh hiu Nguyn Trãi 1. NT2, NT3Ngu nhiên có s trùng hp là phe Hà-ni h cũng vinh danh Nguyn Trãi làm danh nhân văn hóa, xếp cao hơn c Nguyn Du v văn hc. Khi xóa s chếđ min Nam, h lên án ngành ca tướng Trung đã pham mt ti ác là dám ly nhân vt này làm thánh t, nhưng khi hn hc đa đy nhng người thua cuc h có biết đâu chính Nguyn Trãi đã viết, hn thù ri kêu gi tr thù thì oán mãi không thôi.


Nh li đêm 29 khi tiếng đng cơ trc thăng ca TQLC M nđu trên nóc tòa đi s Mđ vi vàng đưa nhng người di tn cui cùng ra hm đi 7 trước khi cun c, thì tung Trung vn bn rn vi nhng cúđin thoi ti văn phòng ca ông, nm ngay cnh s quán M. Lúc này ni dung các cuc nói chuyn không còn là nhng vn đ chiến s, mà thc cht ông mun xem gi tàn cuc s theo chiu hướng nào. Vn thân vi Đi s Pháp ti Sài gòn, ông được ông Méreìllon đoan chc s có mt gii pháp cho vn đ Vit nam, thun li cho c bn bên. Đi đ min Nam s trung lp, ranh gii có th mt Huế và my tnh min Trung. Chuyn Sài gòn đ máu là không th có. Quá na đêm, ông st rut li thăm dò bên văn phòng Dương Văn Minh, nơi đây cho biết phía Bc Vit đi ý

Gii pháp do Đi s Pháp làm trung gian không thành. Sài gòn thc sđi dn vào hôn mê. Vũ Văn Mu cho phát li đui M ra khi nuc, chun b cho tiến trình buông súng ca phe min Nam vào sáng hôm sau.
Sáng 30, tướng Trung nhn được lnh tr li B TTM đ hp vi tướng Vĩnh Lc,Tng tham mưu trưởng gi th 25 ca min Nam. Hp khong mt tiếng, xut hin chun tướng Nguyn Hu Hnh, ông này va được DVM c làm Tham mưu trưởng liên quân. Viên tướng mt sao t l ngay trong phiên hp ông là người caMt trn gii phóng. Sau đó nghe k li, hai tướng cp cao nht ca quân lc VNCH và vài người na ra bến Bch Đng, lên mt con tàu nh ca Hi quân trc ch Cn Gi. Khi tàu còn trên sông Lòng To, cũng là lúc Dương Văn Minh kêu gi tp th chiến sĩ ca ta buông súng. Con tàu đi thoát, tướng Lc vào M (ông mi mt cách đây vài năm ), tướng Trung đi đnh cư ti Pháp, nơi ông có mi quan h lâu đi t ngày làm vic ti S quán VNCH Paris.

Ra hi ngoi, ông hiu thi và thế, ông sng n dt ti vùng ngoi ô Paris. Nhưng ni hoài nim v mt thi Sài gòn vang bóng vn thôi thúc trăn tr trong ông. Ông vn đng sau cng đng người Vit hi ngoi ti Pháp và tích cc h tr các hot đng ca t chc này trong các cao trào đu tranh nhân quyn và t do đích thc cho Vit nam. Ông tham dđu đn Ngày Quân lc mi năm và L Chiến sĩ trn vong ca Pháp. Qua báo chí hi ngoi, h hay đưa tin và hình nh ông đăng đàn phát biu rt sâu sc trong nhng dp l này.

Ghi li ít giai thoi vàđôi điu tôi biết vông không nhm tâng bc chân dung mt v tướng mt thi chúng tôi phc v dưới quyn, mà trong thin ý ch mun chia s góc nhìn v mt phn đi ca ông khi chính ông cũng như chúng tôi là chng nhân ca tn bi kch lch s còn phi nhc nh nhiu nhng thp niên sau.


Trung tướng Trn Văn Trung







__._,_.___


Posted by: nguyen vang 

Những Thằng Hèn của Lịch Sử Miền Nam VN

$
0
0


----- Forwarded Message -----
From: Luong vo van <
: Đúng là: Những Thằng Hèn

Thì đúng là Những THẰNG HÈN rồi !




Tỵ Nạn Việt Nam ở Hải Ngoại gồm nhiều thành phần dựa vào cái mốc trước và sau 30-04-1975
- Những thành phần sinh viên, công chức chế độ VNCH đang du học hay làm việc ngoài VN:  Tị Nạn thời cơ hay tị nạn bất đắc dĩ.
- Loại đào ngũ, đào nhiệm chạy ra ngoại quốc trước ngày VNCH bị tan hàng
- Thuyền nhân: vượt biên bằng tàu thuyền
- Bộ nhân: vượt biên bằng đường bộ
- Phi nhân: ra đi bằng phi cơ
- Sinh viên du họ̣c COCC
- Chương trình xuất cảng lao động
- Chương trình xuất cảng làm dâu xứ người
Với hơn ba triệu người Việt hiện nay ở hải ngoại, theo độc giả loại nào anh hùng nhất? loại nào mạnh miệng nhất? MUỐN PHÊ BÌNH NGƯỜI KHÁC THÌ PHẢI XÉT BẢN THÂN>>>>

Những Thằng Hèn của Lịch Sử Miền Nam VN

·      
 Ký giả Borries Gallasch, phóng viên tờ Der Spiegel của Đức, người ký giả ngoại quốc duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào sáng 30.4.1975, đã kể lại thái độ của Tướng Dương Văn Minh khi đối diện với các bộ đội cộng sản đến bắt ông đầu hàng như sau: Đại Tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò… Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính:
“Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”.
Làm tướng mà phải đầu hàng là nhục rồi, nhưng lại còn hèn hơn nữa khi nói mé cho những tên bộ đội nhỏ bé của Cộng quân biết rằng ông có người em theo Việt Cộng là Dương Văn Nhựt để chứng tỏ ta đây cũng thuộc “gia đình Cách Mạng”!
Vị sĩ quan cao cấp được 4,5 lính CS hộ tống ập vô đại sảnh, nơi mà tướng Dương Văn Minh đang hội họp với các người thân cận của ông ta. Thấy vị sĩ quan đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, Tướng Minh tưởng rằng mình đứng trước một sĩ quan cao cấp nên nói:
- Thưa quan sáu (nguyên văn: mon général ong sau), tôi đã chờ ông từ sáng để trao quyền cho ông.
- Mầy (nguyên tác: tu, có thể dịch là anh, nhưng mày có lẽ đúng hơn trong hoàn cảnh nầy) dám nói là trao quyền à. Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một tên bù nhìn. Mầy chẳng có quyền nào để trao cho tao cả. Chúng tao đoạt được quyền bằng khẩu súng trong tay. Tao nói cho mày rõ là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chính trị. Và kể từ bây giờ, tao cấm mầy không được ngồi xuống.
Gương mặt tướng Minh co rúm lại. Giọng nói hung bạo và khinh miệt của người sĩ quan khiến ông Minh hiểu rõ là ông đang đứng trước mặt một sĩ quan miền Bắc (nguyên tác: Tonkinois) chớ không phải là người Mặt Trận miền Nam. Tướng Minh cố giữ bình tỉnh và nhẹ nhàng nói:
- Chúng tôi đã có làm sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng cua.
Viên trung tá xẳng giọng
- Tụi bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ thức ăn tư sản cho tụi bây. Chúng tao sẽ cho tụi bây ăn cơm dã chiến, một nắm cơm vắt và một hôp thịt mặn.
Tất cả các tổng trưởng hiện diện đều bị khám xét và bị bắt giam trong một phòng. Dinh Độc Lập bị tràn ngập bởi phóng viên báo chí» (Darcourt, p.209).
* Lúc 16 giờ 30, tướng Minh được rời khỏi phòng giam lỏng ở tầng dưới dinh Độc Lập. Một phóng viên của nhật báo Quân đội giài phóng hỏi ông nghĩ sao về những biến cố mà ông vừa trải qua? Ông Minh ngập ngừng giây lát rồi trả lời với ngôn ngữ tuyên truyền mà CS thường sử dụng:
- «Chúng tôi đã nhận thức được sức mạnh của Chánh phủ cách mạng lâm thời và của quân đội giải phóng. Các đơn vị thiết giáp của quân giải phóng thực hùng mạnh, quân đội Saigon không thể nào đương cự được, chỉ còn có việc đầu hàng không điều kiện mà thôi…
                                                                                         
Chúng tôi tin tưởng các ông, nếu không thì chúng tôi đâu có đem cả gia đình chúng tôi đến đây để đón các ông. Các ông đã đạt được chiến thắng một cách nhanh chóng, chúng tôi vô cùng sung sướng. Chúng tôi và gia đình chúng tôi bình yên, thật là may mắn » (Darcourt, tr. 213)
Và sau đó, các nhân vật trong nội các cuối cùng của VNCH cũng lưu hậu thế với những câu nói bất hủ.
* Ông Vũ văn Mẫu thì hớn hở, nhảy nhót: «Các anh đánh hay lắm. Tôi rất sung sướng đã đuổi được người Mỹ ra đi. Bây giờ thì chúng ta với chúng ta mà thôi. Sau khi nhắc lại quê ông ở quận Thường Tín, phía Nam Hà Nội và chuyện ông cạo đầu phản đối ông Diệm, ông nói: Kể từ hôm nay thì tôi sẽ để tóc lại được rồi»
* Ông Nguyễn Văn Hảođưa tay lên và nói lớn:«Các anh thật đáng phục vì đã đánh bại được nước Mỹ, chúng tôi hi vọng là tài nguyên của đất nước sẽ được sử dụng để xây dựng đất nước chúng ta».(Darcourt, tr.213)
Trường hợp của Trần Văn Đôn thì lại rất tàn nhẫn với thuộc cấp. Trước khi hối hả leo lên trực thăng cùng với con trai là một bác sĩ, ông Đôn nói với đoàn tùy tùng: «các anh ở lại, các anh không có chức vụ, không có gì nguy hiểm». Những quân nhân nầy vừa đau khổ, vừa khinh bỉ nhìn theo chiếc trực thăng cất cánh. (Darcourt, p. 194)
Lartéguy châm biếm: «Hôm qua là Phó thủ tướng, múa may, tưởng có thể thay thế Minh, bi đát hóa tình hình để đẩy Hương đi. Hôm nay, hối hả bỏ chạy, không thông báo cho cả viên đại tá chánh văn phòng khiến ông này sau đó tự tử .Ông Đôn chỉ là kẻ thừa hành của chánh phủ Pháp.» (Lartéguy , p.129)
Trong khi các chánh khách 30 của VNCH đầu hàng CS và tranh nhau nịnh bợ chánh quyền mới, trên khắp các nẽo đường đất nước, quân nhân các cấp phẩn uất, nhiều tướng tá tử tiết thay vì đầu hàng.
Chỉ cần đan kể một vài anh hùng liệt sĩ: các tướng Nguyễn Khoa Nam, Phạm văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần văn Hai...
-Tối ngày 21, lúc 19 giờ rưởi, TT Thiệu nói chuyện với quốc dân qua đài truyền hình, trước các đại diện hành pháp, lập pháp, tư pháp. Ông kết tội người Mỹ đã phản bội VN, ông gằn mạnh từng tiếng và lập lại: «các ông bỏ mặc cho binh sĩ chúng tôi dưới cơn mưa pháo của Cộng Sản, đó là hành động vô nhân đạo của một đồng minh vô nhân đạo …» và kết luận «Tôi từ chức, chứ không đào ngũ… Theo hiến pháp, người thay thế tôi là Phó TT Trần Văn Hương… Từ giờ phút này, tôi để cá nhân tôi thuộc quyền sử dụng của Tổng thống và quốc dân. Tôi sẽ sát cánh cùng mọi người trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc... Mất một Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, quân đội còn có một trung tướng Nguyễn Văn Thiệu và đồng bào còn có một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu bên các anh em chiến sĩ.. tôi sẵn sàng nhận lãnh sự phán xét và buộc tội của đồng bào ... »
Nguyễn khắc Ngữ thì có nhận định tiêu cực hơn «trong bài diễn văn từ chức nầy, ông đã hiện nguyên hình một tay sai của Hoa Kỳ, bị chủ đuổi lên tiếng chửi lại bằng những lời bình dân nhất không thể thấy được trong ngôn ngữ của một vị lãnh đạo quốc gia» (Ngữ, tr. 343).
Hoàng ngọc Thành cũng có nhận định tương tự về ông Thiệu «là người thừa hành đắc lực nhất của Hoa Kỳ trong chiến tranh VN»(Thành tr. 559) là «người hèn nhát, tại sao không chịu công bố trong năm 1974 và đầu năm 1975 các bức thư hứa hẹn trả đủa Bắc Việt của Tổng Thống Richard Nixon nếu Cộng Sản Hà Nội vi phạm hiệp định Ba lê, tại sao không công bố sớm để quốc hội và dân chúng Hoa Kỳ biết những điều cam kết nầy để đánh vào điểm danh dự và lương tâm người Mỹ. Làm như thế có lợi cho dân tộc VN, nhưng Nguyễn Văn Thiệu sợ bất lợi cho ông nên không làm» (Thành, tr.566).

Lâm Văn Bé
Trích từ "CHUYỆN THÁNG TƯ ĐEN: LỊCH SỬ HAY KÝ SỰ?"

:



__._,_.___

Posted by: Mike Duong 

Việt Nam Cộng Hòa & những Mùa Noel cũ

$
0
0
 


From:


Việt Nam Cộng Hòa & những Mùa Noel cũ

Không khí lễ Christmas đang rộn ràng khắp trời Bắc Mỹ có lẽ cũng gợi đôi chút nhớ nhung cho không ít độc giả người Việt, nhất là quý vị cao niên, về những mùa Noel cũ ở Miền Nam Việt Nam, vào thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa, lúc người Việt Quốc Gia còn nắm quyền điều hành xứ sở.

Xin đừng quên: Đúng buổi chiều Giáng Sinh 1964, Khủng Bố Việt cộng gài nổ xe bom tại Cư Xá Brink...


Mặc dù chinh chiến điêu linh, quê hương ngập tràn khói lửa, mỗi mùa Giáng Sinh về, cách riêng đối với người dân Sài Gòn, đã trở nên một dịp lễ hội đặc biệt. Tại trung tâm thủ đô, người ta tưng bừng bày bán thiệp Chúc Mừng Giáng Sinh và Năm Mới Dương Lịch khắp các vỉa hè, nhiều nhất là trên con đường Lê Lợi, còn gọi là Bonard. Từ thời thập niên 50, 60, những tấm thiệp thiết kế mỹ thuật, đa dạng, thường được in ấn tại ngoại quốc rồi nhập cảnh về, với nhiều màu sắc hình ảnh lung linh đã trở nên rất hấp dẫn đối với giới trẻ Sài Gòn. Đường Lê Lợi, cũng như đường Nguyễn Huệ và đường Tự Do thường không cho xe cộ lưu thông vào buổi chiều trước đêm Giáng Sinh. Cả khu vực như chỉ dành cho những người đi bộ vui chơi đêm Noel. Các quán cà phê đều đông đúc giới trẻ, vừa túm tụm nhâm nhi cà phê, vừa ngồi ngắm thiên hạ ngược xuôi.


Đúng buổi chiều Giáng Sinh 1964, Khủng Bố Việt cộng gài nổ xe bom tại Cư Xá Brinks này (nằm trên đường Hai Bà Trưng Quận 1 Sài Gòn) giết hại 2 binh sĩ Đồng Minh và nhiều thường dân Việt. Ngày nay, nơi này thành Park Hyatt Hotel.


Giáng Sinh 1965, binh sĩ VNCH và đồng minh tặng quà cho trẻ cô nhi một trại mồ côi của Công Giáo tại Xuân Lộc.

Chủ nhân các quán cà phê cũng thường trang trí với cây thông nho nhỏ đặt trên quầy và mở nhạc Noel. Xen lẫn những giai điệu Giáng Sinh rộn ràng của Âu Mỹ thế nào cũng có lẫn những nhạc phẩm về mùa Noel của các nhạc sĩ Việt. Không ít người Việt lớp cũ có lẽ vẫn còn nhớ những năm xưa Đài Phát Thanh Sài Gòn thường phát lại nhạc phẩm “Mùa Sao Sáng” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông qua giọng hát Giao Linh: “Một mùa sao sáng / đêm Noel Chúa sinh ra đời / người hẹn cùng tôi / ngày về khi đất nước yên vui…” Lời hát thường vang lên vào dạo đầu tháng 12, nửa như báo trước một mùa lễ lớn sắp về, nửa như nhắc nhớ hoàn cảnh loạn ly của xứ sở.

Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn chiều Noel 1964.


Binh sĩ Đồng Minh phát quà cho trẻ em Việt trong vùng chiến sự mùa Noel 1965.


Thời đó, tuổi trẻ nam giới không mấy người tránh được đời quân ngũ, làm bổn phận của người thanh niên, bảo vệ đồng bào, bảo vệ miền Nam Tự Do, khi quê hương đang lâm vào cơn nguy biến. Từng năm từng năm qua, hết động viên từng phần, và đến năm 1968 thì toàn phần Tổng Ðộng Viên. Với những chàng thư sinh phải xếp bút nghiên theo việc đao binh, thì cảnh “anh tiền tuyến, em hậu phương” cũng càng lúc càng thêm phổ biến. Có lẽ có phần từ thực tế này mà nảy sinh một dòng nhạc riêng biệt gọi là “Nhạc Giáng Sinh” qua tiếng hát của các ca sĩ thời thượng hồi đó như Thanh Lan, Thanh Thúy, Lệ Thu, Carol Kim... Nhạc Giáng Sinh Việt không rộn ràng như nhạc Noel Âu Mỹ, trái lại còn có thể ảm đạm, thậm chí buồn bã. Giai điệu lẫn ca từ ám ảnh nỗi buồn chiến tranh (những cuộc tình phân ly, những người tình cùng đi lễ nửa đêm, cùng quỳ thề nguyện trong giáo đường, những yêu nhau rồi lại xa nhau, v.v...)

Gót chinh nhân một chiều Noel 1966

Nữ lưu Việt Nam Cộng Hòa những ngày Noel cuối năm 1970.

Dòng nhạc Giáng Sinh hay những mùa Noel cũ dễ khơi gợi niềm luyến tiếc một thời Việt Nam Cộng Hoà cách chung và một thời tuổi trẻ rất riêng tư của không ít người Việt. Trong hơn 20 năm, dù gặp hoàn cảnh bất lợi, người Việt quốc gia đã kịp giúp xứ sở của mình thăng hoa: giáo dục khai phóng, xã hội năng động, cầu tiến chưa từng thấy. Bây giờ, gần nửa thế kỷ trôi qua, nhưng tâm lý... hoài cổ có lẽ càng khiến dòng nhạc Giáng Sinh, cũng như những kỷ niệm Giáng Sinh xa xưa của một thời chinh chiến càng thêm tha thiết. Xem lại những hình ảnh Sài Gòn xưa cũng có thể vừa để hoài niệm, vừa để trân quý một thời đại tốt đẹp mà những giá trị của nó chưa hẳn đã mai một qua thời gian.

Tạp chí LIFE ghi lại hình ảnh một người trai Việt thời loạn bắt tay binh sĩ Đồng Minh.


Một góc Sài Gòn mùa Noel 1972.


Thanh Dũng


__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

NGÀY CHÚA GIÁNG TRẦN CÙNG XEM MỘT CHUYỆN ....Chỉ Một nụ cười

$
0
0


    Đ..MẠ NÓ - TAU GIÀ RỒI CŨNG THẤY GAI MẮT - ĐI RỬA CHÂN, ĐI ĐÁI MÀ CŨNG LẬP BIA - ANH BẠN TRẺ SAU TAU THẤY CŨNG PHÁT ÓI - SAO KHÔNG ĐỐT  NHANG CÚNG NƯỚC ĐÁI CỦA BOÁC LUÔN CHO NÓ "QUÀNH TROÁNG" RI HẸ  !




NGÀY CHÚA GIÁNG TRẦN CÙNG XEM MỘT CHUYỆN TÙ CẢI TẠO MIỀN BẮC CS KHÁ CẢM ĐỘNG - 

Chỉ Một
nụ cười

Bửu Uyển
 Vào dịp cuối năm 1984, một buổi họp mặt các cựu tù nhân chính trị được tổ chức ở San Diego. Xướng ngôn viên của buổi lễ cho biết: “Khi tôi xướng tên trại nào, nếu quý anh là trại viên của trại đó, xin đứng dậy và tự giới thiệu tên của mình để các anh em khác được biết”. Nhiều trại cải tạo ở miền Bắc được lần lượt xướng tên như “Phong Quang”, “Yên Báy”, “Vĩnh Phú”, “Thanh Cẩm”, “Lý Bá Sơ”, “Nam Hà”, “Phú Sơn” v.v Trại nào cũng có năm bảy anh đứng dậy và giới thiệu tên của mình. Khi xướng tên trại Nam Hà, tôi đứng dậy và có thêm bốn anh nữa, trong đó có một anh, tự giới thiệu tên của mình là Lê Trung Đạo. Tôi lẫm nhẫm Lê Trung Đạo, Lê Trung Đạo…sao tên nghe quen quá, hình như anh ấy ở chung đội với tôi thì phải. Khi phần giới thiệu các anh em trại Nam Hà chấm dứt, tôi đi đến bàn của anh Đạo, đứng đối diện và nhìn kỹ anh ấy. Tôi nhận ra anh Đạo ngay. Tôi ôm chầm lấy anh, và anh ấy cũng ôm tôi trìu mến. 

Tôi thì thầm bên tai Đạo: “Em còn nhớ anh không?” Đạo trả lời ngay: “Anh Uyển, mà sao em có thể quên được, thật vui mừng được gặp lại anh... Em trông chờ ngày này đã lâu lắm rồi!
            Khi cùng sống trong cảnh đọa đày nơi trại Nam Hà, phân trại C, tôi và Đạo nằm gần nhau. Ra đồng, bắt được con cua, con cá, tôi và Đạo cùng chia sẻ với nhau. Đạo là một Thiếu Úy Cảnh Sát Đặc Biệt, mới ra trường, không biết làm Trưởng G hay H gì đó...mà bị đày ra cải tạo ở miền Bắc. Anh còn quá trẻ, khoảng 24, 25 tuổi. Tôi xem anh như một người em của tôi và tôi rất quý mến anh. Đạo chưa lập gia đình. Anh chỉ còn một mẹ già đang sống ở Vĩnh long. Vì vậy, từ ngày bị đưa ra Bắc, Đạo chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân từ trong Nam gởi cho anh. Anh sống hiền hòa, vui tính, nên anh em trong đội ai cũng mến anh. Đạo xem tôi như một người anh trong gia đình, anh tâm sự với tôi: “Đời em chẳng còn gì nữa, chỉ có một người mẹ, mà từ ngày bị đày ra Bắc, đã trên 5 năm rồi em chẳng có tin tức gì của mẹ em. Không biết bà còn sống hay đã ra người thiên cổ”.

            Đạo nắm tay tôi và cảm động nói: Giờ đây em chỉ có anh là người duy nhất thương mến em, cho em chút an ủi để sống qua ngày!
            Như có một động lực nào thúc đẩy, Đạo tâm sự với tôi: Anh ạ, mình phải sống chứ anh, mà muốn sống, dù là cuộc sống thấp nhất, cũng phải có một ước mơ gì đó để mà mộng tưởng, để tiếp sức cho mình. Các anh em ở đây, dĩ nhiên ai cũng mơ ước sớm được trở về với gia đình. Ngoài xã hội thì kẻ này mơ trúng số, kẻ kia mơ nhà cửa , ruộng vườn v.v. Nhưng sống nơi địa ngục trần gian này, anh em mình mơ ước điều gì đây? Tất cả đều nằm ngoài tầm tay của mình. Em chợt nhớ lại một câu chuyện cổ tích của Pháp, tựa đề là “Un Peu De Soleil Dans L’eau Froide” kể lại câu chuyện một ông lão nghèo khổ, sống cô đơn một mình trong căn lều nhỏ bé, trống trước, trống sau. Bổng một bà tiên hiện ra và cho ông một điều ước. Bà tiên cứ nghĩ, thế nào ông lão nghèo nàn này cũng sẽ ao ước có một căn nhà, hoặc ao ước có nhiều tiền bạc..v..v. Nhưng bà tiên vô cùng ngạc nhiên, khi ông lão nghèo khổ ấy chỉ xin “Một Nụ Cười”.
            Đạo như chợt tỉnh, ông lão bất hạnh trong câu chuyện cổ tích, đã chỉ cho Đạo một mơ ước, mà dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể đạt được, đó là một nụ cười. Không cần phải là nụ cười của giai nhân, mà chỉ cần một nụ cười thân ái của ai đó, chân thành trao cho anh, vì yêu mến anh, có thế thôi.
            Cuộc sống tù đày cứ kéo dài triền miên trong đói khổ, vô vọng. Nhưng khi nghĩ đến một nụ cười, Đạo thấy tâm hồn mình có chút an ủi, nhẹ nhàng. Hằng ngày, Đạo ước mơ nhận được nụ cười. Đêm đêm Đạo cũng ước mong trong giấc mơ, anh sẽ gặp được một nụ cười. Nhưng buồn thay, những giấc mơ đến với Đạo chỉ là những cơn ác mộng mà thôi.
            Nhưng thật kỳ diệu, từ ngày Đạo ôm ấp ước mơ có được một nụ cười, anh thấy cuộc đời của anh có chút ý nghĩa, vì dù sao anh cũng có một ước mơ, để mà thương, mà nhớ, mà mong chờ.
            Một hôm, đội được dẫn đi gặt lúa, khi đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo thấy nhiều chiếc áo vàng đứng ở đó. Nhìn lướt qua, Đạo chợt thấy một nữ cán bộ nhìn anh mỉm cười. Anh không tin ở mắt mình, anh nghĩ rằng có thể cô ta cười vu vơ gì đó, chứ đâu phải cười với anh. Anh quay lại nhìn một lần nữa, vẫn thấy cô ta nhìn anh và mỉm cười.
            Từ ngày ấy, mỗi khi đội đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo đều bắt gặp nụ cười của người nữ cán bộ dành cho anh... Vì vậy khi đi lao động, Đạo luôn luôn đi cuối hàng để dễ đón nhận nụ cười của cô nữ cán bộ. Đạo cũng cười đáp lễ với cô ta. Đạo bắt đầu thấy cuộc đời của mình, có một chút gì thi vị, đáng sống. Khi ăn, khi ngủ, nụ cười đó luôn luôn theo anh, cho anh niềm an ủi, và chút lạc quan để sống. Anh em trong đội đều biết mối tình mắt nhìn mắt và trao đổi nụ cười của Đạo và cô nữ cán bộ.
            Không những Đạo nhớ đến nụ cười, anh còn nhớ đến đôi mắt như muốn nói với anh muôn ngàn lời, anh nhớ đến người con gái ấy. Ban đầu anh nghĩ rằng cứ giã bộ vui vẻ cho qua ngày. Nhưng trong tâm trí anh, luôn luôn nhớ đến cô gái ấy và anh nhận ra rằng anh đã yêu cô ta. Đạo nhớ lại ngày xưa Elvis Presley đã hát một bài hát nỗi tiếng là bài Don’t Gamble With Love nay thật đúng như trường hợp của Đạo. Bây giờ Đạo không còn cho rằng lao động là khổ sai nữa, mà anh trông chờ mỗi buổi sáng được đi ngang qua cỗng cơ quan, để đón nhận nụ cười của người nữ cán bộ.
            Một buổi chiều khi đi lao động về, nghe các anh em Công Giáo tập hát bài “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, Đạo mới biết, đêm nay là đêm Noel. Khi cửa phòng giam đóng lại, anh em Công Giáo vội vã thiết trí một ngôi sao Giáng Sinh và hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh” ở vách tường cuối phòng. Họ nắm tay nhau ca hát, đọc kinh, cầu nguyện. Đạo nằm mơ màng, lơ đãng nhìn về cuối phòng, chung quanh hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh”, Đạo tưởng tượng như có những bóng đèn màu chớp sáng. Anh mơ hồ nghe như có tiếng nhạc bài Silent Night dịu dàng thoảng đi trong gió…Anh thiếp đi trong giấc ngủ yên lành.
   Vào một buổi sáng chúa nhật, chúng tôi được gọi ra sân để nhận quà của thân nhân từ trong Nam gởi ra. Thường thì 80 đến 90 phần trăm anh em đều nhận được quà. Riêng Đạo thì chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân. Nhưng thật bất ngờ, hôm nay cán bộ lại kêu tên Đạo lên nhận quà, ai cũng ngạc nhiên và mừng cho Đạo. Anh nhận một gói quà bình thường, nhưng cách gói quà, khác với những gói quà từ trong Nam gởi ra. Đạo sững sốt nhận gói quà, đem về phòng, cẩn thận mở ra. Một mãnh giấy nhỏ nằm trên những gói đồ ăn, anh đọc vội hàng chữTrìu mến gửi anh Đạo – Em: Kim Chi”. Với mấy chữ ngắn gọn đó, Đạo biết ai gởi cho anh món quà tình nghĩa này. Anh ôm gói quà vào lòng. Anh không ngờ người nữ cán bộ có nụ cười dễ thương đó, lại dám liều lĩnh gởi quà cho anh. Hai hàng nuớc mắt chảy dài xuống má, đây là những giọt nước mắt hạnh phúc mà từ lâu anh không hề có.
            Trại Nam hà, Phân trại C, nơi chúng tôi đang ở, phía sau là con đường làng. Trại chỉ ngăn cách với bên ngoài bởi những bụi tre thấp và hàng rào kẽm gai. Dân chúng đi ở ngoài, chúng tôi có thể thấy họ. Thường vào buổi chiều, sau khi ăn cơm xong, chúng tôi hay ra ngồi chơi ở sân sau đó, nhìn người qua lại. Một hôm, chúng tôi thấy cô cán bộ Chi đi lui, đi tới ở ngoài hàng rào, rồi thình lình quăng vào trong một cái gói nhỏ. Chúng tôi biết cô ấy gởi gì đó cho Đạo, chúng tôi mang vào cho anh. Đạo không biết Chi gởi gì cho anh, nhưng anh cảm động lắm. Anh em hiếu kỳ đứng quanh giường của của Đạo, để xem cô Chi đã gởi gì cho anh: đó là một gói xôi và một con gà vàng rộm. Đối với tù nhân, đói triền miên như chúng tôi, thì gói xôi gà này là cao lương mỹ vị bậc nhất trên thế gian này. Đạo rất hào phóng, anh chia đều xôi, gà cho tất cả 32 anh em trong đội, mỗi người được một muỗng xôi và chút ít thịt gà. Có người ăn ngay, nhưng cũng có vài anh em để đó, hít hít mùi thịt gà cho đỡ thèm.
            Đạo thấy thương Chi quá, vì yêu anh, nàng đã gan liều làm những việc như vậy, vì nếu bị phát giác, nàng ở tù như chơi. Đạo càng thương Chi khi nghĩ đến tương lai: một cán bộ công an yêu một sĩ quan cảnh sát ngụy...thì đời nào có thể sum họp được. Anh thở dài!
  Vào một sáng chúa nhật, một anh trật tự đến phòng chúng tôi, bảo anh Đạo chuẩn bị ra có người thăm nuôi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, vì từ bao năm nay, Đạo thuộc diện con mồ côi, chưa hề có ai gởi quà cho Đạo, nói gì đến chuyện thăm nuôi. Thế mà hôm nay, lại có người thân nào đó đến thăm Đạo. Chúng tôi mừng cho Đạo. Khoảng 9 giờ sáng, anh được cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi. Chúng tôi hồi hộp chờ Đạo trở vào để xem anh nhận được những quà gì của thân nhân đem đến.
            Nhưng chúng tôi chờ mãi…đã ba, bốn giờ chiều rồi, vẫn chưa thấy Đạo trở vô trại. Thường một trại viên được gặp mặt thân nhân khoảng 15, 20 phút, tối đa là nửa giờ. Thế mà, Đạo ra nhà thăm nuôi đã hơn bốn, năm tiếng rồi mà chưa thấy vô. Chúng tôi bắt đầu lo lắng cho Đạo, không biết chuyện gì đã xảy ra cho anh, lành hay dữ. Và từ đó, chúng tôi không còn biết tin tức gì về Đạo nữa.
            Hôm nay gặp lại Đạo, tôi đem chuyện ấy ra hỏi Đạo, anh đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:
“ Anh nhớ không, ngày chúa nhật hôm đó, em được dẫn ra nhà thăm nuôi, nói là có thân nhân đến thăm. Em vô cùng ngạc nhiên vì em đâu có thân nhân nào từ trong Nam có thể ra thăm em. Bước vào nhà thăm nuôi, em thấy Chi và một ông Thượng Tá công an ngồi ở đó. Chi vội vã đứng lên giới thiệu: “Đây là cậu Du của Chi, đang công tác ở tỉnh Thái Bình, em nhờ cậu ấy đến thăm anh.” Đạo bối rối nhìn Chi, nhìn ánh mắt, nụ cười của Chi. Chi mặc đồ công an, trên cổ áo có đeo quân hàm Thiếu Úy. Chi biết Đạo ngỡ ngàng, thắc mắc nên cô nói ngay: “Anh đừng lo, em bảo anh làm gì thì cứ làm theo, chớ có hỏi han gì hết”. Chi dẫn Đạo vào một căn nhà ở gần nhà thăm nuôi, nhà không có ai cả. Chi bảo tôi cởi bộ áo quần tù ra, và mặc ngay bộ đồ công an đã để sẵn ở đó; ngoài áo quần, có cả nón, cặp da và giấy chứng nhận đi công tác miền Nam. Tôi như trên trời rớt xuống, nhưng không có thì giờ để hỏi Chi, việc gì đang xảy đến cho tôi. Khi tôi đã mặc xong bộ đồ công an, Chi nhìn tôi mỉm cươì, rồi kéo tôi ra ngỏ, bảo tôi leo lên một chiếc xe Jeep nhà binh đậu sẵn ở đó., và chạy ra ga xe lửa Phủ Lý. Chi bảo tôi cứ ngồi trên xe, Chi vào mua vé xe lửa đi về Sàigòn. Khi đưa tôi lên xe lửa, Chi ân cần căn dặn: “Không nên về nhà, cũng đừng liên lạc với mẹ, mà tìm một người bà con nào đó ở tỉnh khác xin trú ngụ vài ngày, rồi tìm đường vượt biên. Tốt nhất là đi đường bộ qua ngã Campuchia”. Chi đưa cho tôi một gói giấy và nói: “Đây là ít tiền để anh tiêu dùng, nhớ là phải vượt biên ngay nhé!”. Chi cầm tay tôi và chân thành nói: “Em là vợ của anh, anh đừng quên em!”. Tôi ôm Chi vào lòng, nước mắt ràn rụa. Chi cũng khóc trên vai tôi. Xe lửa từ từ lăn bánh, hình ảnh Chi cô đơn đứng một mình trên sân ga, nhỏ dần, nhỏ dần... Tôi thấy nhiều lần Chi đưa tay lên lau nước mắt. Trong tim tôi, mối tình mà Chi dành cho tôi quá sâu đậm, đã chiếm trọn cuộc đời tôi. Tôi vỗ vỗ vào trái tim của mình “Đạo, Đạo, mày phải sống xứng đáng để đền ơn đáp nghĩa cho Chi nghe chưa”.
            Khi xe lửa dừng lại ở ga Bình triệu, Sàigòn, tôi không về nhà tôi ở Vĩnh Long, mà đến nhà dì tôi ở Cần Thơ xin trú ngụ. Chồng của dì tôi là một Đại úy Công Binh Việt Nam Cộng Hòa, trước năm 1975, ông phục vụ ở Tiểu Đoàn 24 Công Binh Kiến Tạo, mới được trả tự do. Gia đình dì, dượng tôi đang âm thầm chuẩn bị vượt biên. Dì, dượng tôi vui vẻ chấp thuận cho tôi cùng đi theo. Tôi đã đưa gói tiền mà Chi trao cho tôi, cho dì tôi để bà tiêu dùng. Mở gói ra xem, dì bảo tôi: “Tiền đâu mà cháu có nhiều vậy?” Tôi trả lời ngay: “Của vợ con cho đó!”
            Vào một đêm tối trời, ghe máy chở cả nhà ra cửa biển Đại Ngãi, vì tàu lớn đang đậu ở đó. Sau 3 ngày và 4 đêm, tàu của chúng tôi đã đến hải phận Thái Lan, được tàu tuần duyên của Thái Lan đưa về trại Sikiew. Trong cuộc phỏng vấn thanh lọc, nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc hỏi tôi rất ít. Tôi nghĩ là họ có đầy đủ hồ sơ cá nhân của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ chỉ hỏi tôi là làm Trưởng G hay Trưởng H, tôi trả lời. Người nhân viên đó lấy trong tập hồ sơ ra một tấm ảnh, anh nhìn tôi rồi gật đầu. Thế là tôi vượt qua cuộc thanh lọc. Mấy tháng sau, họ chuyển tôi qua trại Pulau Bidong ở Mã Lai, để chờ chuyến bay đi định cư ở Mỹ.
            Tôi mau chóng gởi thư cho má tôi ở Vĩnh Long, báo tin tôi đã bình yên đến trại Pulau Bidong ở Mã Lai, đang chờ chuyến bay để đi định cư ở Mỹ. Khoảng 2 tuần sau, tôi vui mừng nhận được thư hồi âm của má tôi, và một bất ngờ thú vị đến với tôi là có cả thư của Chi nữa! Má tôi đã viết cho tôi: “Đạo con, má rất vui mừng nhận được tin con đã đến nơi bình yên. Má cho con biết là Chi đang ở đây với má. Chi đã kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất hạnh phúc có được một con dâu hiếu thảo như Chi, má mừng cho con”.
            Đạo run run mở thư của Chi ra đọc: “Anh Đạo yêu quí của em, nghe anh đã đến đảo và đang chờ chuyến bay để đi Mỹ, má và em mừng quá anh ơi. Khi anh đi về Nam chưa đầy một tháng, họ đuổi em ra khỏi ngành công an. Em đã về Vĩnh Long ở với má, em thay anh phụng dưỡng, săn sóc má, anh yên tâm!
            Với lời lẽ chân tình, mộc mạc, tôi uống từng chữ, từng lời trong bức thư ngắn gọn của Chi, tôi áp bức thư vào ngực và đi vào giấc ngủ.
            Năm 1982, tôi được đi định cư ở Mỹ. Khi có thẻ xanh, tôi đã làm hồ sơ bảo lãnh Chi. Trong thời gian ở với má tôi ở Vĩnh Long, không biết Chi hỏi thủ tục bảo lãnh ở đâu mà nàng ra Thái Bình, nhờ người cậu Thượng Tá Công An của nàng, làm một giấy hôn thú của tôi và Chi, có đầy đủ chữ ký và khuôn dấu đỏ xác nhận của chính quyền địa phương...
            Năm 1987 khi tôi được nhập quốc tịch Mỹ, tôi đã bổ túc hồ sơ bảo lãnh. Chi đã nhanh chóng được phỏng vấn. Lúc này, những trường hợp gian dối chưa xảy ra nhiều, nên việc chấp thuận cho chồng bảo lãnh vợ tương đối dễ dàng nếu có đầy đủ giấy tờ chứng minh.
            Vào một ngày se lạnh ở miền Nam Cali, tôi và vài bạn bè thân quen đến đón Chi ở phi trường Los Angeles. Tôi ôm Chi vào lòng, vì quá cảm động, tôi chỉ thốt lên được một tiếng “Em!” Chi cũng vậy, nàng thổn thức trên vai tôi “Anh!”. Chỉ 2 tiếng “Anh” “Em”, nhưng đã gói trọn cuộc tình mà chúng tôi nghĩ là không bao giờ có thể sum họp được. Tạ ơn Trời Đất!  
            Đạo xây qua người đàn bà ngồi bên cạnh anh, và giới thiệu với tôi: Thưa anh, đây là Chi, vợ em Chi bẽn lẽn cúi đầu, che dấu nụ cười đã đem lại sức sống và hạnh phúc cho Đạo.
            Tôi đã được nghe, được biết nhiều mối tình ly kỳ, éo le lắm. Nhưng nếu nói đến một mối tình thật lãng mạn, mà người con gái đã dám hy sinh sự nghiệp và cả tính mạng mình cho người yêu, thì không thể không nói đến mối tình của nàng Kim Chi và chàng Trung Đạo. 
Bửu Uyển
Tháng 6-2016


__._,_.___

Posted by: Thekhiem Tran

Báo Đối Lực #181 đã xuất bản

$
0
0


----- Forwarded Message -----
From: L. Nguyen <>
Sent: Sunday, December 24, 2017, 10:46:28 AM EST
Subject: RE: LÊN LƯỚI SỐ ĐỐI LỰC 181 THÁNG 12/2017 (SỐ GIÁNG SINH TỜ ĐL)





Thưa Độc Giả & Đồng Bào trong ngoài nước:

Báo
Đối Lực #181đã xuất bản được 4, 5 ngày; nhưng Chủ Nhiệm phải lo việc phát hành và chuyển báo đi các nước (Canada, Hoa Kỳ, Âu Châu) nên việc lên lưới bị chậm trễ. Hơn nữa, mấy ngày qua Toronto bị bão tuyết nên một vài nơi như Phố Tàu Đông, Vaughan tòa soạn vẫn chưa phát hành được. Ngày 24-12-2017, tòa soạn sẽ cố gắng phát nốt các nơi còn lại để kịp Lễ Giáng Sinh ngày 25-12-2017. Báo đã được gửi cho qúy vị có tên trong mailing list trong 2 đợt chuyển báo ngày 20 và 21/12. Do theo tình hình bưu điện Canada trong kỳ Lễ Giáng Sinh này với sự bân rộn thư tín, có thể báo không đến được cho qúy vị ở Canada trong hai ngày như thường lệ; và như thế phải Thứ Tư tuần tới bưu điện Canada mới làm việc trở lại và qúy vị mới nhận được báọ Qúy vị ở Hoa Kỳ phải cuối tuần sau, và ở Âu Châu phải lâu hơn nữa.

Ác đảng và tay sai đánh phá khốc liệt Phong Trào Hiến Chương 2000 mục đích là tiêu diệt Phong Trào; chẳng những trên mặt trận truyền thông điện toán (chúng đánh sập tất cả các địa chỉ email lên lưới của Diễn Đàn
Vietmarketing khiến chúng tôi không thể lên lưới bài được, phải nhờ các chiến sĩ chống Cộng bên ngoài), báo KTTT và ĐL phát hành ra chúng cho người đi thu, không để cho báo được phổ biến, chúng tôi đang nhờ pháp luật để đối phó với hành động bất hợp pháp này; còn Đại Lễ Kỷ Niệm 17 Năm Hiến Chương 2000 chúng dùng ảnh hưởng đối với các  doanh nghiệp hoặc cơ sở thương mại để áp lực các cơ sở này không tiếp tay hoặc tham dự Đại Lễ, khiến cho BTC phải chịu tổn thất khoảng 20%. Chúng còn mua chuộc cả những kẻ nằm trong hệ thống báo KTTT và ĐL để làm sai lệch các phần layout nguy hiểm cho chúng, và có khi chúng tôi vì deadline in báo không kiểm soát kịp thì báo in ra sẽ có 1, 2 chổ sai lạc, không đúng với cái mà tác giả đã làm ra (ví dụ Phúc Trình Hình Ảnh Đại Lễ Kỷ Niệm 17 Năm Hiến Chương 2000 kỳ này, đã bị đổi 1 hình quan trọng, chúng tôi sẽ có ghi chú khi lên lưới bài đó). Bọn Cộng Phỉ và tay sai HHHG vận dụng thiên hình vạn trạng để đánh phá Phong Trào Hiến Chương 2000 mục đích làm cho Phong Trào sụp đổ hoặc bỏ cuộc. Nhưng chúng quên rằng đây là các CHIẾN SĨ QUYẾT TỬ VỚI CS, đã từng HỨA TRƯỚC LINH SÀNG của cố Sĩ Phu NGUYỄN CAO HÁCH -- nhà ái quốc lớn của VN thế kỷ 20, nhà lãnh đạo BIỂU TƯỢNG của Phong Trào Hiến Chương 2000 -- hôm 1/10/2011 trước Lễ Di Quan của Người tại San Diego là sẽ tiếp nối con đường TIÊU DIỆT CỘNG SẢN -- QUANG PHỤC VIỆT NAM & XÂY DỰNG MỘT ĐẤT NƯỚC VN MỚI: DÂN CHỦ - TIẾN BỘ - HÙNG CƯỜNG, nên không thể nào có chuyện BỎ CUỘC, mà Ban Lãnh Đạo Phong Trào cương quyết sẽ đi đến cùng trên con đường TIÊU DIỆT CỘNG SẢN... Các hành động hạ cấp, đê tiện, chuyên đánh dưới thắt lưng của chúng chỉ càng nung nấu ý chí TIÊU DIỆT CỘNG SẢN của nhóm chủ trương mà thôi!

Năm 2018, Ban Lãnh Đạo sẽ nhận vào Phong Trào nhiều chiến sĩ quyết tử với CS (các nhà chính luận, thơ văn và chuyên viên điện toán v.v.) để vận động 1 phong trào
ĐỨNG LÊN TẠI VN hầu có thể CHẤM DỨT CS, từ nay cho đến năm 2020. Chúng HÀNH ĐỘNG HẠ CẤP đối với những người có lòng trong nước và người hải ngoại thì chúng phải trả giá thôi! Không thể nào chấp nhận CS tồn tại được, và những kẻ HHHG với VC cũng chỉ là những kẻ BÁN NƯỚC! Đồng bào cần lưu ý điều nàỵ

Vì vấn đề số trang hạn chế, 95% số bài của các tác giả gửi đến cho số Giáng Sinh Đối Lực 181 đều đã phải để lại, kể cả các bài của các Diễn Giả ĐẶNG QUANG CHÍNH và HOÀNG HÀ, chỉ có bài của 3 Diễn Giả sau là đi trong số này: TS NGUYỄN BÁ LONG, Kỹ Sư NGUYỄN TRUNG HIẾU (Hội Trưởng GH PGHH Toronto) và Nữ Sĩ DƯ THỊ DIỄM BUỒN (Đồng Giải Nhất Giải Năm Đinh Dậu 2017). Tòa soạn phải đăng các bài trúng Giải cao, mà nội 1 bài của tác giả TRẦN THẾ THI (hạng Nhì) đã chiếm hơn 1/3 số báo, đăng 2 bài trúng Giải là gần hết tờ báọ Mà không đăng hoặc đăng một nửa cũng không được; vì các bài này cần phải được đăng hết mới trọn ý, nhất là bài Giải Nhì của Trần Thế Thi: "365 Tờ Lịch Tố Cáo Đảng CSVN": buộc phải đăng hết! Chỉ có vài bài ngắn khoảng 1/2 trang đến 1 trang các tác giả  gửi đã lâu là chúng tôi ráng nhét vào chổ trống, dùng size chữ nhỏ (bài của Hoàng Xuân Thảo, Đại Dương và mấy bài thơ của DTDB (bài trúng Giải của DTDB cũng đã phải để lại, kỳ sau đăng. Duy nhất có 1 bài của David Kilgour gửi từ lâu, đầu tháng 11, phát biểu tại 1 Conference ở Paris, nếu không đăng kỳ này là phải bỏ luôn, nên buộc phải ráng đăng với chữ cực nhỏ

Kỳ này bài tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Việt, Phân Ưu, Cáo Phó cái nào cũng nhiều, mà không có trang, thành ra CÁO PHÓ & PHÂN ƯU cho Mẹ anh ĐẶNG QUANG CHÍNH phải đưa vào 1 trang, để tiết kiệm 1 trang đăng bài, chuyện chưa từng xảy ra trên hệ thống KTTT & ĐL. Và các bài tiếng Anh, tiếng Pháp kỳ này dù ngắn, cũng không có phần chuyển ngữ tiếng Việt như thường lệ vì không còn trang nữạ Xin qúy tác giả Anh và Phap ngữ thông cảm và qúy bạn đọc ráng theo dõi nguyên tác.

Toà soạn tiên đoán là với số lượng bài tồn đọng từ ĐL 181, số KTTT 109 Tết Mậu Tuất 2018 cũng sẽ không kham nổi, và tòa soạn sẽ chọn đăng trên KTTT 109 trên căn bản thời tính: những bài sẽ được đăng trên KTTT 109 sẽ là những bài mà nếu không được đăng liền, sẽ phải bỏ luôn, như bài "Tóm tắt tình hình năm 2017 & Dự phóng cho Năm 2018". Kỳ tới chúng tôi sẽ đăng bài đó, vì tác giả đã đem nhiều công phu viết ra nó, không thể bỏ đị

Tình hình của Phong Trào Hiến Chương 2000 rất khắc nghiệt, vì ác đảng và HHHG đem toàn lực TIÊU DIỆT PHONG TRÀO, trên tất cả các mặt trận, kể cả xâm nhập vào hệ thống làm việc của chúng tôi để làm cho Xuất lượng (output) của chúng tôi bị hỏng. Đối phó với toàn bộ hệ thống của ác đảng và HHHG thực là kinh khủng, bởi vậy xin đồng bào và những vị hỗ trợ thông cảm. Chỉ biết là
chúng tôi KHÔNG BAO GIỜ BỎ CUỘC là được.

Sau đây là nội dung lên lưới kỳ này:

PHẦN I: ĐẠI LỄ KỶ NIỆM 17 NĂM HIẾN CHƯƠNG 2000


    - Phát biểu Khai Mạc và Mở Mặt Trận về VN của TS NGUYỄN BÁ LONG, cùng với Công Bố Kết Quả Giải Năm Đinh Dậu 2017

    - Phát biểu của KS NGUYỄN TRUNG HIẾU -- Hội Trưởng GH PGHH Toronto -- nhân Đại Diện Gia Đình cố Tín Đồ PGHH NGUYỄN HỮU TẤN, nhận GIẢI NHẤT cho anh, qua chiến dịch KHỦNG BỐ đầu tháng 5-2017 của bạo quyền: anh bị CSVN CẮT CỔ ngày 3/5/2017 tại Đồn Công An Vĩnh Long

    - Tâm Sự của Nữ Sĩ DƯ THỊ DIỄM BUỒN, nhân nhận GIẢI NHẤT Phần Thơ Văn tối 25/11/2017 tại Đại Lễ Kỷ Niệm 17 Năm Hiến Chương 2000

    - Editorial: Some points of Dr. Long Ba Nguyen's address on celebration of the Charter 2000 Movement's 17th Anniversary Ceremony on Nov. 25, 2017 in Toronto

    - Phúc trình Hình ảnh Đại Lễ Kỷ Niệm 17 Năm Hiến Chương 2000

    - Phúc trình Tài Chánh

    - Phúc trình Phát Giải Hiện Kim

PHẦN II: CÁC CÔNG TRÌNH TRÚNG GIẢI

    - Các Bản Tuyên Dương Anh/Việt GIẢI NHẤT & GIẢI NHÌ

    - TRẦN THẾ THI (Giải Nhì): 365 Tờ Lịch Tố Cáo Đảng CSVN (công trình
TRIỆT ĐỂđối vo*'i Đảng CSVN về mặt TỘI ÁC của Đảng này, dài 14 trang)

    - THÀNH TÔN (Giải Đặc Biệt I): Từ vụ án Mật Vụ CSVN BẮT CÓC  TRỊNH XUÂN THANH & những điều bộc lộ: những hậu qủa gì sẽ đến cho bạo quyền CSVN...?

    - TRẦN ĐỨC THẠCH (Giải Ba): Ghi Danh & Với câu hỏi của Tương lai (Thơ)

    - ĐẶNG QUANG CHÍNH (Giải Đặc Biệt II): Tôi Yêu Số Không

    - TRÚC LANG OKC (Giải Đặc Biệt III): Em là aỉ (Thơ)

    - TRẦN VIÊN BÁCH (Giải Đặc Biệt III): Tượng Đài Nghìn Tỉ (Thơ)

PHẦN III: CHÍNH TRỊ - KINH TẾ - XÃ HỘI: QUỐC TẾ & VN

    - Hon DAVID KILGOUR, J.D.: Communism in the contemporary world - The Case of China

    - Prof. LE MONG NGUYEN: "De la politique pure": De Bertrand de Jouvenel (Calmann-Lévy, 1963).

    - ĐẠI DƯƠNG: CSVN tham thâm, lận mạt...

    - QH Âu Châu đòi CSVN trả tự do cho các nhà báo công dân (RFA)

PHẦN IV: SÁNG TÁC VĂN NGHỆ MÙA GIÁNG SINH


    - Giáng Sinh nơi Vùng Xa (DTDB)

    - Mẹ Qua Đời (thơ ĐẶNG QUANG CHÍNH)

    - Một chuyến đi xa (DTDB)

    - Mổ Mắt Như Mù (HOÀNG XUÂN THẢO)

    - Giới thiệu sách Trường VBQGVN theo dòng lịch sử

    - Thơ của THÍCH TUỆ MINH (Quê Tôi), DTDB (Nói với con, Tượng Tiếc Thương)

PHẦN V: CỘNG ĐỒNG

    - CÁO PHÓ của Gia Đình anh Đặng Quang Chính về bà NGUYỄN THỊ ĐÊ (Thân Mẫu) qua đời.

    - PHÂN ƯU của Phong Trào Hiến Chương 2000 với anh ĐẶNG QUANG CHÍNH và Tang Quyến


* * *


Để đặt mua báo dài hạn, xin qúy vị gửi cheque, money order hoặc tiền
mặt (số nhỏ bỏ trong phòng bì) theo gía biểu:

- Canada: $CAN 50.00/năm
- Hoa Kỳ: $US 50/năm
- Hải ngoại: $Eu 70/năm
đề trả cho:
L. NGUYEN (Publ.)
142 - 4975 Southampton Drive
Mississauga, Ontario L5M 8C8
Canada

Điện thoại Cell: 647-296-3133
Địa chỉ Email:vietmarketing3@gmail.comva`thitruong@teksavvy.com

Xin cám ơn sự yểm trợ của qúy vị\


Khi thế giới vươn mình thức dậy
Đâu hỡi người Tuổi Trẻ Việt Nam?
Những Phù Đổng Thiên Vương thuở ấy
Có nghe chăng cả nước cơ hàn?

Chiến Sĩ Nhân Quyền kiêm Nhà Thơ Nguyễn Dật Lĩnh
__._,_.___

Posted by: Alex Tran

100 năm trước, điều kỳ diệu xảy ra trong đêm Giáng sinh đất người, 50 năm trước, điều dã man xảy tại đêm Tết Mậu Thân đất Việt ta !

$
0
0
2017-12-28 1:48 GMT-05:00 'Patrick Willay'>:
 

2017-12-27 : Chuyện Tình Quê Hương : Yêu Chuyện Người, Buồn chuyện Ta :

100 năm trước, điều kỳ diệu xảy ra trong đêm Giáng sinh đất người,
50 năm trước, điều dã man xảy tại đêm Tết Mậu Thân đất Việt ta !

Hưu chiến đêm Noël 1914 tại chiến hào Pháp Đức
Tàn sát Tết Mậu Thân 1968 tại Huế Việt Nam
Hai cuộc chiến, Hai ngày lễ
Hai văn hóa ! Hai văn minh !  

TS.Phan Văn Song  

  


Thứ bảy tuần trước, trên mạng Hoa Tự Do, mục Văn Hóa cho đăng một bài viết về một sự kiện hy hữu đã xảy trong một thời kỳ đen tối nhứt của lịc sử âu châu cách đây trên 100 năm, tạo sự chú ý cho chúng tôi. Chúng tôi xin phép tác giả Thuần Dương và chủ nhiệm diễn đàn Hoa Tự Do, được trích những đoạn của bài viết, đôi lời thành thật cảm ơn quý vị tác giả, và chủ nhiệm Hoa Tự Do.

1/ 100 năm trước, Giáng Sanh 24 tháng 12, 1914, văn hóa người :

Nhơn dịp hôm nay là ngày 27 tháng 12, 2017, sau lễ Giáng sanh 3 ngày, người viết chúng tôi xin được chia sẻ cùng quý thân hữu vài suy nghĩ về sự kiện nầy, tuy đã xảy ra vào dịp Noël, ở đất người trong một cuộc chiến được xem là đẩm máu nhứt của lịch sử của âu châu. Sở dĩ ngày 27 vì chúng tôi muốn kỷ niệm ngày 27 tháng 12 năm 1914, cách đây trên 100 năm, hiện tượng hiếm có đó, được những tờ báo của Anh và Mỹ đưa tin. Tờ The Daily Telegraph cho đăng một bài viết vào ngày 27 tháng 12 năm 1914, về việc quân đội Đức và liên quân Anh-Pháp, đối mặt tàn sát nhau, vừa ngày hôm trước, lại tự động đồng lòng ngưng bắn, cùng nhau hưu chiến, chẳng những đêm 24 tháng 12 năm 1914, đêm thánh thiện Giáng Sanh, rồi cả ngày 25 ngày Noël nữa, rồi cùng nhau ca hát, trao đổi quà tặng, bánh sô cô la và thuốc lá. Tờ New York Times cũng đưa cái tin của cái đêm giao thừa và ngày Noël năm ấy. Sau đó, các tờ báo của Anh như Mirror hay Sketch cuối cùng cũng đăng ảnh về những chiến sĩ đứng lẫn với nhau trên chiến tuyến ở trên trang nhứt tạp chí của mình..

Hiện tượng hy hữu nầy, xảy ra tại những chiến hào, ngay tạimột điểm nóng giằng co ác liệt giữa liên quân Anh – Pháp và quân đội Đức, nơi người ta không thể biết được liệu ngày mai mình còn sống hay không, câu hỏi bao giờ được về nhà như hòn đá ném xuống vực sâu không hồi đáp, ở nơi đó, liệu có thể có phép màu? Thế nhưng cuộc sống luôn có chỗ cho những điều kỳ diệu. Vào đêm Noël năm 1914, sau nhiều ngày giao tranh dữ dội giữa giá rét của mùa đông phương Bắc. Bất chấp những làn bom rơi, đạn nổ, những tiếng gào thét thê lương, những thân người đổ gục vô hồn… đêm Giáng Sanh vẫn phải được tưởng nhớ và chào đón. Binh lính của ba nước âm thầm tổ chức lễ Noel ngay dưới chiến hào của mình. Không có gà tây, không có bếp hồng hay món tráng miệng ngọt lịm, không cả lời chúc tụng mà chỉ có những lời cầu nguyện cho sự yên bình và sự sống.

Đêm Giáng Sanh 24 tháng 12 năm 1914, giữa sự tịch mịch hiếm hoi của địa ngục trần gian, nơi diễn ra trận chiến khốc liệt của Thế chiến I, một tiếng hát vút lên không gian, và tiếp theo sau đó là một trang sử sáng ngời giữa lịch sử tối tăm của chiến tranh đã được viết nên.
Một binh sĩ người Đức, Nikolaus Sprink, vốn là một nam ca sĩ opera tài danh bị triệu tập đi lính, bỗng cất tiếng hát vang « Đêm Thánh Vô cùng – O Silent Night-Holly Night... » giữa chiến trường. Và bắt đầu, một thời khắc đi vào lịch sử. Và trong đêm tịch mịch đó, Silent Night-Holly Night – bài hát Giáng sanh nổi tiếng nhất mọi thời đại, từ phía chiến hào của người Đức, cất lên văng vẳng, cao vút. Người Anh và người Pháp ngừng cụng ly và xì xầm, không gian và thời gian như bất động.Như được đánh thức sau cơn mê, một viên sĩ quan binh đoàn Scotland của quân đội Hoàng gia Anh bất ngờ chộp lấy cây kèn túi-cornemuse, thổi lên điệu nhạc du dương hòa cùng giọng ca bên kia chiến tuyến. Nikolaus vốn chỉ đang trổ chút tài nghệ phục vụ những đồng đội của mình, ngỡ ngàng trước màn hồi đáp đầy chất thơ, đã hứng khởi quên cả hiểm nguy, bước ra khỏi chiến hào, tay cầm cành thông vừa đi vừa hát bất chấp sự can ngăn của vị chỉ huy. Bài ca vừa dứt, anh lập tức nhận được những tràng pháo tay vang dội của những người lính từ… cả hai chiến hào..
Đó là một phần nội dung của bộ phim « Joyeux Noel » do Pháp sản xuất với sự hợp tác của Anh, Đức. Bộ phim từng nhận được đề cử cho giải Phim nước ngoài xuất sắc nhất tại Oscar 2006, Quả cầu vàng, BAFTA 2006… Đó không phải chỉ là một bộ phim lấy đề tài chiến tranh.Mà nó dựa trên một sự kiện hoàn toàn có thật trong Thế chiến I..
trong suốt hơn 100 năm sau, sự kiện này đã được xem như là một phép lạ, giây phút đình chiến hiếm hoi trong cuộc chiến từng cướp đi sanh mạng của hơn 15 triệu người.
Người ta cũng ghi nhận thêm rằng, qua sáng ngày 25 tháng 12, ở một số đoạn trên chiến hào, lính Đức đã bước lên và hô to “Chúc mừng Giáng Sanh” bằng tiếng Anh. Binh sĩ đồng minh cũng thận trọng tiến ra chào đón họ. Người Đức nhanh chóng giơ tay ra hiệu “Bạn không bắn, chúng tôi cũng không bắn”. Binh sĩ hai bên trao đổi những quà tặng như thuốc lá, thực phẩm và mũ. Đồng thời họ có thời gian yên bình để chôn cất những những đồng đội thiệt mạng trong nhiều tuần trước đó của mình. Ở một nơi sanh tử không có giới hạn, đến một nấm mồ tươm tất và một buổi lễ tiễn đưa ấm áp không thể diễn ra trọn vẹn, thì khoảng thời gian đình chiến hiếm hoi đó, chính là dịp, để người ta dành cho những người đã khuất những điều ý nghĩa cuối cùng.
2/ 50 năm trước, Tết Mậu Thân, 30 tháng giêng 1968, văn hóa thú :
Sự kiện Quân đội Việt Cộng thảm sát dân lành ở Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968, đến năm nay, với Tết Mậu Tuất 2018, tròn trèn đã  50 năm. 
Như quý thân hữu và đọc giả đã thấy như trên vào dịp lễ Giáng Sanh xứ người 100 năm trước, hai phe thù địch ngưng chiến cùng nhau hát thánh ca, trao đổi lời chúc tụng và tặng quà kỷ niệm nhau, trên chiến tuyến cạnh những địa đạo chiến hào. Trái lại với lễ Tết xứ ta, 50 năm trước, mặc dù đã  hẹn nhau giữ truyền thống quê hương là mọi sanh hoạt xã hội phải ngưng lại, huống chi là chiến tranh, nên phải hưu chiến trong ba ngày linh thiêng của dân tộc là ba ngày Tết cổ truyền thờ cúng tổ tiên, thăm viếng sum họp gia đình. Lại thêm «  Trong những ngày trước cuộc tấn công, quân đồng minh nới lỏng phòng thủ. Phe Bắc Việt (cũng) tuyên bố ngưng chiến vài dịp Tết (Mậu Thân) từ ngày 27 tháng giếng đến ngày 3 tháng hai 1968 » - (Wikipédia en français « L'offensive du Tết ...  Dans les jours précédant l'offensive, les alliés se relâchent. Le Nord-Viêt Nam annonce une trêve pour le Têt, soit du 27 janvier au 3 février 1968)
Sự Kiện :
Đúng nửa đêm ngày 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968, thừa quân đội đồng minh và đặc biệt quân cán chánh của Việt Nam Cộng Hòa được nghỉ phép về gia đình « ăn Tết » ; quân đội Cộng sản Bắc Việt và quân Việt Cộng ẩn nấp ở miền Nam Việt Nam cùng lúc tấn công bất thình lình tại nhiều thành phố và địa phương trên toàn lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa - trong đó có Sài gòn và Huế. Với một tổng số vào khoảng 84 000 quân cộng sản Bắc Việt cùng với hàng ngàn du kích địa phương nằm vùng, đồng loạt nổi dậy, tiền pháo binh và súng cối, hậu xung, tấn công các phi trường, các cơ sở quân sự quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cùng 64 khu quân sự các thành phố là làng xã.
Sau các thành công quân sự ban đầu, họ bị quân dân cán chánh của quân lực  Việt Nam Cộng Hòa áp đảo và đẩy lui khắp nơi, trừ Huế. Trong mọi tình huống, quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cùng với các đơn vị địa phương quân và cảnh sát tử thủ đã đẩy lui liên quân cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng.  Trừ Huế, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tuy ở thế bị động, hoàn toàn phòng thủ, nhưng dưới quyền chỉ huy của Tướng Ngô Quang Trưởng, nên vẫn giữ vững được phòng tuyến. Thế nhưng một phần lớn thành phố vẫn bị chiếm bởi quân Việt Cộng. Cuộc chiến dằn co đẩm máu suốt 28 ngày. Theo thống kê đồng minh Mỹ-Việt, quân Cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng nằm vùng đã bỏ lại khoảng trên dưới 5 000 cán binh vừa chết, vừa bị thương, chỉ độ 100 tên bị bắt hay đầu hàng thôi. Phía đồng minh 216 tử thương, 1609 bị thương, riêng quân lực Việt Nam Cộng Hòa 421 quân nhơn đã hy sanh vì Tổ quốc, 2 123 bị thương và 31 người mất tích.
Trái lại, trên 5800 thường dân vừa thiệt mạng và bị thương, 116 000 mất nhà mất cửa mất cả tài sản trên tổng số dân Huế là 140 000 người
Và … Sau khi thành phố vừa lấy lại, người ta tìm thấy những hố chôn tập thể với 2800 xác chết.   (Nguồn Wikipédia Pháp)
Số liệu về các hố chôn tập thể :
Trong những tháng và những năm tiếp theo, bắt đầu từ ngày 31 tháng 1 năm 1968, và kéo dài tổng cộng 26 ngày, hàng chục ngôi mộ tập thể được phát hiện trong và xung quanh Huế. Nạn nhơn bao gồm phụ nữ, nam giới, trẻ em và trẻ sơ sinh.
Theo Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên, trong 22 địa điểm tìm được các mồ chôn tập thể, người ta đếm được 2,326 sọ người. Sau Tết, các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4,000 gia đình. Chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa, đưa ra danh sách 4.062 nạn nhân được họ xác định là đã bị bắt cóc hoặc bị giết. Theo các báo cáo của Việt Nam Cộng Hòa, nhiều thi thể được tìm thấy ở tư thế bị trói buộc, bị tra tấn và có khi bị chôn sống.(Wikipédia Việt Ngữ)

Tại sao thành phố Huế ? Vì chiến lược
? Vì qu báo Pht t xung đường năm 1963
?
:
Ở thành phố ngày diễn ra trận chiến dài và đẩm máu nhứt của cuộc Tấn công Việt Cộng ngày Tết Mậu Thân 1968.
Thành phố Huế, nằm ngang đường quốc lộ 1, nằm 1,2 cây số cách biển Đông và 100 cây số phía Nam giới tuyến Bắc (vĩ tuyến 17) của Việt Nam Cộng Hòa.. Huế là thủ phủ của tỉnh Thừa Thiên, là thành phố lớn thứ ba của Việt Nam Cộng Hòa, với 140 000 cư dân.Và Huế cũng là cố đô của triều đình Nhà Nguyễn, là trung tâm văn hóa của miền Trung của toàn đất nước.. 
Cho mãi đến năm 1968, Huế vẫn là nơi được xem là khá an toàn, dù là nằm trên một trục lộ thông thương Nam Bắc. Huế thật sự được chia làm hai thành phố bổ trí theo Sông Hương cắt theo hướng Đông-Nam Tây-Bắc. 2/3 dân chúng sống ở phía bờ Bắc của Sông Hương, (Hữu ngạn – theo cái nhìn á đông- từ cửa biển lên nguồn – âu mỹ nhìn từ nguồn xuống biển) bao bọc ngoài và trong Cổ Thành, với các vườn xưa, chùa xưa, hố đào, nhà cửa xưa, và, với cạnh sát bờ thành, là phu phố cổ Gia Hội, chằnh chịt nhà xưa, ngỏ hẹp.
Phía bờ Nam Sông Hương (Tả ngạn), bên kia cầu Nguyễn Hoàng, là thành phố mới, thành phố Tây, với một diện tích 50 % nhỏ hơn Cổ Thành, và với 1/3 cư dân còn lại. Ở đấy, gồm có nhà thương, nhà giam, nhà thờ thiên chúa giáo La mã - Phú cam, và những cơ quan công quyền với những địa ốc tân thời như Tòa Lãnh sự Mỹ, Viện Đại học, và nhiều cư xá các viên chức…

Bộ tham mưu sư đoàn 1 của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đóng ở mạn Đông Bắc Cổ Thành Huế, với những công sự chiến đấu nhưng phần đông được bố trí dọc theo quốc lộ 1 về hướng Quảng Trị. Đơn vị gần nhứt Huế là Trung đoàn 3 với ba tiểu đoàn nằm cách Huế khoảng 4 cây số mạn Tây Bắc. Đơn vị duy nhứt có mặt trong thành phố là một Đại đội « Hắc Báo », gồm các binh sĩ thiện chiến, chuyên ngành thám sát hay phản chiến trả đủa nhanh chóng. Riêng phần an ninh thành phố thuộc quyền của Cảnh sát quốc gia. 
Hiện diện của Huê kỳ và quân đội Mỹ, khi cuộc chiến bắt đầu, chỉ với sự có mặt của 200 quân nhơn của thuộc cơ quan cố vấn MACV gồm 200 quân nhơn của lục quân USArmy và thủy quân lục chiến USMC Huê kỳ, vài sĩ quan (cố vấn) Úc, và vài sĩ quan cố vấn cạnh sư đoàn 1 Việt Nam. Tất cả đang « ăn Tết » tại một doanh trại, được trang bị chiến đấu sơ sài – légèrement fortifié nằm phía Đông của thành phố mới bờ Nam Sông Hương, cách cầu Nguyển Hoàng một khu phố.

Tả dông dài để nói rõ, cái nhẹ dạ của Liên quân Mỹ-Việt miền Nam Việt Nam, do quá « gentlemen âu mỹ », quá « quân tử á đông », tin tưởng tưởng rằng Hà nội tôn trọng hưu chiến, nhưng tập tục á đông tôn trọng ngày giờ tháng linh thiêng tuyền thống đã được tôn trọng từ bao năm nay ; ( cũng do tuyên bố của phe Bắc Việt ngưng chiến vài dịp Tết (Mậu Thân) từ ngày 27 tháng giếng đến ngày 3 tháng hai 1968) nên đã bị văn hóa Công Sản chủ nghĩa Vô Thần-Vô Gia Đình-Vô Tổ quốc bịp !

Trái lại, Bộ chánh trị Đảng và công an Cộng Sản đã sửa soạn sẳn một danh sách dài những nhơn vật-mục tiêu cần phải thanh toán ngay từ những giờ đầu của cuộc tấn công. Những sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã đành; những nhơn vật, nhơn sự hành chánh chánh trị, thôi cũng đành nhưng đàng nầy lại thêm tất cả những thường dân có quốc tịch Huê kỳ hay quốc tịch khác, ngoại nhơn, ngoại kiều hay người việt làm việc với ngoại kiều, dù người hay dù cơ sở. Sau khi bắt, phải đem ngay ra khỏi thành phố trừng trị giết hoặc thủ tiêu, vì có tội với nhơn dân Việt Nam... Thảm sát do đó Huế bắt đầu.
Thời điểm cuộc tấn công cũng đã nghiên cứu rất kỹ, nhờ lệnh ngưng bắn, quân lực liên quân Mỹ Việt sẽ lơ là, nhiều quân nhơn Việt Nam đi phép về thăm nhà...và thời tiết, mùa mưa vẫn còn sót ở miền Trung sẽ giảm cường độ hoạt động của Không Quân Mỹ Việt.. Do đó khi, quân Cộng Sản bắt đầu tấn công, một nửa quân lực Việt Nam Cộng Hòa đang nghỉ phép, quân phòng thủ lo phòng ngoại biên hơn phòng giữ trung tâm các thành phố. Lúc Huế bị tấn công, chỉ có một Đại đội Hắc Báo đang giữ đường sân bay, nằm ở Đông Bắc Cổ Thành.  Do đó Cổ Thành bị tràn ngập ngay !

Vài câu chuyện, vài nhơn chứng :
Từ Chuyện Ta : Nguyễn Công Minh, con gái của phó Quận trưởng quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị vào thời điểm đó, nói rằng cha cô, sắp về hưu, đã bị bắt tại nhà riêng khởi đầu cuộc tấn công. Sau khi ông nói với quân Giải phóng rằng ông là Phó Thị trưởng thành phố Huế sẽ được cho nghỉ hưu trong năm sau (1969), ông được lệnh phải trình diện ở khu cải tạo. Hai ngày đầu, ông được cho về nhà sau khi đến khai báo, đến ngày thứ 3 thì ông được yêu cầu đóng gói quần áo và thực phẩm để tới khu trại trong 10 ngày. Ông không bao giờ được nhìn thấy một lần nữa, cũng không tìm được hài cốt của ông. Cô kể lại rằng vào mùa hè năm 1969, khi tìm kiếm thi thể của cha cô (việc tìm kiếm do một người Cộng sản trình diện chiêu hồi chỉ dẫn), cô đã chứng kiến 7 thi thể trong một ngôi mộ đã được tìm thấy. Nguyễn Công Minh ước tính khoảng 250 thi thể được tìm thấy trong 1 tháng tìm kiếm trong 8 hố chôn tập thể.
Đến Chuyện Tây : Ba giáo sư, Giáo sư Horst-Günther Krainick, bác sĩ Alois Alteköster, và Tiến sĩ Raimund Discher, người giảng dạy tại Đại học Y Khoa Huế, là thành viên Đại sứ Văn hóa CHLB Đức, cùng với bà Horst-Günther Krainick, đã bị bắt giữ bởi quân Giải phóng trong cuộc tấn công Huế của họ vào tháng 2 năm 1968. Ngày 05 Tháng Tư năm 1968, các bộ phận thi thể của giáo sư cùng với nhiều người dân Việt Nam đã được phát hiện trong ngôi mộ tập thể gần Huế.
Một số soạn giả và phóng viên như Stephen Hosmer (Viet Cong Repression and Its Implications for the Future, 1970); Peter Braestrup (phóng viên, viết cuốn Big Story, 1977); Barbara Tuchman (viết cuốn The March of Folly, 1984); Loren Baritz (Backfire, 1985) và Uwe Siemon-Netto (Springer Foreign News Service) tất cả đều cho rằng quân Cộng Sản thực hiện một cuộc tàn sát. Siemon-Netto cho rằng những thi thể bị trói tay là chứng minh họ không chết vì bom mìn mà đã bị bắn với mục đích thủ tiêu chứ không phải vì lạc đạn.
3/ Kết luận :
Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân là một thất bại lớn của Việt Cộng và quân đội Cộng sản Bắc Việt.
Thắng thua không còn tánh thời sự của bài viết nấy của chúng tôi !  50 năm hồi tưởng lại để nhắc lại người dân Việt Nam, dù là người tỵ nạn Cộng Sản hiện nay ở yên phận ở Hải ngoại, hay dù là người còn sống trong nước… hãy cùng nhau đốt một nén hương tưởng nhớ các nạn nhơn của cuộc thảm sát Huế tháng giêng năm 1968, váv các nạn nhợn của toàn cuộc chiến Chống cộng giữ vững Miền Nam trong vòn trên 20 năm.
Bài học đáng ghi. Khỏi cần nói nhiều chỉ so sánh hai cái hiện tượng :
Noël 1914,  ngưng bắn trên chiến hào, để cụng ly hát mừng Thiên Chúa ra đời, dù là ba quốc gia, ba quốc tịch khác nhau không đồng ngôn ngữ – Pháp Anh Đức !
Tết 1968, Cộng Sản Bắc Việt bịp dân quân Nam Việt nhẹ dạ, ngưng bắn, để tấn công, dễ dàng tàn sát, cắt đầu, mổ bụng, chôn sống, tuy dù là đồng hương, tuy dù là đồng ngôn ngữ - Việt Nam.
Hồi Nhơn Sơn, 27 tháng 12 2017 nhớ về 27 tháng 12 1914..
TS.Phan Văn Song



__._,_.___

Posted by: =?UTF-8?Q?Katerine_M=2E_C=C3=A9saire

Một cái Tết khó quên

$
0
0


 
Một cái Tết khó quên

Phan Đức Minh



Trung Úy Phan Ðức Minh đã lên phiên Sĩ Quan trực nhật được mấy tiếng đồng hồ. Trời tối đen như mực. Trước cổng trại thật im vắng. Lâu lâu mới có 1 chiếc quân xa vụt qua rồi tất cả chỉ còn lại những bóng đèn đường vàng vọt xa xa...

Tiếng điện thoại dã chiến reo vang trong phòng trực. Minh nói với ông Thượng Sĩ già, “Thượng Sĩ nghe coi có chuyện chi vào lúc này!” Ông Thượng Sĩ nói vọng ra phía Minh, “Có điện thoại từ Bộ Chỉ Huy Quân Trấn, muốn gặp Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng hay Sĩ Quan trực.” Minh bắt điện thoại,

-“Trung Úy Phan Ðức Minh, Sĩ Quan trực Tiểu Ðoàn Truyền Tin Quân Ðoàn I, tôi nghe đây!”

Có tiếng nói ở đầu dây bên kia... Minh quả quyết
-“Chúng tôi đã thi hành đúng đắn lệnh của Quân Ðoàn và Bộ Chỉ Huy Quân Trấn. Xin Ðại Tá yên tâm! Cấm trại và ứng chiến 100 phần trăm. Các toán ứng chiến đã đi nhận nhiệm vụ.Toán đóng quân ở chốt Hòa Cường do 1 Thiếu Úy chỉ huy, tinh thần rất tốt. Ðại tá yên tâm đi!... Vâng, xin kính chào Ðại Tá!”

Ông Thượng Sĩ già lo lắng hỏi :
- “Có chi quan trọng không Trung Úy?”
- Bình thường thôi! Ðại Tá Tham Mưu Trưởng Bộ Chỉ Huy Quân Trấn nhắc nhở anh em mình. Tính ông cẩn thận lắm.

Minh vớ khẩu Colt-45 trên bàn rồi xách đèn pin đi kiểm soát canh phòng. Ðêm nay điểm canh nào cũng gác đôi. Một binh sĩ chặn Minh lại từ xa, hỏi mật khẩu “Quyết Tâm!” Minh đáp lại “Xây Dựng!” Hai binh sĩ cùng nói “Chào Trung Úy!” Minh dặn dò “Anh em cẩn thận tối đa nghe không! Nhất là phía bên kia đường rầy xe lửa.”

Qua khu vực bãi đậu quân xa, Minh thấy anh em canh gác cẩn thận, nghiêm chỉnh. Ðã định quay đi, Minh lại gọi cậu lính trẻ tới dặn “Anh em cẩn thận coi chừng phia bên kia hàng rào kẽm gai, cánh đồng hướng ra đài khí tượng và trại gia đình binh sĩ!” Nói xong, theo thói quen, Minh vỗ vai cậu binh sĩ rồi đi về phiá đồn canh. Minh xuất thân là binh nhì, không theo học Trường Sĩ Quan nào cả nhưng vì tinh thần và khả năng làm việc, trình độ học vấn, anh lên cấp rất mau, bỏ băng nhiều cấp bậc so với những trường hợp bình thường. Ngày xưa đi kháng chiến chống Pháp hơn 6 năm, bị Tây bắt, giam lên giam xuống. Lần sau chót, khi được tha khỏi trại giam Nhà máy Rượu Nam Ðịnh, anh quyết định ở lại thành phố dù rằng ở lại thành phố lúc ấy chưa chắc đã là con đường tốt nhất. Tuy nhiên, giữa hai cái xấu, mình phải chọn cái nào ít xấu hơn.

Ðược động viên gọi đi học khóa Sĩ Quan trừ bị đầu tiên tại Thủ Ðức, anh không đi, nhưng tình nguyện nhập ngũ với tư cách binh nhì, vào Ðại Ðội 3 Truyền Tin Việt Nam, lúc đó còn do Sĩ Quan người Pháp chỉ huy và đang chuyển dần sang cho Sĩ Quan Việt Nam. Mới ba tháng sau, Ðại Úy Miraucourt, Ðại Ðội Trưởng, gắn lon Hạ Sĩ (Caporal) cho anh tại sân cờ đơn vị. Chỉ 16 ngày sau, cũng tại sân cờ này, trước hàng quân, Ðại Úy Miraucourt long trọng đọc quyết định thăng cấp đặc biệt của Tướng Tư Lệnh Ðệ Tam Quân Khu, có hiệu lực hồi tố (retroactive effect) rồi gắn lon Trung Sĩ (Sergent ) cho anh. Cả đơn vị, anh em ai nấy đều ngạc nhiên vì từ ngày thành lập, đây là lần đầu tiên trong đơn vị chuyên môn, không tác chiến, một binh sĩ dược thăng cấp quá mau, mang lon Hạ Sĩ rồi Trung Sĩ chỉ trong vòng 3 tháng nhập ngũ và có hiệu lực cùng 1 ngày, bỏ băng hàng Binh Nhất, Hạ Sĩ, Hạ Sĩ Nhất. Sau này anh còn bỏ băng thêm những cấp bậc khác nữa. Anh luôn được giao phó chức vụ cao hơn cấp bậc thực sự của mình cho nên khi anh đã lên Thiếu Tá, giữ chức vụ Phó Ủy Viên Chính Phủ Tòa Án Quân Sự Mặt Trận Quân Khu I thì bạn bè cùng nhập ngũ với anh, gặp lại nhau, họ vẫn còn ở cấp Thượng Sĩ hay cao lắm là Chuẩn Úy. Minh luôn luôn sống gần gũi và thương mến anh em. Có lẽ đã từng là binh sĩ cho nên anh hiểu họ nhiều hơn và họ cũng thương mến anh hơn.

Bước vào đồn canh, Minh giơ tay chào lại anh em khi Trung Sĩ Nhất đồn trưởng hô Phắc! để tất cả anh em đứng lên, chào vị Sĩ Quan chỉ huy của mình. Sau khi xem xét, Minh dặn Hạ Sĩ Quan đồn trưởng “Không một ai được phép ra khỏi cổng trại đêm nay, dù là đêm 30 Tết, nếu không có Sự Vụ Lệnh do Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng hay Tôi ký. Nếu gặp khó khăn (ý Minh muốn nói: nếu có các Sĩ Quan khác tự ý lái xe Jeep ra khỏi cổng), cứ gọi điện thoại cho tôi giải quyết!” Giống hệt Thiếu Tá Nguyễn Hữu Viên, Tiểu Ðoàn Trưởng, xuất thân Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Minh thích: làm việc là làm việc hết mình, khi chơi là chơi xả láng, thứ nào ra thứ đó, không có lộn xộn...

Chỉ còn nửa tiếng đồng hồ nữa là sang năm mới. Ðúng 12 giờ đêm 30 Tết, đón chào năm mới Mậu Thân. Pháo nổ tưng bừng. Chiêng trống vang lên khắp nơi. Lính tráng đâu đó đem súng ra bắn chơi cho vui. Riêng đơn vị anh, không một quân nhân nào được phép làm như vậy. Pháo nổ hoài mà súng cũng nổ hoài. Thế là cái gì? Minh chạy như bay vào phòng trực, đích thân nhấn còi hụ báo động. Tất cả mọi quân nhân trong trại ào ra các hố cá nhân, giao thông hào chung quanh trại trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Các Sĩ Quan đi kiểm soát khu vực trách nhiệm của mình. Những ánh đèn pin xanh lè, loáng thoáng đó đây... Tin từ Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn và đài phát thanh cho hay: Việt Cộng đang từ ngả Ðò Xu đánh vào doanh trại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn. Một cánh quân khác đang tấn công vào Bộ Chỉ Huy Quân Trấn.

Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng điện thoại cho Minh, dặn dò rồi cho biết: Việt Cộng đang mở cuộc tổng tấn công vào thủ đô Sài Gòn cũng như hầu hết các thành phố quan trọng trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Việt Cộng đã chiếm và kiểm soát một khu vực thành phố Huế. Tại Ðà Nẵng, Việt Cộng từ hướng Ðò Xu đánh vào Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn, nhưng không gây được áp lực mạnh mẽ. Phía Bộ Chỉ Huy Quân Trấn, Việt Cộng từ phía Ty Ngân Khố, đánh sang, do lực lượng đặc công chủ động. Các mũi tấn công từ ngoại vi thành phố đã bị lực lượng Thiết Giáp và Biệt Ðộng Quân của ta chặn đánh. Tin từ Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn cho hay: Lực lượng tấn công của địch đã bị quân ta chặn đánh ngay từ vòng đai bên ngoài cho nên số quân lọt được vào doanh trại Bộ Tư Lệnh rất yếu ớt và bị đánh bật ra ngay...

Minh cùng đơn vị đã thức suốt đêm. Ðơn vị anh rất kỷ luật, quân số cấm trại ứng chiến luôn luôn đủ 100 phần trăm. Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng rất thông cảm với binh sĩ cho nên những lúc cấm trại, ông luôn sống sát với anh em, chia sẻ vui buồn với mọi người. Ban ngày, bình yên, ông cho phép anh em thay phiên 50 % quân số về thăm gia đình. Tối đến, giờ điểm danh bắt buộc đông đủ 100%. Ông lo lắng đến đời sống tinh thần, vật chất, giải trí cho mọi quân nhân trong đơn vị, giúp đỡ gia đình binh sĩ trong những hoàn cảnh khó khăn. Vấn đề thưởng phạt công minh. Hầu hết mọi người trong đơn vị đều thương mến và dành cho ông một lòng kính phục. Tháng 6 - 1968, sau vụ Tết Mậu Thân ít lâu, Thiếu Tá Viên từ trần tại Tổng Y Viện Duy Tân, Ðà Nẵng vì bệnh tai biến mạch máu não. Khi tiễn đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng, nhiều anh em đã khóc thật sự, trong đó có Trung Úy Phan Ðức Minh, người từng mang ơn Quân Ðội, mang ơn Thiếu Tá Viên là người đã cho anh những bài học quý giá, những gương sáng về nghệ thuật chỉ huy. Lúc hạ huyệt, Minh cầm một hòn đất thả xuống nắp quan tài, xong đứng thẳng người, chào Thiếu Tá Viên một lần cuối rồi bỗng nhiên hai tay ôm lấy mặt... Anh bước vội ra chiếc xe Jeep đậu gần đó. Cậu Hạ Sĩ tài xế thấy thế cũng hai tay ôm lấy mặt, gục đầu xuống, hai vai rung lên trong sự nghẹn ngào... Tình thương yêu Huynh Ðệ Chi Binh trong Quân Ðội ta là thế đấy!

Sáng Mồng Một Tết Mậu Thân, Minh nhận được tin quân sự chính thức: Lực lượng vũ trang cộng sản đánh vào thành phố Ðà Nẵng đã hoàn toàn bị đẩy lui. Phía Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn, Việt Cộng coi như hoàn toàn thất bại, phải tháo chạy trở lại phía Ðò Xu, rút về ngả Vĩnh Ðiện, Hội An. Một phần lực lượng địa phương của Tỉnh Ðội Quảng Nam-Ðà Nẵng bị kẹt, phải chạy qua ngả Hòa Cường. Ở đây, chúng đụng phải một đơn vị bộ binh Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa và Tiểu đội ứng chiến của Tiểu Ðoàn Truyền Tin Quân Ðoàn I. Minh nhận được báo cáo vô tuyến của Thiếu Úy Thạch, Sĩ Quan chỉ huy toán ứng chiến: Có 1 binh sĩ bị thương nặng, cần được di tản ngay vào Tổng Y Viện Duy Tân. Với tư cách Sĩ Quan trực, Minh cho toán cấp cứu nhẩy ngay lên xe Dodge 4 x 4 đi liền, sau khi ra lệnh “Tất cả: lên đạn! Trừ tài xế, còn tất cả súng cầm tay, sẵn sàng phản ứng ngay tức khắc!”

Một lúc sau, toán cấp cứu trở về. Toán trưởng báo cáo: “Thưa Trung Úy! Binh nhất Thắng bị đạn AK thủng bụng, đã đưa vào Tổng Y Viện Duy Tân, phòng cấp cứu!” Thì ra: Một toán Việt Cộng bị đánh bật ra khỏi khu vực Quân Ðoàn, chạy ngược về hướng Ðò Xu, bị đụng Biệt Ðộng Quân. Thế là tụi nó chạy dạt sang phía Hòa Cường, phía có toán ứng chiến của Thiếu Úy Thạch. Vì không phải là đơn vị tác chiến thật sự nên Thiếu Úy Thạch cho quân nằm tại chỗ, chỉ nổ súng khi địch lọt vào khu vực trách nhiệm, không tấn công hay truy kích địch trong khu vực trách nhiệm của các đơn vị bạn. Từ xa, Binh Nhất Thắng thấy thằng Việt Cộng chạy sau cùng bị thương ở chân, chạy không kịp đồng bọn. Thắng thấy thèm khẩu AK của nó quá nên dầu là lính truyền tin, nó cũng xách khẩu Carbin M-2 nhẩy lên khỏi hố cá nhân, rượt theo tên Việt Cộng bị thương. Thiếu Úy Thạch quát lên, nhưng nó không còn nghe thấy gì nữa, nó phóng theo, ria 1 băng. Thằng Việt Cộng té nhào.. Ðồng bọn của nó thấy chỉ có 1 người đuổi theo cho nên 1 thằng khác cố quay lại đáp lễ cho Thắng 1 băng AK. Thắng quỵ xuống, nhưng vẫn còn trông rõ bọn chúng quay lại xốc thằng bị thương đem đi, lượm luôn khẩu AK dưới đất và biến sau lùm cây kế đó...

Ngày Mồng 2 Tết Mậu Thân... Việt Cộng chiếm đóng và kiểm soát phần quan trọng của thành phố Huế. Một số Sĩ Quan cùng bị bắt với nhân viên chính quyền khi có mặt tại gia đình trong đêm 30 Tết, trong đó có vài người bạn thân của Minh. Anh chép miệng, “Nếu chúng nó cứ nằm trong đơn vị với anh em thì đâu đến nỗi! Ngày Tết ai chẳng muốn về đón Giao Thừa với gia đình, nhưng quân đội cần mình làm gương cho binh sĩ, tại sao mình không làm?”

Minh đã hết nhiệm vụ Sĩ Quan Trực từ chiều Mồng Một Tết. Sĩ Quan Trực ngày Mồng 2 là Sĩ Quan Trung Ðội Trưởng vô tuyến. Vì nhu cầu hành quân của Quân Ðoàn, Sĩ Quan này phải dẫn 1 toán chuyên viên với máy móc lên xe đi ngay. Khi trình ký Sự Vụ Lệnh, Thiếu Tá Viên hỏi Minh: “Trung Úy Phúc đang là sĩ quan trực, đã có ai thay nó chưa?” Ngày Tết mà dính mấy cái vụ này thật là kẹt! Muốn lẹt xẹt đây đó trong hay ngoài đơn vị một tí, dù là ban ngày, cũng chịu chết! Thiếu Tá Viên đùa dai với Minh “Cậu làm Sĩ Quan Trực ngày Mồng Một rồi, nay làm luôn ngày Mồng 2 được không?” Minh đáp “Nếu Thiếu Tá và đơn vị cần thì tôi làm liền!” Thiếu tá Viên vui vẻ “Ờ thôi, Cậu làm luôn đi! Mai mốt rảnh rang, muốn nghỉ ngơi, Moa cho Cậu thoải mái!” Thế là Minh lại lên Phòng Trực nhận bàn giao. Minh vừa nhấc điện thoại kiểm soát các điểm canh phòng thì Hạ Sĩ Quan trực báo cáo “Thưa Trung úy, có báo cáo vô tuyến từ toán ứng chiến Hòa Cường!” Minh nghe vô tuyến rồi ra lệnh “Giữ chúng nó cẩn thận, sẽ có người tới đem về Tiểu Ðoàn!” Thì ra toán Việt Cộng bị rượt đuổi hôm qua, chui rúc đâu đó, sang Mồng 2, bị Quân Ðội ta lục soát kỹ quá nên đành chạy qua ngả Hòa Cường, nhào vào khu vực của Tiểu Ðội truyền tin đóng chốt. Chúng nó vừa chạy vừa bắn xối xả vào các mục tiêu nghi ngờ phía trước. Tiểu dội truyền tin nổ súng. Một tên té nhào. Toán Việt Cộng xả đạn như mưa vào Tiểu Ðội truyền tin rồi chạy dạt sang phía khác. Chúng nó cần súng đạn hơn là cần người của nó nên chúng bắn phủ lên Toán truyền tin rồi nhào vô lượm khẩu AK chạy đi, bỏ thằng bị thương nằm lại. Thằng Việt Cộng cầm 2 khẩu AK lúng túng nên tụt lại phía sau. Nó lãnh luôn 1 băng Carbin M-2, chạy được vài bước thí quỵ xuống, nhưng nó vẫn cố quăng 2 khẩu AK cho đồng bọn mang đi rồi mới chịu nằm yên tại chỗ. Toán truyền tin bắt được 2 tù binh nhưng tiếc là không lấy được khẩu AK nào. Tụi Việt Cộng trở về đơn vị mà mất súng thì chỉ có nước bị chôn sống hay bắn bỏ. Chúng nó cần súng đạn chớ đâu có cần sinh mạng con người, dù là con người của chúng nó.

Chiếc xe Dodge 4 x 4 đậu trước cửa Phòng Trực. Minh ra lệnh “Dẫn 2 anh đó vào trong này! Gọi y tá chăm sóc cho họ. Họ bị bắt rồi. Mình phải đối xử tử tế!” Hai tên Việt Cộng nhìn Minh với vẻ sợ sệt. Minh cởi dây nịt, đưa khẩu súng Colt-45 cho 1 binh sĩ phía sau cầm để chúng nó đỡ sợ. Hai tên Việt Cộng còn trẻ măng, nói tiếng Quảng Nam. Minh hỏi họ “Các anh có phải là bộ đội chủ lực của Tỉnh không?” Chúng gật đầu. Minh bảo họ “Các anh cứ yên tâm. Các anh bị bắt rồi. Chúng tôi không làm gì các anh cả. Lát nữa sẽ có người đưa các anh tới cơ quan có trách nhiệm. À, mà các anh có đói không?” Hai tên Việt Cộng mắt sáng lên. Minh bảo Hạ Sĩ Quan trực xuống Câu Lạc Bộ nói đem lên đây 2 tô bún và 2 ổ bánh mì. Trông 2 tên Việt Cộng ăn uống ngon lành, Minh nói với họ “Cách đây nhiều năm, tôi cũng đã từng chiến đấu như các anh. Các anh còn trẻ quá! Một ngày nào đó, các anh cũng sẽ nhận ra bộ mặt thật của cuộc chiến đấu này, giống như tôi cách đây nhiều năm về trước.” Cả hai ngước mắt nhìn anh chậm chạp rồi cúi gầm mặt xuống. Ăn xong, hai tên Việt Cộng tỉnh táo hẳn lên, chứng tỏ rằng họ đã bị đói có thể từ hôm trước. Minh hỏi cậu binh sĩ đứng bên cạnh “Có bật lửa không? Lấy bao thuốc lá trên bàn kia, đưa cho các anh ấy hút một điếu đỡ lạnh. Trời đất ngày Tết lạnh hơi nhiều!” Bất chợt, Minh nhìn xuống bộ quân phục của mình: một cái áo “Field Jacket” cổ bọc lông thú nhân tạo, hai bông mai vàng gắn trên cái nền bằng nhung mầu hạt dẻ, cài trên ngực áo, giầy cao cổ, đầu đội mũ, đeo bao tay da mà còn thấy lạnh, Vậy mà hai thanh niên kia còn quá trẻ, đói khát cả ngày, bị thương, mỗi người 1 cái quần đùi và cái áo vải đen mỏng dính, sát vào người, lại bị rách vài ba chỗ hở cả da, cả thịt... Ai cũng là người cả, dù họ là 2 tên Việt Cộng bị bắt làm tù binh...

Chiếc xe Dodge lăn bánh, chở toán lính vũ trang, đem 2 tên tù binh Việt Cộng giao cho Ðặc Khu Ðà Nẵng. Minh nhìn theo, buông 1 tiếng thở dài... Tin tức quân sự cho hay: cuộc tổng tấn công của Việt Cộng trên khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa đã bị đánh bại hoàn toàn. Ðịch chỉ còn chiếm giữ và kiểm soát khu vực Thành Nội của Cố Ðô Huế. Một lúc nào đó, bọn Việt Cộng rồi cũng phải bỏ chạy khỏi nơi này. Số phận của các quân nhân, nhất là Sĩ Quan, nhân viên chính quyền, Ðảng phái chính trị, nhân dân bị chúng coi là phản động đang trong gọng kìm kiểm soát của chúng nó rồi sẽ ra sao?

Khi lực lượng Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Ðộng Quân, rảnh tay ở các chiến trường đã thanh toán xong, cùng đổ về đây thì bọn Việt Cộng chịu chi cho nổi. Chúng nó trên đường tháo chạy, đã lùa theo hàng ngàn người thuộc loại kể trên, trói lại từng xâu rồi cho lệnh bắn hàng loạt. Tiếc đạn quá, chúng nó cho lệnh giết bằng mã tấu, lưỡi lê, dao găm. Cứ thế mà chém ngang cần cổ, cứ lụi vào lưng. Không chết cũng đạp xuống những cái hố chôn tập thể đã được dân quân, du kích và dân công địa phương đào sẵn khi chúng thấy tình hình giữ Huế không còn nổi nữa. Phát xít Ðức tàn sát người Do Thái, giết các quân nhân Ba Lan bằng phòng hơi ngạt, bằng lò thiêu tập thể, hồi Thế Chiến thứ 2 đâu có ghê gớm, kinh khủng bằng lối giết người của Việt Cộng ở Huế trong dịp Tết Mậu Thân!

Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa đã chiến thắng oanh liệt trên khắp 4 Vùng chiến thuật, cũng như tại thủ đô Sài Gòn.

Phan Đức Minh
San Diego, California
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

Góp ý với Bill Hayton về Trận Hải Chiến Hoàng Sa, 19-01-1974

$
0
0



 
Góp ý với Bill Haytonvề Trận Hải Chiến Hoàng Sa, 19-01-1974

ĐIỆP MỸ LINH
 Inline images 1

Tôi không thích chính trị; vì không thích cho nên tôi không muốn tìm hiểu về chính trị. Nhưng, hôm nay, bất ngờ, được website truclamyentu chuyển đến một bài dịch từ bài viết của ông Bill Hayton, tôi nhận thấy có vài điều tôi muốn viết để góp ý.

Tôi nghĩ, khi đề cập đến một trận chiến – chứ không phải viết lịch sử –  người ta thường nhìn vào tinh thần chiến đấu của người lính tham gia trận chiến đó và phản ứng thức thời, thích nghi của cấp chỉ huy của trận chiến đó. Còn nếu chỉ nhìn cuộc chiến đó bằng kế hoạch hành quân và những “tai nạn” khi khói lửa ngập trời mà không hề đề cập đến tinh thần của binh sĩ thì đó là một cách nhìn thiếu công bằng.

Là tác giả của cuốn tài liệu lịch sử Hải-Quân Việt-Nam Cộng Hòa Ra Khơi, 1975 và cũng là một phụ nữ có chồng là một sĩ quan cao cấp Hải-Quân Việt-Nam Cộng Hòa, tôi hiểu rằng: Kế hoạch hoặc phương án hành quân và lệnh hành quân lúc nào cũng được bảo mật; sĩ quan thuộc cấp có thể biết một vài phần nhưng hạ sĩ quan và lính thì không được phép biết.

Vì lẽ đó, những Người Lính V.N.C.H. đã tham chiến trận Hải Chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 01 năm 1974 – cả Địa Phương Quân lẫn Hải-Quân và Thủy Quân Lục Chiến – khi trở về đất liền được chào đón như những vị anh hùng là hoàn toàn hợp lý; bởi vì, Người Lính chỉ biết tuân lệnh, xthân vào trận chiến vì tinh thần yêu nước, muốn bảo vệ quê hương chứ Người Lính không thể lựa chọn và cũng không cần biết ai pháchọa phương án hoặc kế hoạch hành quân; phương án hoặc kế hoạch  hành quân đó tốt hay xấu, có lợi hay bất lợi; phương án hoặc kế hoạch hành quân đó là một thảm họa hay là một khúc khải hoàn ca!

Cả thế giới đều biết, trận Hải Chiến giữa Hải-Quân V.N.C.H. và Hải-Quân Trung Cộng là một cuộc chiến không cân sức, như là "châu chấu đá xe". Thế mà Hải-Quân V.N.C.H. vẫn chấp nhận chiến đấu để quân cướp Trung Cộng biết rằng Việt-Nam Cộng Hòa là chủ của Hoàng Sa – nghĩa là Hải-Quân V.N.C.H.. cũng như Chính Phủ V.N.C.H. tự "rước" thảm họa (chữ của người nào dịch bài báo của Bill Hayton). Đó là tinh thần dũng cảm của Quân Lực V.N.C.H., tác giả và mọi người – nhất là người Việt-Nam – cần phải ghi nhận một cách trân trọng và nêu cao.

Tôi không hiểu tại sao lại căn cứ vào nhận xét của một người ngoại quốc – mà người ngoại quốc này, Bill Hayton, không tham dự trận chiến Hoàng Sa – để đánh giá một trận chiến do “1/2 nước Việt Nam này” dám ngang nhiên chống Tàu Cộng  cướp đảo, trong khi – cùng thời điểm – “1/2 nước Việt Nam kia” lại tận dụng thời cơ, xua quân thực hiện chiến thuật biển người, do Đại Tướng Cộng Sản Việt-Nam Võ Nguyên Giáp học được từ Trung Cộng, để ào ạt tấn công “1/2 nước Việt-Nam này” bằng vũ khí của chính quân cướp Trung Cộng!

Bill Hayton này là ai mà dám phê phán một cuộc chiến trong lãnh hải của “1/2 nước Việt-Nam này” – miền Nam Việt-Nam? Nhân vật ngoại quốc này không có tư cách gì để bảo rằng những Người Lính sống sót từ Hoàng Sa trở về được "thêu dệt một cách ly kỳ như huyền thoại" và được "chào đón như những anh hùng"!

Tôi, Điệp Mỹ Linh, đại gia đình tôi và toàn thể người Việt sống dưới vĩ tuyến 17, là công dân Việt-Nam – vào thời điểm Hải-Quân V.N..C.H. chống Tàu Cộng cướp Hoàng Sa – luôn luôn tôn vinh những Người Lính đã tử trận tại Hoàng Sa cũng như những Người Lính sống sót từ Hoàng Sa trở về là Những Vị Anh Hùng!

Tại sao – cùng thời điểm đó – Bill Hayton không lên án quân cướp Trung Cộng và quân Bắc Việt xâm lăng Nam Việt đã "cõng  rắn” Trung Cộng “cắn gà nhà” Nam Việt-Nam?

Tại sao không ai nghĩ Bill Hayton viết bài đó vì Bill Hayton không có cảm tình với Nam Việt-Nam? Cũng may, Bill Hayton là một nhà báo chứ không phải là một người viết lịch sử.

Người viết lịch sử là một người chỉ trình bày những dữ kiện có thật của lịch sử chứ người viết sử không bao giờ góp lời phê phán hoặc đưa vào những trang sử lời bình phẩm của chính tác giả.

Bởi vì, khi ta nhìn vào bất cứ vật thể gì, hay sự kiện nào, ta cũng chỉ thấy được từ góc cạnh hạn hẹp của đôi mắt và quan niệm của ta chứ ta không thể thấy được tổng thể của vật đó, sự việc đó. Vậy thì không thể cho rằng Bill Hayton "đánh giá một cách khách quan" về trận Hải Chiến Hoàng Sa được!

Từ khi Trung Cộng ngang nhiên xâm lược và xây dựng nhiều đảo nhân tạo trong vùng lãnh hải của nước Việt-Nam "trọn vẹn"– chứ không phải chỉ “1/2 nước Việt-Nam” như năm 1974 – Nhà cầm quyềnCộng Sản Việt-Nam có dám hé môi hay không? Nhà cầm quyềnC.S.V.N. đã hèn với Trung Cộng mà khi sinh viên và người dân Việt-Nam biểu tình chống đối Trung Cộng cướp đảo của Việt-Nam thì Nhà cầm quyềnC.S.V.N. lại thẳng tay đàn áp, bắt tất cả bỏ tù!

Xin ông nhà báo Bill Hayton thử "đánh giá một cách khách quan" về thái độ hèn hạ của Nhà cầm quyềnCộng SảnViệt-Nam cũng như người lính của quân đội cụ Hồ đi.

Nhân đây tôi cũng xin nêu lên hai điều trong bài của Bill Hayton:

1-*Bill Hayton viết rằng: “Cuối cùng, ông Kiểm là người ra lệnh nổ súng”.
Tôi được biết chính xác:
Ø Hải-Quân Đại Tá Đỗ Kiểm là Tham Mưu Phó Hành Quân, Bộ Tư Lệnh Hải-Quân.
Ø Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại là Tư Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên Hải.
Ø Hoàng Sa thuộc hải phận Vùng I Duyên Hải.

Tôi đề nghị Bill Hayton nên liên lạc trực tiếp với Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại – nguyên Tư Lệnh Hải-Quân V.N.C.H. Vùng I Duyên Hải – để phối kiểm và được xác nhận, làm sáng tỏ chi tiết này.

2-*Bill Hayton viết rằng: “…chính quyền Sài Gòn phải tham chiến với một nền kinh tế hầu như bị tê liệt…”

Đúng!

Vào thời điểm Hải Chiến Hoàng Sa, Chính Phủ V.N.C.H. với nền kinh tế hầu như bị tê liệt (chữ của Bill Hayton) và Người Lính V.N.C.H. chiến đấu trong điều kiện cạn kiệt vũ khí (chữ của Điệp Mỹ Linh); vì Hoa Kỳ không còn viện trợ vũ khí cho miền Nam Việt-Nam nữa! Thế mà Chính Quyền V.N.C.H. và Người Lính V.N.C.H. vẫn “…Thù nước lấy máu đào đem báo…” (1) Tư cách như vậy, tác phong như vậy và tinh thần yêu nước như vậy phải được ghi nhận một cách công bằng và trang trọng, thưa ông Bill Hayton!

Bill Hayton chỉ nêu ra những chi tiết tiêu cực như: Chiến Hạm của Hải-Quân Việt-Nam Cộng Hòa đụng vào nhau trong chiến trận Hoàng Sa!

Tôi không biết Bill Hayton là công dân nước nào. Nhưng tôi đề nghị Bill Hayton hãy lật những trang sử chiến tranh của đất nước Ông, xem có bao nhiêu “tai nạn” xảy ra khi quân của quê hương ông “đụng trận” với quân nước khác? Ngay như một quân đội tinh nhuệ nhất hành tinh là Quân Đội Hoa Kỳ mà thỉnh thoảng báo chí vẫn đưa tin những tai nạn không thể tránh được, khi lâm trận!

Nếu Bill Hayton tìm không được trên sử sách của đất nước Ông về những tai nạn xảy ra trong chiến tranh thì, tôi nghĩ, quân đội của đất nước Ông quả là một quân đội … huyền thoại –  chữ của Bill Hayton!


ĐIỆP MỸ LINH
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Nhân Tưởng Niệm 44 Năm Hải Chịến Hoàng Sa... Xin mời Quý Vị theo dõi tin tức, hình ảnh, video clip và truyện kể...liên quan ...

$
0
0
From:'BMH' via PhucHungViet <
To:
Sent: Saturday, January 20, 2018 7:41 PM
Subject: Tưởng Niệm 44 Năm Hải Chiến Hoàng Sa...

Xin chuyển đến Quý Vị, Quý NT và CH....

Nhân Tưởng Niệm 44 Năm Hải Chịến Hoàng Sa...

Xin mời Quý Vị theo dõi tin tức, hình ảnh, video clip và truyện kể...liên quan ...

Mãi mãi tưởng nhớ, và tri ân 75 Anh Hùng Tử Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã anh dũng hy sinh để bảo vệ hải đảo của quê hương Việt Nam...

Trân trọng..



BMH
Washington, D.C



 Image result for Nhân Tưởng Niệm 44 Năm Hải Chịến Hoàng Sa




Mãi mãi tưởng nhớ, và tri ân 75 Anh Hùng Tử Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
đã anh dũng hy sinh để bảo vệ hải đảo của quê hương Việt Nam...


Image result for Tưởng Niệm 44 Năm Hải Chiến Hoàng Sa


TUYÊN CÁO

Nhân Tưởng Niệm 44 Năm Hải Chiến Hoàng Sa
 
Ngày 19-1-1974 cách đây 44 năm, Trung Cộng đã xua lực lượng hải quân hùng hậu tấn công quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa, thực hiện mưu đồ bành trướng  lãnh thổ. Bảy mươi bốn (74) chiến sĩ VNCH đã anh dũng hy sinh, Hoàng sa rơi vào tay Tàu Cộng trước sự im lặng của nhà cầm quyền cộng sản Bắc Việt.

Trước đó vào năm 1958, Thủ Tướng CS Bắc Việt Phạm Văn Đồng đã ký công hàm “ghi nhận và tán thành” tuyên bố ngày 4/9/1958 của thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai về chủ quyền các đảo ở Biển Đông trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam theo các tài liệu lịch sử và pháp lý từ nhiều nguồn độc lập.

Năm 1988, bất chấp luật quốc tế về biển 1982, Trung Cộng dùng võ lực xâm chiếm 10 đảo trong quần đảo Trường Sa thuộc Việt Nam gây tử thương cho 64 lính hải quân của chế độ đương thời tại Việt Nam.

Kể từ đó bất chấp dư luận quốc tế, Trung Cộng ngày càng lấn chiếm Biển Đông theo tiến trình gậm nhấm, lần lượt gia tăng các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí, uy hiếp tàu đánh cá và thăm dò của Việt Nam, chiếm bãi cạn Scarborough của Phi Luật Tân năm 2012, phá hủy các rặng san hô, bồi đắp các đảo nhân tạo, xây dựng căn cứ quân sự khắp nơi dùng làm bàn đạp tấn công các nước Đông Nam Á khi cần thiết, khống chế con đường vận chuyển quốc tế quan trọng tại Biển Đông vân vân.

Tại Việt Nam, nhà cầm quyền chẳng những nhu nhược trước hành vi xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Cộng mà còn đàn áp thô bạo thanh niên, sinh viên và đồng bào yêu nước chống hành động xâm lăng của Bắc Kinh.

Tháng 6 năm 2016, Tòa Trọng Tài Quốc Tế La Haye ra phán quyết bác bỏ đòi chủ quyền đường lưỡi bò của TC tự vẽ trên Biển Đông nhưng Bắc Kinh vẫn ngang ngược bác bỏ.

Trước những sự kiện này và nhân tưởng niệm 44 năm Hải Chiến Hoàng Sa, Hội Đồng Liên Kết Quốc Nội Hải Ngoại Việt Nam xin kính cẩn nghiêng mình trước sự hy sinh của các chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ biển đảo của Việt Nam đồng thời long trọng tuyên cáo:

  1. Ca ngợi và ủng hộ lòng dũng cảm của mọi giới đồng bào trong nước đã mạnh dạn bày tỏ ý chí chống ngoại xâm bất kể sự đàn áp của nhà cầm quyền.
  2. Cực lực tố cáo âm mưu bành trướng của nhà cầm quyền Trung Cộng với sự  tiếp tay của đảng cộng sản Việt Nam.
  3. Kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước đoàn kết cứu nguy tổ quốc, thường xuyên tổ chức, tham gia biểu tình, tẩy chay hàng hóa và không du lịch đến Trung Cộng; tất cả đồng tâm tranh đấu cho một chế độ tự do dân chủ thật sự để  tạo thế đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm như trong lịch sử và bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ lãnh hải Việt Nam.
  4. Thỉnh cầu Liên Hiệp Quốc và các nước yêu chuộng hòa bình, tự do và công lý trên thế giới hãy ngăn chận chính sách bành trướng đế quốc của Trung Cộng và buộc CSVN phải tôn trọng quyền tự do của nhân dân Việt Nam.
 Việt Nam và Hải Ngoại ngày 19 tháng 1 năm 2018

TM Hội Đồng Liên Kết Quốc Nội Hải Ngoại Việt Nam

*************************************



























Vinh Danh Tử Sĩ Hoàng Sa –
Video clip của Vũ Quang Thuận

Cám ơn đồng bào phía Bắc đã xuống đường trong ngày tưởng niệm 75 anh hùng Tử- sĩ của HQVNCH 
đã hy sinh để chống quân xâm lược tàu khựa cướp HS.👲🔪

(19_1. 2017 hình ảnh đã 1 năm qua vẫn làm xúc động và rất ... mới 😍)

***********************************************
Tình Hoàng Sa trong một hẻm Sài Gòn


Lưu Trọng Văn

Sáng nay gã và Mai Anh Tài, một doanh nhân luôn đau đáu chuyện đất nước, vào hẻm rồi lại hẻm, rồi lại hẻm nữa trên đường Lê Văn Lương thăm ngôi nhà mới của bà Hoa, vợ Thượng sĩ hải quân VNCH Nguyễn Hồng Châu đã hy sinh đúng ngày này 44 năm trước trong trận hải chiến Hoàng Sa.
Gã bất ngờ vì buổi mừng nhà mới do Nhịp cầu Hoàng Sa của Đỗ Thái Bình, Lữ Công Bảy, Nguyễn Thế Thanh, Kim Hạnh, Huy Đức… góp phần xây dựng để tri ân những người đã hy sinh bảo vệ biển đảo Tổ quốc lại có đông thân nhân của các chiến sĩ, liệt sĩ chiến đấu và hy sinh ở Hoàng Sa đến dự thế.
Gã gặp chị Sinh vợ Thiếu tá chỉ huy Hạm đội HQ 10 Nguỵ Văn Thà, chị Thảo con gái Hạm phó Nguyễn Thành Trí, chị Ngà vợ thủy thủ Dương Văn Lợi, chị Nhật Tảo con gái của Hạ sĩ Lương Thanh Thú, chị Oanh em thuỷ thủ Phạm Văn Lèo, chị Chiêu vợ Đại uý Huỳnh Duy Thạch. Tất cả cùng có chung ngày hôm nay – ngày giỗ lần thứ 44 chồng, cha, anh của mình.
Nước mắt hoà trong nước mắt.
Tay nắm trong tay.
Gã nhìn những bàn tay cần lao bao năm bươn chải tảo tần của các chị. Gã nắm các bàn tay ấy. Thô, ráp, nhưng ấm áp đến lạ kỳ.
Có hai cuộc gặp gỡ gã nhớ nhất và muốn ghi lại.
Cuộc gặp thứ nhất: Người đàn ông to béo và người đàn bà lam lũ.
Người đàn ông ấy là Trần Song Hải, con trai của Trung tá hải quân VNCH Trần Văn Tâm. Người đàn bà là Huỳnh Thị Sinh vợ của Thiếu tá Nguỵ Văn Thà. Hải kể trong nước mắt. Ba tôi là Hạm trưởng tàu HQ 10 Nhật Tảo, Nguỵ Văn Thà là Hạm phó. Ba tôi được lệnh đến chỉ huy một tàu khác, Nguỵ Văn Thà lên làm Hạm trưởng và ngay sau đó được lệnh ra Hoàng Sa.
Hải ôm bà Sinh nói, cô ơi, chú Thà đã chết thay cho ba con. Cô ơi, khi còn sống ba con dạy con nhiều về tình yêu đồng bào về tinh thần quốc gia. Ba con bảo, con làm gì thì làm cũng phải gắng giúp cho quân đội hùng mạnh bất kể màu cờ nào miễn là bảo vệ Tổ quốc.
Gã được biết Hải hiện là chủ một doanh nghiệp lớn chuyên cung cấp những động cơ, thiết bị hiện đại, tốt nhất cho việc đóng mới những con tàu của Hải quân.
Cuộc gặp thứ hai giữa người đàn ông trẻ là Trần Tuấn Linh và người đàn bà Phạm Thị Hoa.
Linh làm việc cho một ngân hàng tại quận Bốn, thường thấy một phụ nữ trông lam lũ, suốt ngày mưa hay nắng bên tủ thuốc lá nhỏ. Linh lân la hỏi chuyện thì biết người bán thuốc lá vỉa hè mưu sinh này có chồng là Thượng sĩ hải quân hy sinh trong trận chiến chống quân xâm lược Trung Quốc ở Hoàng Sa. Thế là Linh đã âm thầm giúp đỡ người phụ nữ này. Linh giới thiệu chị với Nhịp cầu Hoàng Sa.
Ngôi nhà mới của chị Hoa vợ liệt sĩ Nguyễn Hồng Châu đúng ngày giỗ 44 năm của anh hôm nay hoàn thành một phần nhờ tấm lòng của Linh, một bạn trẻ Sài Gòn.
Lúc này thì Sài Gòn đang mưa rất lớn. Lạ thật mùa này SG lại mưa. Gã ngồi nhìn mưa và ăn chiếc bánh tét do chính bà Ngà dậy sớm làm đem tới đám giỗ chung của các chiến sĩ hải quân VNCH bảo vệ Hoàng Sa. Gã hỏi bà Ngà sao làm bánh tét? Bà bảo, thương chồng cùng các bạn chiến đấu của chồng bao năm rồi không được ăn bánh tét, bao năm rồi không được ăn tết với vợ, con.

***********************************************
 TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA
DƯỚI MẮT MỘT NGƯỜI CÒN SỐNG SÓT
Chuyện thật xảy ra vào trung tuần Tháng Giêng năm 1974

Phó thịnh Đường

Lời Giới Thiệu:
Tất Ngưu là người bạn cùng lớp (Khóa 20) trường Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) - Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, Việt Nam.  Chúng tôi tốt nghiệp vào lúc nước nhà thất điên bát đảo, kiệt quệ trong khói lửa chiến tranh.   Mộng tìm việc làm trên các thương thuyền tan theo mây khói.  Cùng một số bạn cùng khóa chẳng hạn như Nguyễn Văn Kết, Trần Minh Trung, Phạm Tánh Dược, Nguyễn Chánh Nghĩa ,… chúng tôi đành lên đường nhập ngũ tòng chinh.   Một số anh em cùng với tôi đã gia nhập Hải Quân và Quân Vận VNCH với hy vọng có cơ hội áp dụng những kỹ thuật hải hành hấp thụ được ở trường HHTT.  Thế rồi trong một trận hải chiến, chiến hạm bị đánh đắm.   Lênh đênh trên biển cả ba đêm, bốn ngày không thực phẩm và nước uống,  Tất Ngưu đã chết đi rồi sống lại.
Là người may mắn được xem bài tường thuật trong quyển nhật ký được cẩn thận giữ gìn hơn 32 năm qua, tôi đã xin và được anh cho phép đăng tải nguyên văn.
Xin nói thêm là đối với một người đã một lần chết đi rồi sống lại như anh, danh lợi chỉ là chuyện phù phiếm.  Anh đang có một cuộc sống bình dị, thoải mái, không màng đến vinh hoa phú quý. Đăng tải bài tường thuật này là việc ngoài ý muốn của anh, nhưng bởi sự yêu cầu khẩn khoản của tôi,  anh đã đồng ý.   Dẫu sao đây cũng là một dịp để xác nhận chiến công của những chiến sĩ vô danh và các đồng đội mà anh còn nhớ tên trong đó có Trung Sĩ Trọng Pháo (TSTP) Xuân, Hạ Sĩ Nhất Vận Chuyển (HS1VC) Tây, Hạ Sĩ vận Chuyển (HSVC) Sáu, và còn nữa...
Cũng nhân tiện chúng tôi thuộc khóa đàn em Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) xin được cảm kích chiến công của HQ Tr/úy Cơ Khí (CK/HHTT) Huỳnh Duy Thạch là đàn anh (thuộc khóa 13 HHTT), nguyên Cơ khí Trưởng của Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ10 đã đi theo chiến hạm vào lòng đại dương.
Xin độc giả dành cho anh Tất Ngưu và các đồng đội của anh sự tri ơn thành thật nhất.  Riêng tôi, xin "thẩm quyền nước Việt" trao đến các anh bằng Tưởng Lục cao quý nhất, Anh Dũng Bội Tinh, và Đệ Nhất Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, và hằng mong Thượng Đế, Trời, Phật luôn theo sát phò hộ các anh.
Phó Thịnh Đường (nguyên Hải Quân Thiếu Úy Hàng Hải Thương Thuyền)
Florida, Spring 2006


Bổ túc chi tiết:
Trước trận hải chiến, Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ11 hiện diện tại quân cảng Đà Nẵng.   Lúc trận chiến diễn ra, HQ11 đã rời bến đi tăng viện Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10.  Khi rời bến HQ11 đã nhận giữ thư từ của HQ10.  Giữa đường đến quần đảo Hoàng Sa,  để tránh không tập của địch và bảo toàn lực lượng, HQ11 đã được lệnh gọi quay trở về.  Trên HQ11 có HQ Th/úy HHTT Nguyễn văn Kết.  Mới đây Kết có gởi cho Tất Ngưu một điện thư như sau.
(E-mail ngày 30 tháng 3 năm 2006)
Không biết là Tất Ngưu có biết  (hay có nhớ) rằng tớ là người đầu tiên nghe danh sách các chiến sĩ của HQ10, được tầu buôn Hòa Lan vớt lên …
Hôm đó tớ đi ca đêm trên Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ11, khi anh hạ sĩ trực máy truyền tin nhận được tín hiệu từ tầu buôn Hòa Lan, tớ liền lên máy. Bên kia là một giọng nói Việt Nam, đọc cho tớ nghe tên của các chiến sĩ được vớt lên tầu …
Tớ không thể nào diễn tả được cảm xúc của mình lúc đó khi nghe tên của Chuẩn úy Tất Ngưu được đọc lên trong máy …
Ký tên,             
Nguyễn văn Kết 

Sau đây là tên các chiến sĩ sống sót được chép lại từ quyển nhật ký của Tất Ngưu:
Danh sách thủy thủ đoàn thuộc Hộ Tống Hạm NHẬT TẢO HQ10 đã trở về sau trận hải chiến Hoàng Sa:
1 Trung sĩ Bí Thư TSBT Võ văn Bằng
2 Trung sĩ Tiếp Vụ TSTV Đỗ kim Hoàng
3 Hạ sĩ 1 Trọng Pháo HS1TP Nguyễn văn Tám
4 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Trần ngọc Sơn
5 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP  Phạm văn Lợi
6 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Võ văn Tuấn
7 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Lê tấn Hưng
8 Hạ sĩ Trọng Pháo HSTP Vương văn Và
9 Hạ sĩ 1 Cơ Khí HS1CK Lưu tố Nữ
10 Hạ sĩ Cơ Khí HSCK Nguyễn hồng Cứng
11 Hạ sĩ Cơ Khí  HSCK Huỳnh văn Hòa
12 Hạ sĩ Tiếp Vụ HSTV Nguyễn văn A
13 Thủy thủ 1 Cơ Khí TT1CK Trần văn Hà
14 Hạ sĩ Bí Thư HSBT  Đỗ văn Thành
15 Thủy thủ 1 Thám Xuất TT1TX Trương văn Long
16 HQ Trung úy K8/OCS Hà đăng Ngân
17 HQ Trung úy K20/NT  Phạm văn Thì
18 HQ Trung úy K1/70 ĐB Ngô văn Hòa
19 HQ Trung úy  K25/VBĐL Nguyễn đông Mai
20 HQ Thiếu úy  K24/NT  Phạm thế Hùng
21 HQ Chuẩn úy  K1/IOCS Tất Ngưu


TRẬN  HOÀNG  SA

Nhật Ký của Tất Ngưu   
Sài Gòn ngày 30 tháng 5 năm 1974,

            Tôi đã sống lại một kiếp sống thứ hai.  Phải, tôi đã thoát chết, đã kinh nghiệm một cái sống khi tôi không còn một tia hy vọng trong trí não.  Nhưng thật sự tôi đang còn đây, và tôi sẽ thuật lại một trận chiến hãi hùng đầy cam go, và một cuộc sống lênh đênh trên mặt biển liên tục bốn ngày ba đêm trên một con bè với một túi thực phẩm chỉ gồm kẹo và nước uống.



“Te-Tít … Te-Tít … Te-Tít …Te-Tít … Te-Tít … Nhiệm sở vận chuyển.”
Hạm trưởng hiên ngang đứng trên đài chỉ huy ra lệnh tháo giây..  Một số anh em khấp khiểng chạy về chiến hạm.  Họ vừa đi nhậu về, hôm nay mới lãnh lương mà. Nhân viên trên tầu chỉ có thế, lãnh lương ra thì lại đi uống rượu.
“Nhanh lên, tầu rời bến, nhanh lên !” 
“Tủm !”
“Ối !”
Anh HS1TP Tám chếnh choáng rơi tùm xuống nước.  Tôi thấy hạm kiều náo động, nghe tiếng hối thúc: 
“Thả phao”,  “Vớt người”, …
Đó phải chăng là một điềm chẳng lành.
Chiến hạm chúng tôi (HQ10) sau một đêm lình bình tuần tiễu tại cửa Đà Nẵng, nhận lệnh theo HQ 5 trực chỉ quần đảo Hoàng Sa.  Nhiệm vụ của chúng tôi là yêu cầu các thuyền đánh cá của Trung Cộng rời khỏi thềm lục địa của đảo Quang Hòa (Duncan). 
 “Chuẩn Úy,  Chuẩn Úy, tới giờ đổi ca”.   Mắt nhắm mắt mở tôi nhìn đồng hồ..   Đã 2345H (11 giờ 45 đêm) rồi, nhanh nhỉ.  Thời tiết tháng Giêng còn hanh lạnh, tôi khoác thêm một chiếc áo choàng mầu navy blue.   Nhận ca, tôi được biết chiến hạm đang thả trôi tại quần đảo Hoàng Sa.  Cùng có sự hiện diện của cả khu trục hạm HQ4, hai tuần dương hạm HQ5, và HQ16.
Trong suốt ca trực từ 2400H đến 0400H, tôi cùng HSTP Lợi nói chuyện vui với nhau.  Anh này vừa mới tân đáo và đây là chuyến công tác đầu.  Tôi nghe anh ta kể lại những ngày huy hoàng sống ở giang đoàn.  Nào là bắt những con tôm càng, thịt, bánh mì sandwich, v.v… Nghĩ mà thú nhỉ !
Vào khoảng 0100H, tôi nhận được chỉ thị - không đúng - một công điện khẩn thì đúng hơn:  “0600H GIỜ THI HÀNH”.  Tôi trình công điện lên hạm trưởng.  Đêm đó hạm trưởng an giấc tại phòng vô tuyến phụ, cạnh đài chỉ huy.  Thời gian đi như chợp mắt,  mới đó mà đã đến gần 0400H rồi.  Tôi gọi:
“Anh Lợi ơi, xuống gọi Th/úy Mai lên đổi ca giùm đi!”
Thế rồi hạm trưởng thức giấc.  Đứng trên đài chỉ huy, ông ngó nhìn xung quanh để quan sát vị thế, rồi ra lệnh kéo còi nhiệm sở tác chiến.   Một hồi còi rợn người nổi lên:   “ Tít … Tít … Tít … Tít … Tít … Tít…”  Tiếng của hạm trưởng vang trên hệ thống nội thông :
“Đây là Hạm Trưởng”
“Nhiệm sở tác chiến, nhiệm sở tác chiến”
“Tất cả vào nhiệm sở tác chiến”
“Nhiệm sở tác chiến”
“Tất cả vào nhiệm sở tác chiến”..     “Tít … Tít … Tít … Tít … ……”
Tất cả anh em thủy thủ đoàn vội vã thức giấc.  Ai nấy vào nhiệm sở của mình.  Riêng tôi, vừa đi xong ca cách mạng (phiên trực hải hành từ nửa đêm đến tờ mờ sáng) lại vướng vào nhiệm sở tác chiến, cảm thấy mệt đừ.  Ngay sau đó:
“Nhiệm sở phòng không”   “Nhiệm sở phòng không”
Tôi thấy ngay lập tức những nòng súng rợp rợp hướng lên trời góc 45 độ,  nào là các đại bác 76 ly 2, bô-pho 40 ly, 20 ly, đại liên 30, súng cối 81 ly.
“Đài chỉ huy, đây sân mũi, 76 ly,  2 cò điện bất khiển dụng”
“Thôi được, cho dùng cò chân”
“Đài chỉ huy, đây 41, 42  tôi phát hiện một phi cơ bay từ ánh trăng hướng về phía ta, hướng 3 giờ.”
“Đài chỉ huy nghe rõ, tất cả các khẩu hướng về hướng 3 giờ”
“Đài chỉ huy, phi cơ bay vào mây và mất dạng”
Toàn thể nhân viên chiến hạm cứ luôn ở vào một tình trạng căng thẳng.  Chắc hẳn mọi người, ai cũng đang linh cảm rằng một cuộc hải chiến sẽ xảy ra. Có lẽ cũng giống như các bạn đồng đội, đầu óc tôi đang nghĩ đến một chiến thắng huy hoàng, một ngày về với bộ tiểu lễ trắng tinh, hiên ngang đứng giữa hàng quân, trên ngực đầy những huy chương. Tất nhiên, không ai nghĩ đến hậu qủa của một cuộc chiến:  thương vong.
 Khoảng thời gian từ 4 giờ sáng đến 6 giờ sáng ngày 19 tháng Giêng, chiến hạm vẫn tiến, và nhân viên vẫn cảnh giác trước phi cơ của địch.   Trời lờ mờ, chưa tỏ hẳn ánh dương, hải đội của ta lập thành một đội hình.  Bên địch (Trung Cộng) cũng gồm bốn chiến đỉnh 389, 396, 271, và 274, vẫn chạy đan qua đan lại có vẻ như muốn khiêu khích.  Lắm lúc như muốn đâm thẳng cả tầu vào chiến hạm của ta.  Sau một thời gian kèm sát bên nhau, địch và ta dường như đang tìm những vị thế thích hợp để công kích nhau.
Sau một loạt đèn hiệu được choé sáng, từ đảo nọ bốn chiếc tầu đánh cá hướng về phía Bắc, di tản, và bốn chiến  đỉnh  của họ  vận  chuyển  song song  để bảo vệ.
Thế rồi anh em trên chiến hạm thoáng nét vui mừng.
Ồ! họ đã chịu lui bước, trả lại mảnh đất cho chúng ta.  Nào ngờ sau khi bốn tầu đánh cá đi khá xa, bốn chiến đỉnh địch quay đầu trở lại với lối vận chuyển đầy khiêu khích.   Chiến hạm lại nhận được lệnh chuẩn bị tác chiến.  Tất cả nòng súng hướng vào phiá đảo để tránh sự khiêu khích với tàu địch.  Trên tầu anh em xôn xao căng thẳng, chỉ chờ một hiệu lệnh tác xạ ban ra là những viên đạn vô tri này sẽ phá tan một hòn đảo nhỏ bé ngoài khơi, và bao nhiêu nhân mạng trên đảo sẽ bị chôn vùi dưới lòng đại dương.
Trông chờ mãi, khẩu lệnh vẫn chưa được ban hành,  thủy thủ đoàn có phần nản chí, không còn vẻ hăng say của thoạt đầu, xem những cuộc quần thảo giữa địch và ta như trò đùa.   Anh em trở nên chán ngán, quên hẳn sự căng thẳng giữa địch và ta, bẵng đi việc sẵn sàng của nhiệm sở tác chiến.   Một số nhỏ hớ hênh để súng cá nhân xuống sàn tầu rồi cùng trò chuyện vui đùa với nhau.  Thức dậy từ lúc tờ mờ sáng đến giờ không có gì lót dạ,  anh em chúng tôi cảm thấy đói, riêng tôi như thấy kiến bò trong bụng, may quá chúng tôi được lệnh luân phiên nhau vào nhà ăn để dùng cháo. 
“Th/úy Mai. Anh vào dùng trước, tôi sẽ ăn sau.”
Khi  Th/úy Mai  vừa  dùng  diểm  tâm  xong, chúng  tôi được lệnh tác xạ mà mục tiêu là các chiến hạm địch:  Bất kể nơi nào, thấy chiếc nào trong tầm thì cứ bắn, mục tiêu chính yếu là chiếc dương tốc đỉnh 396.
Và rồi những nòng súng nay đã được hướng vào chiến hạm địch.  Rồi những chiến hạm của địch và ta lại tiếp tục quần thảo nhau.
Vào khoảng sau 0900H, một lệnh “BẮN” được ban hành mà tôi nghe được qua chiếc headphone.  Riêng tôi, trong nhiệm sở tác chiến là sĩ quan đảm trách 2 khẩu 20 ly và súng cối 81 ly ở sân sau.  Tôi vội vã hô to:
“Bắn, bắn nhanh lên”.
Những tiếng súng ầm ầm vang dội, những tia sáng thi nhau bay về phía địch, những đóm lửa lần lượt bao chụp lên chiến hạm địch. 
TSTP Xuân hiên ngang đưa khẩu 20 ly qua lại,  bắn liên hồi.
“Tạch … Tạch … Tạch …”
“Ối ! sao khẩu 20 ly không bắn nữa ?”
“Thưa Ch/úy, súng trở ngại tác xạ”
“Trở ngại thế nào ?”
“Kẹt đạn”
“Bắn một nòng”
“Tạch … Tạch … Tạch …”
“Hết đạn”
“Nằm xuống, để tao”,  Hạ sĩ nhất vận chuyển Tây thét lên, gạt Xuân ra, dựt lấy khẩu 20 ly.
“Tạch … Tạch …Tạch ..”
Trong khi đó HSVC Sáu lom khom chạy qua chạy lại lấy đạn 81 ly nạp vào khẩu súng cối.
 “Ầm!”  “Ầm!”
Tầu địch bốc cháy.  Tôi thấy những viên đạn trọng pháo lớn nhỏ đua nhau bám vào tầu địch. 
“Rầm !!!”
Có giọng nói giữa đám anh em đang hỗn loạn:
“Tàu Trung Cộng đổ bộ, anh em cẩn thận”.
Một loạt đạn M16 túa bay ra từ đài chỉ huy.  Nhìn phía trước, tôi thấy mũi tầu của ta đâm vào tầu địch.  Thế rồi hai tàu từ từ dang ra.  Tàu ta bất khiển dụng cả hai máy chánh, cứ vậy mà  trôi lênh đênh.
 Sau khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những tiếng súng nhỏ.  Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt.  Anh em đồng đội chuẩn bị cứu thương lẫn nhau.  Hầm máy đang cháy, nhân viên phòng tai lo cứu hỏa.  Một số nhân viên cơ khí chết thui dưới hầm máy.  Những anh còn tỉnh thì được kéo lên boong chánh.  Trung úy Huỳnh Duy Thạch (cùng là đàn anh của tôi xuất thân từ trường Việt Nam Hàng Hải Thương Thuyền, cũng là Cơ Khí Trưởng của chiến hạm HQ10, chẳng may đã tử trận trong hầm máy.  Ôi ! tiếng rên la áo não ngần nào.  Đài chỉ huy hoàn toàn tê liệt, cả cầu thang từ trung tâm chiến báo (CIC) lên đài chỉ huy cũng bay mất một góc.


Phòng y tá hoàn toàn thiêu trụi.  Trong phòng ăn sĩ quan (được sử dụng làm trung tâm phòng tai), sĩ quan phòng tai HQ Thiếu Úy Bửu (Khóa 25/Võ Bị Đà Lạt) đang rên la với một chân trái bị bay mất, máu ướt đẫm người. Vừa được đưa ra đến sân sau, anh đã trút hơi thở cuối cùng.  Các anh em bị thương khác không có thuốc men cấp cứu gì hơn, chỉ dùng vạt áo để băng bó.
“Ồ ! HQ16 , anh Thương hãy đánh SOS cho họ đến tiếp cứu!”
Chúng tôi đánh hiệu bằng cờ, nhưng HQ16 đã quay đầu đi thẳng trong sự thất vọng hoàn toàn của chúng tôi.  Những tiếng súng lại bắn vang, cùng với những tiếng nổ trên tàu..  Chính lúc này Thiếu Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà đã anh dũng hy sinh trên đài chỉ huy.  Tôi còn nhớ là đài chỉ huy trước khi bị tê liệt hoàn toàn đã ra lệnh cho chúng tôi đào thoát.  Những giòng tư tưởng quay cuồng trong tôi.  Thế còn tàu?  và nếu có đào thoát, chắc hẳn có sống không? Rồi tôi tự nhủ rằng HQ16 sẽ quay lại cứu mình.
Những tiếng súng lại vang lên, tiếng nổ trên tàu lại tiếp diễn.  Nhìn  ra  phía  sau, hai  chiến  hạm  địch  lù lù tiến đến, hướng về phía mình.  HQ16 di tản càng ngày càng xa.  Trên boong thây xác ngổn ngang, chiến hạm trơ trơ mặc sóng gió đẩy đưa. Trên mặt biển, đồng đội lô nhô trên những bè cấp cứu.  Ôi thay! tôi tự hỏi mình có nên đào thoát hay không.
 Hạ sĩ nhất cơ khí Nữ chạy đến với giọng rung rung:
“Ch/úy.  Ch/úy biết bơi có gì Ch/úy kéo hộ tôi nhé!”
“Rồi cứ nhẩy đi, tôi sẽ kéo ra bè cho.”
“Ch/úy, phao này cho hơi vào cách nào ?”
Tôi bèn kéo chốt cho hơi vào phao và nói anh ấy nhẩy đi.  Một chốc sau ngó xuống nước tôi lại không thấy anh ta đâu nữa.  Tôi đoán có lẽ vì sóng to quá nên anh ta dạt vào thành tàu.  Ngay lúc đó, anh TSVC Đa và HSCK Hòa hấp tấp chạy đến:
“Ch/úy nhẩy nhanh lên, kho đạn 20 ly và 40 ly nổ, nhẩy nhanh lên!”
TSVC Đa, HSCK Hòa, và tôi cùng nhảy xuống.  Tôi hoảng khi thấy bè thì quá xa, sóng lại to, ngẩm không biết mình có thể bơi ra đến nơi không.
Xin mở ngoặc nơi đây là: Trước khi đào thoát, tôi có gọi luôn cả HS1VC Tây cùng nhẩy, nhưng anh ta trả lời rằng: “Thôi, tôi ở lại ăn thua đủ với Trung Cộng. Ch/úy cứ nhẩy đi.”
Thật đúng y như câu nói của người xưa:  “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.  Chẳng biết HS1VC Tây có được đến trường để học và thấu hiểu câu nói thâm thúy này không?  Anh có nghe ai bàn về câu nói ấy không?  !! Thế mà anh đã thực hiện được sự việc đó mới là hay chứ.  Việc mà chỉ có những đại anh hùng, các bậc trượng phu không biết “tham sinh úy tử” là gì họa may mới làm được.  Thật là anh hùng.  Tôi xin ngã mũ.
Lớp ngớp trên mặt biển, bơi mãi vẫn không đến bè được, tôi mới tiếc rẻ: “Ối ! phải biết ở lại tàu còn hơn!”  Chất thuốc mầu vàng của bao thuốc trị cá mập trong phao cá nhân của tôi đã được bật ra,.  Thuốc hòa lẫn với nước biển biến thành một vũng mầu xanh lá cây.  Tôi cứ bơi, bơi mãi, bè cứ dạt xa. Mỗi lần sóng đánh đến, nước biển lại tràn vào miệng cùng với thuốc trị cá mập, có vị đắng đắng cay cay,  Ôi ! hơi sức nào để ý  đến nữa, mục đích là sự sống.  Chỉ làm cách nào bám vào được bè, mạng sống mới có thể vãn hồi.  Nhưng mệt nhừ rồi, còn sức đâu nữa mà bơi ra bè.  Không, ta phải sống, bản năng sinh tồn lúc đó không cho phép tôi ngừng, cứ bơi, bơi mãi, đến khi bám được bè, nhìn thấy mặt anh em, tôi ngất đi trong giây lát..  Phải chăng lực tiềm tàng trong cơ thể đã cạn, hay là ta đã tìm thấy sự sống nên lực đó không cần thiết nữa.  Khi được kéo lên bè, người tôi lã đi vì đói khát mệt mỏi.
Thật là “họa bất đơn hành”, sau khi ngồi yên trên bè, kéo chung những bè lại, nhìn về hướng tàu, trong khi hai chiếc tốc đỉnh của Trung Cộng sân sân tiến tới, khẩu 20 ly trên HQ10 cứ nổ vang.  Hai chiến hạm của TC cũng không vừa, cứ vừa tiến vừa tác xạ, thế rồi khẩu 20 ly đành im bặt.  Những tiếng súng sau cùng đó...  Hỡi ơi ! anh Tây, anh Sáu, các anh đã hy sinh đền nợ nước cùng một số đông các chiến sĩ bất tử của HQ10.  Các anh ngã mình một cách anh dũng, nhưng có ai biết đến, chỉ có những đồng đội cùng tàu với hai anh mới thấu hiểu.  Nói đến sự hy sinh chiến đấu vô vọng, tôi biết rằng giá trị còn tùy thuộc quan niệm của mỗi con người.  Có người cho rằng: “Quân tử phục thù, thập niên vị vãn”.  Nhưng theo tôi, các anh là những tấm gương anh dũng rạng ngời.  Đúng như vậy, anh Tây rất xứng với dòng chữ xâm trên tay “Mặc Thế Nhân”.  Thân xác hai anh giờ này đã chôn vùi dưới đáy biển Hoàng Sa cùng với chiếc tàu thân yêu HQ10.  Ước gì tên tuổi của hai anh HS1VC Tây và HSVC Sáu được lưu mãi trong sử xanh.


Hai chiến hạm của dòng khát máu Cộng Sản Trung Cộng vẫn không buông tha một chiến thuyền đã đang bốc cháy và bất khả vận chuyển.  Chúng cứ luân phiên nhau vây đánh chiếc HQ10, sau đó quay đầu tiến đến bè của chúng tôi.  Chúng tôi nghĩ là nếu họ tác xạ mình thì anh em lại đào thoát lần thứ hai.  Mắt Thượng Đế vẫn còn đây, bầu trời xanh lồng lộng còn đó, mọi sự đã an bài sẵn.  Tôi tự nhủ hãy phó thác mạng sống mình cho Trời Phật.  Số đã sống thì không thể chết, số chết thì không sao cứu vãn được. May thay họ lại bỏ đi.  (Tôi nghĩ rằng không phải họ vì nhân đạo - cộng sản làm gì có nhân đạo - lý do chính là chung quanh đây chỉ có những đảo mà họ chiếm và cả một mặt biển rộng mênh mông.  Họ chẳng cần vớt người làm chi cho nhọc công, để chúng tôi chết dần mòn khỏi phải mang tiếng với quốc tế.)
Qua cơn bỉ cực đầu tiên, tôi phải đương đầu với đại dương trùng sóng và đói khát.  Người đã mệt lã đi, lại cứ nôn mửa suốt hơn cả tiếng đồng hồ.  Tôi say sóng cũng thường rồi, nhưng lần này uống nhằm mấy ngụm nước có thuốc trị cá mập, tôi ói ra hết mật xanh, mật vàng. Vừa ói vừa rên, tôi cảm thấy người không còn chút sức lực nào.
Nhìn lại xung quanh, tôi thấy tất cả có năm chiếc bè, bốn lớn và một nhỏ, hầu hết đã bị bắn thủng.  Chúng tôi cột chung các bè lại với nhau. Nhưng vì sóng to gió lớn, một cái bè bị tản mác. Mặc dù chúng tôi đã tìm mọi cách nhưng không thể lại gần nó được.  Bè đông người và được cột chum nhau, chìm xuống mặt nước. Chúng tôi không có một dụng cụ nào khác để chèo ngoài những bàn tay hết sinh lực. Trôi đến chiều hôm đó (ngày 19 tháng giêng), chúng tôi thấy một hoang đảo có nhiều cây cối.  Mắt trông thật rõ nhưng lấy tay khoát nước mãi vẫn không sao lại gần đảo được, vì hôm đó sóng quả rất to.
Sau khi kiểm điểm lại chúng tôi chia làm bốn bè:
Bè số 1: coi như bè hướng dẫn, gồm có tôi, Tr/úy Thì, Tr/úy Hòa, Th/úy Mai, HSBT Thành, HSCK Hòa, và TS1GL Thương.
Bè số 2: bè hậu bị tiếp sức, gồm có Th/úy Hùng, TSBT Bằng, TSTV Hoàng, HSTV A, HSTP Lợi, HSTP Tuấn và TT1CK Hà.
Bè số 3: bè tản thương, gồm HS1TP Hưng, HSTP Và, TSQK Tuấn, ThSTP Châu, TSĐT Thọ.
Bè số 4: bè dưỡng thương, đó là một bè nhỏ có hai mảnh ván bé kê lên để bệnh nhân có thể nằm cho không ướt người.  Bè gồm có TSVC Đa, và TSTP Nam.
Riêng về bè trôi dạt không thể cột chùm được kia gồm có: Hạm Phó Trí, Tr/úy Ngân, HS1CK Nữ, HSTP Sơn, HSCK Cứng, TT1TX Long.
Bầu trời đã tối mịt, sóng lại to hơn.  Anh em mệt lã người phần vì đói khát, phần vì mệt nhọc sợ hãi.  Chúng tôi cứ mặc cho bè trôi quanh đây với hy vọng sáng sẽ bơi vào đảo được.  Đêm hôm đó Hạm Phó Trí đã trút hơi thở cuối cùng.  Thân xác Hạm Phó cũng đành giao cho thủy thần định liệu.
Suốt đêm cơn lạnh đã hành hạ cơ thể của tôi, với bộ quân phục ướt như chuột lột.  Anh em cứ ôm gồng lấy nhau mà rung rẩy chờ đêm qua.  Đêm sao qua chậm thế!  Giờ này mới ba giờ đêm, bốn giờ, năm giờ, … trời bắt đầu sáng.  Thật là quái dị.  Đêm vừa qua lại không trăng sao, sáng nay mặt trời lại không mọc.  Phải chăng ông Trời cũng không dám diện kiến một cảnh tượng thê lương trên biển của thủy thủ đoàn HQ10?
Thân mệt nhừ, tôi quay qua quay lại nhìn dáo dác, rồi lẩm bẩm:
“Ủa ! đảo hôm qua đâu ?! Thôi rồi anh em ơi, chúng ta không biết đã trôi về đâu?!”
Ai nấy đều lộ vẻ thất vọng. Khi TS1GL Thương mang ra được một la bàn cầm tay thì chúng tôi mới hỡi ơi là hiện tại luồng nước xoáy đang đưa bè theo hướng Đông Bắc, nếu muốn vào đảo anh em phải chèo ngược lại theo hướng Tây Nam.
Cơn đói khát lại hành hạ.  Sau khi kiểm điểm thì thấy bè số 1 không có bao thực phẩm nào cả dù rằng dây buộc vẫn còn đó.  Bè số 2, 3 mỗi bè gồm một bao thực phẩm chứa 20 lon nước (cỡ chai coca-cola) và 12 bao kẹo, mỗi bao gồm 8 miếng kẹo.   Thế rồi phải lấy ra gom lại chia đều ra.  Trong đó có 6 bao kẹo không thể sử dụng được, nhưng cũng để dành lại đó.  Chúng tôi khui những lon nước, mỗi người hớp một ít, và ăn một miếng kẹo.
Những người bị thương nặng như TS1GL Thương, TSQK Tuấn, có lẽ bị mất quá nhiều máu nên họ cứ đòi nước mãi.  Ngày đầu tiên trôi dạt trên biển chúng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ lên được một đảo nào đó gần đây, hay có thể được chiến hạm của ta ra cứu vớt, nên vấn đề uống nước ngọt chưa bị hạn chế.  Nhất là nghe các anh bị mất nhiều máu rên rỉ gọi khát chúng tôi chúng tôi không đành nên cho họ uống cả lon.  Khoảng 9 giờ sáng ngày 20 tháng Giêng, TSQK Tuấn đã ra đi một cách âm thầm không một lời trối trăn,  mà cách đó ba bốn giờ đồng hồ miệng cứ kêu la khát, khát quá…. Ý thức được rằng sẽ còn nhiều ngày lênh đênh trên biển nữa, nước ngọt rất cấp thiết, chúng tôi tự hạn chế trong việc sử dụng nước ngọt và kẹo. Bè cứ mặc cho dòng nước đưa trôi. Sáng hôm nay lại nghe những tiếng súng nổ vang.  Chúng tôi thắc mắc phải chăng chiến hạm tăng phái của ta đã đến và một cuộc hải chiến lại tiếp diễn?
“Anh em hãy gắng sức chèo về hướng Tây Nam, đúng hướng đó rồi, hướng của những hòn đảo hôm qua ta tranh giành.”...
“Cố lên anh em, chúng ta sẽ sống nếu gặp lại tầu bạn.”...
Khoát nước, chèo mãi vẫn không đi tới đâu.
“Thôi chúng ta tháo hai miếng ván của bè nhỏ để chèo đi, chèo mãi theo hướng Tây Nam sẽ đến đảo ngay.”
“Anh em cứ cố gắng lên, đừng nghỉ tay, nếu không công trình khoát chèo, bơi từ sáng đến gìờ coi như hoang phí.  Đêm nay chúng ta luân phiên chèo nhé!”...
Bè nay đã được cột chùm vào nhau; lúc đầu cột ngang nhau, nhưng sóng đập mạnh, các bè cứ va đập vào nhau.  Bè lật, vỡ bể thêm ra.  Sau cùng đành cột theo hàng dọc nối đuôi nhau.  Bè của tôi dẫn đầu, sau đến bè số 2, số 3, rồi bè nhỏ.  Những bè sau đa số là anh em bị thương, mệt mỏi, chán nản, nên chỉ còn chúng tôi (Tr/úy Thì, Th/úy Mai, Th/úy Hùng, Tr/úy Hòa, HSTV A, và tôi) là những người còn đủ sức để chèo.   Đêm đó cứ luân phiên nhau mà chèo.. Lúc đầu dựa vào hướng của la bàn, nhưng trong đêm tối la bàn đã bị đánh mất, phải nhờ các vị sao định hướng để chèo.  Suốt đêm anh em chỉ được nghỉ ngơi đôi chút.
Khoảng sáu bảy giờ sáng ngày 21 tháng Giêng, thình lình tôi thấy hướng Tây Bắc có hỏa châu lóe lên rồi mất hẳn.  Tôi mới hô to:“Có hỏa châu, một là chiến hạm tìm kiếm ta, hai là lính địa phương quân trên đảo.  Anh em hãy chèo về hướng đó nhanh lên!”
Nhưng trời chưa tha bọn người hoạn nạn như chúng tôi. Sáng hôm đó sóng quá to, hơn nữa lại phải chèo ngược sóng, cho nên cứ chèo mãi mà hình như bè vẫn ở tại chỗ.  Buồn thay, buổi sáng nay thêm một bạn đồng nghiệp nữa lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt - TS1GL Thương.  Buổi chiều, thêm TSĐT Thọ từ giã anh em.  Xin được mỹ miều chua xót ghi là “Sáng, thủy thần lại gọi thêm trình diện thủy cung. Chiều, thêm người theo hạm trưởng đi công tác đáy biển bằng tàu ngầm HQ10.”
Có lẽ trước vài tiếng đồng hồ mà thủy thần gõ cửa kêu tên, mọi người đều nghe văng vẳng bên tai một cách yếu ớt “Khát quá … khát quá …”  Tinh thần của anh em lúc này có vẻ giao động, nghĩ đến giây phút thần chết sắp gọi tên mình, nghĩ đến những bạn đồng đội đã đi “công tác trên tầu lặn với hạm trưởng.” Nếu không muốn nói là mọi người như sắp điên loạn.  Chiều hôm đó Thượng Sĩ Châu hỏi tôi:
“Đây cách Đà Nẵng bao xa?”.
“Khoảng trăm mấy, hai trăm hải lý.”, tôi nói.
Thế là ông tuyên bố ai muốn cùng đi với ông ta về Đà Nẵng thì đi, nếu không ông sẽ đi một mình!  Đoạn ông đẩy những anh bị thương trên bè xuống biển.  Thế rồi chúng tôi lại phải thất công lần lượt kéo từng người lên.   Thượng Sĩ Châu đã mất trí !!
Ban ngày nhìn thấy chim hải âu bay qua lượn lại, chúng tôi cứ hy vọng gần đây sẽ có đảo.  Nhưng nhìn dáo dác, biển cả vẫn hoàn toàn biển cả.  Kẹo và nước ngọt đều dùng cạn.  Anh em bắt buộc phải dùng những lon không đã hết nước, pha nước tiểu với nước biển để uống.  Lúc bấy gìờ không ai để ý đến đói, nhưng cơn khát hoành hành cảm thấy thấm thía.  Đêm đó ai nấy đều mệt nhừ, đến nỗi các giây cột các bè lại với nhau đứt hồi nào không hay.
Sáng hôm nay, ngày 22 tháng Giêng, tỉnh dậy tôi không còn thấy một bè nào cột bên cạnh bè mình.  Nhìn về trước, một bè trôi khá xa.  Ngó về phía phải cũng thấy một bè, nhưng cố gắng chèo mãi mà không sao tới nổi.  Dần dần những bè đó khuất dần ngoài tầm mắt của tôi  Trưa rồi lại chiều.  Chân tôi giờ này sưng thủng, không sao cử động được, miệng cứ tự động thều thào hai tiếng “khát quá … khát quá”.  Mắt, miệng đã sưng vù lên.  Th/úy Mai đã nói lâm râm:
“Ch/úy Ngưu chắc không qua khỏi đêm nay.”
Tai tôi vẫn nghe thấy những tiếng đó, đầu óc tôi cũng biết rằng mình không thể nào thoát khỏi tử thần trong đêm nay - có lẽ giờ này hạm trưởng đang cứu xét mình có đủ điều kiện đi tàu lặn HQ10 chăng?
 Chiều hôm đó, khoảng sáu giờ, anh em chuẩn bị ôm lấy nhau để qua đêm rét buốt.  Thình lình HSCK Hòa thét lên: “Có tàu!”
“Ôi ! tàu đâu, tàu đâu?”
Một cứu tinh hiện trước mặt.  Lúc đó tự dưng tôi bật đứng lên trên bè được, tay gỡ áo phao đỏ mà phất.  Tôi hy vọng họ sẽ phát giác ra mình, dù rằng chiếc tàu cứu tinh còn cách bè mấy hải lý.

Tàu dầu Kopionella của Shell Hòa Lan


“Phải rồi ! Chúng ta đã sống, tàu đang ngừng!”
“Có lẽ họ đã phát hiện chúng ta, anh em cố chèo về hướng tàu nhanh lên, nếu đêm tối họ sẽ không nhìn thấy để cứt vớt ta, la lớn lên anh em.”
“ Một hai ba.... Ô!”  “ Một hai ba... Ô!”  “123...Ah!”  “123... Ah!”, một mặt lo chèo, mặt khác la to lên.
“Hình như bè không tiến tới chút nào cả, và tàu họ cũng không vận chuyển!”
“Anh em ơi, nhẩy xuống bơi!”
Nhưng hơi sức đâu mà bơi nữa.  nhất là vùng này đầy cá mập, nay thuốc chống cá mập lại không còn.
“Ô kìa! tàu quay đi đâu? thôi chết rồi, hết hy vọng rồi,  cố lên anh em!”
Hy vọng xen lẫn thất vọng.  Màn đêm đang dần dà bao phủ thì bỗng xa kia ánh sáng đèn tàu rực lên.  Ôi chao! Trông chiếc tàu dễ thương biết bao!  Sau đó một ánh đèn pha rọi sáng và từ từ di chuyển.
“À ! họ đã thả dzu dzu ra để vớt chúng ta.  Sao họ chạy đường kia?”
“Có lẽ họ đang vớt đồng đội mình.  Kìa, họ tới mình, la lên cho họ biết anh em!”
 “Ah ! Oh ! help us sir, please help us.” 
“Okey, take it easy, be careful.  Are there any wounded ?”
“Yes sir, most of us are wounded.”
“All right …”
Chiếc dzu dzu từ từ cặp sát bè và đưa chúng tôi lên. Dzu dzu chạy một cách chậm chạp về tàu.  Trên dzu dzu ngoài một nhân viên lái, và hai nhân viên phụ tá còn có vị thuyền phó người Hòa Lan, tay cầm một máy truyền tin đang liên lạc với thuyền trưởng,.  Chiếc dzu dzu cặp sát vào tàu.  Trên tàu, các thủy thủ người Hồng Kông đang thả dây xuống, móc vào dzu dzu.  Thế rồi dzu dzu được nhẹ nhàng kéo lên.  Khi thành của dzu dzu ngang với boong tàu, một cầu thang bật ra, lần lượt cứ hai nhân viên lại dìu một người chúng tôi lên tàu.
Họ đưa chúng tôi vào một phòng ngủ, cởi tất cả quần áo ướt  ra, đắp cho mỗi người một tấm chăn, rồi cho chúng tôi luân phiên đi tắm rửa bằng nước ấm.  Cùng lúc đó họ đem cho chúng tôi sữa tươi, cà phê, soup, thuốc lá.  Sau đó thuyền phó hỏi tôi là hình như trong nhóm có một lieutenant.  Tôi đáp lại rằng chỉ có Lieutenant Junior Grade (tức là trung úy) và chỉ Tr/úy Thì.  Ông  đưa Tr/úy Thì đi tắm rửa và lên phòng  ông để liên lạc với Hải Quân Việt Nam.
Chúng tôi đã thật sự sống lại.  Ngay khi đó đồng hồ tôi chỉ đúng 12 giờ khuya, tôi hô to lên với anh em:
“Chúng ta đang qua đêm giao thừa trên chiếc tàu Hòa Lan Kopionella, vị ân nhân của chúng ta!”...
 Ghi chú:  Th/úy Nguyễn đông Mai là một sĩ quan hiện dịch, xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, trước khi xảy ra trận chiến anh đã có nghị định và sắp đến ngày đeo lon Trung Úy; sau khi trở về, Tr/úy Mai được đặc cách thăng cấp lên chức Đại Úy. 
Tác giả: HQ Th/úy HHTT Tất Ngưu HQ10
Bổ túc chi tiết: HQ Th/úy HHTT Nguyễn văn Kết HQ11
Sửa kỹ thuật: HQ Th/úy K25NT Lê văn Kim
Giới thiệu và đánh máy: HQ Th/úy HHTT Phó thịnh Đường
Yêu cầu:  Tất cả bạn hữu và chiến hữu Khóa 25 SQ/HQNT và IOCS


********************************************************
--



Có Một Binh Chủng Nhảy Dù Bị Lãng Quên

$
0
0

On Tuesday,

Quý ACE thân mến,

Ngày hôm qua, trên diễn đàn của ykh chúng ta, anh Ngô Trọng Thọ, #2, chuyễn bài “Người Lính Dù Bị Quên Lãng” của tác giả Ngọc Trương dịch,  từ nguyên văn “The Forgotten South Vietnamese Airborne” của Đại Tướng Barry R. McCaffrey viết cho NYT. Cám ơn anh Thọ.

Nay xin mời quý ACE đọc bài “Có Một Binh Chủng Nhảy Dù Bị Lãng Quên”, cũng từ nguyên tác của ĐT McCaffrey viết, nhưng lại do anh Nguyễn Văn Phúc, cư dân Quận Cam và một thân hữu của Gia Đình Mũ Đỏ chuyên về dịch thuật, dịch và sẽ được đăng trong Đặc San Mũ Đỏ số 77 xuất bản vào cuối tháng Giêng 2018 này.

Đống thời mời quý ACE đọc tiếp luôn một bản dịch thuật của anh Phúc từ một chương viết riêng về binh chủng Nhảy Dù VNCH, của Đại Tướng Schwarzkopf, trong cuốn truyện “It Doesn’t Take A Hero” của ông. Đại Tướng Schwarzkopf đã là một sĩ quan cố vấn cho SĐND trong chiến trận VN.

Cám ơn anh Phúc có nhã ý chuyễn các bản dịch đến cho V. Chánh.

Thân mến, V. Chánh 


Có Một Binh Chủng Nhảy Dù Bị Lãng Quên


The Forgotten South Vietnamese Airborne
By Barry R. McCaffrey
August 8, 2017

Lời nói đầu:

Vào năm 1993, trong quyển tự truyện “It Doesn’t Take a Hero”, Đại Tướng Norman H. Schwazkopf đã dành nguyên một chương để viết về cảm nghĩ, thời gian ông phục vụ trong Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam; Năm 1995, tác giả Michael Martin (Command Sergeant) xuất bản quyển Angels in Red Hats: Paratroopers of the Second Indochina War, gồm nhiều hình ảnh và bài viết của các cựu cố vấn Hoa Kỳ phục vụ trong Sư Đoàn Nhảy Dù; Năm 2009, Đại Tá hồi hưu Robert L. Tonsetic viết quyển “Forsaken Warriors: The Story of an American Advisor who Fought with the South Vietnamese Rangers and Airborne, về những kỷ niệm thời chinh chiến, phục vụ trong vai trò cố vấn với hai binh chủng này, Tiểu Đoàn 44 BĐQ, và Tiểu Đoàn 2 Dù; Đến năm 2012, Đại tá hồi hưu Mike McDermott viết quyển sách “True Faith and Allegiance: An American Paratrooper and the 1972 Battle for An Loc”, về thời gian ông có mặt với Tiểu Đoàn 5 Dù trong trận đánh An Lộc; Vào tháng 5 năm 2014, Thiếu Tá hồi hưu John J. Duffy viết tập thơ “The Battle for ‘Charlie”, về trận đánh Đồi Charlie của Tiểu Đoàn 11 Dù; Cuối năm 2014, Đại Úy Gary N. Willis phi công Hoa Kỳ, từng bay biệt phái cho Sư Đoàn Nhảy Dù viết quyển “Red Markers, Close Air Support for the Vietnamese Airborne, 1962-1975, về các phi công bay yểm trợ không yểm, liên lạc với các cố vấn Hoa Kỳ trong các tiểu đoàn Nhảy Dù, cho những trận đánh của binh chủng Nhảy Dù. Cả sáu quyển sách này đều đề cao sự chiến đấu dũng mãnh của các người lính Nhảy Dù Việt Nam.

Những tưởng các quyển sách vừa nêu trên đủ nói lên được tấm lòng của các viên cố vấn Hoa Kỳ, dành cho các người bạn Nhảy Dù Việt Nam của họ. Nhưng, mới ngày hôm qua, ngày 8 tháng Tám, Đại Tướng hồi hưu Barry McCaffrey đã dành một sự ngạc nhiên cho người Việt tị nạn chúng ta, khi ông viết một bài viết ngắn trên báo New York Times [cho độc giả Hoa Kỳ], viết về những người lính Nhảy Dù Việt Nam, với tấm lòng cảm phục và sự tiếc nuối vô bờ.

Tôi xin phép chuyển dịch và đặt tựa bài viết: “Có Một Binh Chủng Nhảy Dù Bị Lãng Quên”.
Tôi đến Việt Nam vào tháng Bảy năm 1966, và cho nguyên cả năm sau tôi làm việc cố vấn với Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam. Đó là năm cuối mà chúng ta nghĩ là đang chiến thắng. Đó là năm cuối mà chúng ta có thể định nghĩa điều mà chúng ta nghĩ chiến thắng là như thế nào. Đó là năm của chủ nghĩa lạc quan, của gia tăng quân số và nhận lãnh cuộc chiến từ người Việt – và con số thương vong của Hoa Kỳ cũng cao hơn.
Vào cuối năm 1967, có 486,000 quân nhân Hoa Kỳ trên chiến trường. Con số lính Mỹ tử trận năm ấy gần như gấp đôi con số của năm 1966. Giữa tất cả các sự việc đó, sự hy sinh, lòng dũng cảm và việc hiến dâng của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa cho đất nước họ hầu như đã biến mất từ ý thức của giới truyền thông và chánh trị Hoa Kỳ.
Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, mà tôi đã tham gia với tính cách là viên cố vấn phụ tá cho tiểu đoàn, là một đơn vị chiến đấu ưu tú. Cho đến năm 1967, các người lính Nhảy Dù, với quân phục ngụy trang và mũ đỏ riêng biệt, đã lên đến 13,000 quân nhân, tất cả đều là lính tình nguyện. Những người như chúng tôi được vinh dự làm việc với họ, rất kinh ngạc bởi lòng dũng cảm và chiến thuật táo bạo của họ. Các viên sĩ quan và các hạ sĩ quan thâm niên là những người lính rất tài năng và có đầy kinh nghiệm chiến trường; thật là một điều dễ quên khi biết các người lính Hoa Kỳ là mới mẻ đối với đất nước Việt Nam, trong khi nhiều người trong bọn họ đã có mặt với cuộc chiến từ năm 1951.
Là các viên cố vấn, chúng tôi thường làm việc như một cán bộ hay sĩ quan liên lạc từ cấp tiểu đoàn và chiến đoàn/lữ đoàn. Chúng tôi đã dành một năm để chuẩn bị tại California, tính luôn cả 16 giờ đồng hồ của mỗi ngày để học về văn hóa và ngôn ngữ tại học viện Defense Language Institute. Tôi cũng hoàn tất xong khóa, học và hiểu để nói tiếng Việt. Các chiến thuật về phản du kích và huấn luyện hệ thống về võ khí thời Đệ Nhị Thế Chiến mà người Việt vẫn còn sử dụng thì học tại căn cứ Fort Bragg, North Carolina.
Chúng tôi làm việc với một vai trò rộng lớn; phối hợp yểm trợ pháo binh và không yểm, sắp xếp trực thăng chuyển quân và tải thương, và cung cấp tin tức tình báo cùng giúp đỡ về tiếp liệu. Chúng tôi không cho lịnh, và chúng tôi không cần phải làm vậy. Các người bạn đồng nhiệm là những người đàn ông mà chúng tôi ngưỡng mộ, và họ vui thích có được chúng tôi – và hỏa lực Hoa Kỳ – cho họ. Chúng tôi dùng thức ăn của họ. Chúng tôi nói tiếng họ. Chúng tôi tin tưởng hoàn toàn vào họ. Tôi thường có một người lính Nhảy Dù mang máy truyền tin, và anh cũng là người lính cận vệ.
Thông thường, một toán cố vấn cấp tiểu đoàn như tôi bao gồm ba người: một viên đại úy Lục Quân Hoa Kỳ, một viên trung úy và một viên hạ sĩ quan, thường là một trung sĩ. Các viên trung sĩ là thành phần nồng cốt. Trong khi các sĩ quan sẽ thay phiên: đến và đi; các viên trung sĩ ở lại với các đơn vị được chỉ định cho họ cho đến cuối cuộc chiến – hay cho đến khi họ hy sinh, hay bị loại khỏi chiến trường.
Lần tôi được giới thiệu về Việt Nam lại là một kinh nghiệm đầy xương máu. Chúng tôi chuyển quân bằng các chiếc giang đỉnh Hải Quân và trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ, vào một con sông sình lầy của vùng đồng bằng Cửu Long, nằm ở phía nam Sài Gòn. Đây là trận chiến chả có vinh quang, chiến đấu và chết chìm dưới sình lầy dơ bẩn và nước mặn. Không có một chút phiêu lưu mà chúng tôi đã cảm giác khi học một khóa học của Biệt Động Quân. Ông đại úy của tôi, là một sĩ quan chuyên nghiệp và cũng là người cố vấn trưởng tài năng, tử trận. Về lại căn cứ, tôi giúp mang thi hài ông xuống trực thăng. Nhưng đây chỉ là một khởi đầu.
Sau bốn tháng trong ‘tua’ với Nhảy Dù, chúng tôi liên quan đến một trận đánh lớn và đẩm máu, tiếp sức cho các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ phía bắc Đông Hà, gần bờ biển, nằm về hướng bắc của Nam Việt Nam. Hai trong các tiểu đoàn của chúng tôi được trực thăng vận vào vùng Phi Quân Sự, tìm kiếm và chận đứng một đoàn quân quan trọng của Bắc Việt, đang di chuyển về hướng Nam. Công tác này trở thành ba ngày chiến trận khốc liệt và đầy máu. Viên cố vấn trưởng bị hy sinh. Người hạ sĩ quan dũng cảm, Thượng Sĩ Rudy Ortiz bị trúng đạn đầy người. Anh kêu tôi lắp băng đạn vào khẩu súng M-16 của anh và đặt súng lên ngực, để cho anh có thể “chiến đấu cho tới chết” như những người lính còn lại của chúng tôi (may mắn, anh thoát chết).
Chúng tôi có cả trăm thương vong và gần như bị tràn ngập. Nhưng những người lính Nhảy Dù chiến đấu dũng mãnh và bền bỉ. Trong lần nguy khẩn, với sự yểm trợ của không yểm và hải pháo, chúng tôi tái phản công. Viên tiểu đoàn phó vẫn bước thẳng người trong lúc đạn bay đầy quanh để đến ngay hố cá nhân tôi. “Trung Úy”, ông bảo tôi, “đây là giờ phút chúng ta mất mạng”. Tôi vẫn cảm thấy rợn da khi nhớ tới những lời nói của ông.
Trong chiến trận, lính Nhảy Dù không bỏ rơi đồng đội đã chết hay bị thương trên chiến trường; ngay cả võ khí cũng vậy. Trong một trận đánh khác, Tommy Kerns, người bạn cùng khóa tại trường West Point là một người to lớn, chơi football cho trường, bị thương nặng và bị kẹt trong một cái rãnh hẹp. Những người lính Nhảy Dù Việt Nam đang ở với anh, nhỏ con hơn anh nhiều, đã cố gắng nhưng không thể kéo anh ra khỏi rãnh. Thay vì rút lui và bỏ mặc anh, họ giữ vững tuyến và chiến thắng cuộc chiến đấu hung tợn cho cái thân xác to lớn của anh. Anh thoát chết nhờ vào lòng dũng cảm của các chiến binh Dù ấy.
Các viên cố vấn Hoa Kỳ và hầu hết các đơn vị của Sư Đoàn Nhảy Dù đóng quân ngay và chung quanh thành phố Sài Gòn. Chúng tôi yêu thích sức sống và sự náo nhiệt của thành phố. Chúng tôi yêu thích văn hóa, ngôn ngữ và luôn cả người Việt. Chúng tôi hãnh diện một cách điên cuồng về tính cách của chúng tôi với Mũ Đỏ. Chúng tôi biết chắc là cả thế giới đã ghen tương về nhiệm vụ của chúng tôi – chúng tôi đang làm việc chung với đơn vị ưu tú nhứt của đất nước. Được trả lương với chiến trận và cộng thêm bằng dù, chúng tôi có vẻ như có cả đống tiền. Chúng tôi sống trong những tòa nhà có máy lạnh. Chúng tôi còn trẻ trung, có một chút ít khờ dại, nhưng luôn mạnh bạo. Các viên đại tá, trung tá Hoa Kỳ chỉ huy đám cố vấn là những người lớn tuổi, trầm tĩnh và là những người đàn ông dày dạn chiến trường; họ đã từng là những chiến binh Nhảy Dù đánh những trận đánh tệ hại hơn trong thời Đệ Nhị Thế Chiến và Chiến Tranh Triều Tiên.
Đời sống cố vấn trong Sư Đoàn Nhảy Dù rất khó mà đoán biết cho được. Công việc của sư đoàn là phục vụ với tính cách tổng trừ bị, luôn được mang đến chiến trường bất cứ lúc nào mà các viên tư lịnh cảm thấy tình hình nguy kịch. Một tiểu đoàn Nhảy Dù hay nguyên cả một chiến đoàn/lữ đoàn sẽ được báo động cho cuộc chuyển quân khẩn cấp trong lúc giữa đêm. Chúng tôi sẽ ngồi chật cứng bên trong các chiếc vận tải cơ của Không Quân Hoa Kỳ hay Không Quân Việt Nam, các chiếc máy bay đang đậu với máy nổ vang, từng hàng dài tại căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt, sát cạnh Sài Gòn. Đạn dược sẽ được cấp phát, có đôi khi, cả dù nữa. Một kế hoạch chiến trường gấp rút ban hành.
Và rồi – hỗn loạn, địa ngục mở rộng. Các tiểu đoàn sẽ được mang đến những chỗ nào mà họ cần đến. Chúng tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào, và sẽ biết được chúng tôi đang ở giữa một trận chiến. Rất nhiều viên cố vấn và cả ngàn người lính Nhảy Dù mà tôi đã chiến đấu chung đã không trở về lại từ trong các cuộc hành quân đó. Tôi vẫn có thể nhìn thấy các gương mặt non trẻ ấy. Đại Úy Gary Brux, Đại Úy Bill Deuel, Trung Úy Chuck Hemmingway, Trung Úy Carl Arvin. Người lính mang máy rất trẻ của tôi, Binh Nhứt Michael Randall. Tất cả đều hy sinh. Dũng Cảm và Tự Hào.
Việt Nam không phải là “tua” đầu chiến trận của tôi. Sau khi tốt nghiệp từ trường Võ Bị West Point, tôi gia nhập Sư Đoàn 82 Nhảy Dù cho sự can thiệp “khủng hoảng” Dominican Republic vào năm 1965. Chúng tôi được mang đến một hòn đảo và dẹp sạch đám Cuba – cảm hứng nổi dậy của bọn cộng sản, và ở lại như một đoàn quân bảo vệ hòa bình.. Chúng tôi đã nghĩ chiến trận là như vậy, và rồi chúng tôi trở về lại căn cứ Fort Bragg, và mong mỏi được đến Việt Nam – nhiều viên trung úy trong tiểu đoàn chiến đấu của tôi nhảy lên chiếc jeep, lái thẳng đến Bộ Tư Lịnh Lục Quân ở Washington để tình nguyện cho chiến trường Việt Nam. Chúng tôi đã nghĩ sẽ bị bỏ lỡ chiến trận.
Giờ thì chúng ta đã biết câu chuyện kết thúc ra sao. Hai triệu người Việt đã mất mạng. Hoa Kỳ mất 58,000 và có 303,000 thương vong. Hoa Kỳ sa vào cuộc nội chiến đắng cay và rối loạn về chánh trị. Lúc ấy thì chúng tôi không biết gì hết. Tôi rất lấy làm hãnh diện được chọn phục vụ với Nhảy Dù Việt Nam. Người vợ đẹp đẽ mới vừa cưới mà tôi rất thương yêu, biết tôi cần phải đi. Cha tôi, một viên Tướng của Lục Quân, sẽ vinh danh tôi, nếu tôi chẳng may tử trận.
Tất cả các sự việc này đã biến mất đi 50 năm trước đây. Các người lính trong Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, những người đã may mắn thoát khỏi việc sụp đổ của miền Nam Việt Nam, hoặc là trốn thoát qua ngả Cam Bốt [Thái Lan] hay trải qua cả một thập kỷ trong các trại “cải tạo” tàn bạo kia. Gần như hầu hết những người đó rồi cũng đến được Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Chúng tôi có một hội cố vấn người Mỹ cùng các chiến hữu người Việt, và có cả một Bia Đá Tưởng Niệm cho các Cố Gắng của chúng tôi tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington. Tại nơi ấy, chúng tôi gặp gỡ mỗi năm và nhớ lại những kỷ niệm đã cùng nhau chiến đấu, như thế nào. Chúng tôi đội Mũ Đỏ. Chúng tôi cười vang với các câu chuyện xưa kia, nhưng có một điều rất đau lòng là chúng tôi đã mất mát quá nhiều, và điều ấy lại là con số không, không có được một sự đền bù, tưởng thưởng nào.
Nhiều người đã luôn hỏi tôi về các bài học trong chiến trận tại Việt Nam. Những người trong chúng ta đã từng chiến đấu chung với Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam là những người không bao giờ lên tiếng. Tất cả những điều chúng ta luôn nhớ và biết đến là sự chịu đựng dũng cảm và lòng quyết tâm của các Binh Nhì Nhảy Dù Việt Nam, những người lính trẻ luôn thẳng bước vào chiến trận. Họ không có được các tượng đài vinh danh, chỉ trừ trong tâm tưởng và ký ức của chúng ta.
Barry McCaffrey (@mccaffreyr3) served as an adviser in the Vietnamese Airborne Division. He retired as a four-star general, later served as the Clinton administration drug czar and is now a national security commentator for NBC News.
 
Vài hàng về tiểu sử của Đại Tướng Barry McCaffrey
Barry Richard McCaffrey sanh năm 1942, tại thành phố Tauton, tiểu bang Massachusetts.
Ông tốt nghiệp trung học Phillips Academy, Andover vào năm 1960.
Tình nguyện vào trường Võ Bị West Point, ra trường năm 1964, với văn bằng Cử Nhân.
Ông tốt nghiệp Cao Học, môn Civil Government tại trường American University, năm 1970.

Ghi danh theo học Harvard, chương trình National Security Program và Business School Executive Education Program.
Và, ông cũng theo nhiều khóa học của các trường Quân Sự Hoa Kỳ, như: United States Army War College, Command and General Staff College, Deffense Language Institute và Armor School Advanced Course.

Ông trở thành sĩ quan hiện dịch Lục Quân sau khi tốt nghiệp Võ Bị West Point, 1964.
Vào năm 1965, tham chiến tại Dominican Republic trong Sư Đoàn 82 Nhảy Dù.
Từ năm 1966-67 ông chiến đấu ở Việt Nam với nhiệm vụ cố vấn cho Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, MACV Team 162 .
Năm 1968-69, ông làm đại đội trưởng trong Sư Đoàn 1 Không Kỵ, cũng trong chiến trường Việt Nam.

Trong thời bình, ông được chỉ định các nhiệm vụ, như: trở lại trường Võ Bị West Point, giảng dạy cho các sinh viên trường, năm 1972-75. Ông cũng là phụ tá cho chỉ huy trưởng trường U.S. Army Infantry School. Chỉ huy phó, cho U.S. Representative NATO. Phụ tá cho Tham Mưu Trưởng Joint Chief of Staff (JCS).

Năm 1991, trong trận chiến Desert Storm (Bão Sa Mạc), ông làm Tư lịnh Sư Đoàn 24 Bộ Binh Cơ Giới (24thInfantry Division), sư đoàn hoàn tất nhiệm vụ nổi tiếng “Left Hook” đánh bọc sườn quân Iraq của Saddam Hussein, góp phần quan trọng cho chiến thắng Desert Storm.

Từ năm 1994-96, ông làm Tư Lịnh SOUTHCOM (United States Southern Command), với trách nhiệm chỉ huy các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ tại các khu vực Trung và Nam Mỹ (Central and South America), Bộ Tư Lịnh nằm tại Panama.

Năm 1996, Barry Richard McCaffrey về hưu với cấp bực Đại Tướng, ông là một vị tướng bốn sao trẻ nhứt và nhiều huy chương nhứt của Quân Đội Hoa Kỳ.

Trong chiến trận, ông được tưởng thưởng các Huân Chương Distinguished Service Cross (hai lần), Purple Heart (ba lần) và Silver Star (hai lần).

Từ năm 1995-2001, trong thời Clinton, ông chỉ huy cơ quan ONDCP (Office of National Drug Control Policy).

Ông hiện là phân tích gia, về tình hình quân sự cho hai đài truyền hình NBC và MSNBC; và  cũng làm chủ tịch cho công ty của ông, BR MCCaffrey Associates.

Tài liệu: Wikipedia


Huân chương Distinguished khi là Trung Úy giữ nhiệm vụ cố vấn phó cho Tiểu Đoàn 2 Dù:
Trong cuộc hành quân gần Đông Hà vào ngày 6 tháng 10 năm 1966, Lúc 3 giờ 15 sáng, đạn cối pháo dữ dội vào đơn vị, làm cho Đại Úy Barry McCaffrey bị thương ngay vai. Không ngại đạn cối và súng thượng liên của cộng quân, ông quan sát để để lượng định tình hình cuộc tấn công và biết được viên cố vấn trưởng đã tử thương, và vài viên đại đội trưởng bị thương. Ông lên nắm quyền cố vấn trưởng, trong suốt 12 tiếng của trận đánh, ông phối hợp yểm trợ pháo binh và không yểm đánh vào các đợt tấn công của quân địch. Ông bị thương thêm vì nhiều mảnh cối của địch.

Huân chương Distinguished khi là Đại Úy Đại đội trưởng Đại đội B, Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 3, Sư Đoàn 1 Không Kỵ:

Vào ngày 9 tháng 3 năm 1969, trong một công tác trinh sát, một toán quân của đại đội ông bị quân địch trong một căn hầm, pháo đài kiên cố bắn phá dữ dội. Đại Úy Barry McCaffrey liền có mặt ngay tuyến đầu, ông chỉ huy các người lính cho trận tấn công, đánh thẳng vào pháo đài. Sau nhiều lần tấn công, ông phá hủy được khẩu thượng liên và giết chết nhiều tên địch. Tuy bị thương ngay cánh tay, ông vẫn chỉ huy kiểm soát toàn bộ hệ thống hầm hố của quân địch. Sau khi lo việc tải thương cho các thương binh, ông gọi pháo binh bắn vào quân địch. Chỉ sau khi tổ chức lại việc phòng thủ và biết chắc các người lính đã được chăm sóc, ông mới chịu theo trực thăng tản thương để cho chăm sóc vết thương của chính cá nhân ông.


.............
Little Saigon/9 tháng 8 năm 2017
Phuc Nguyen



__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

27 THÁNG GIÊNG 1973 Không Thể Nào Quên

$
0
0
27 THÁNG GIÊNG 1973
 Không Thể Nào Quên




  
Năm mới đã đứng đợi trước thềm. Chưa mở cửa đón xuân thì đã thấy dội lên trong lòng nỗi đau lịch sử. - (27/1/1973 -27/1/2003) . 
Ba mươi năm về trước, Hiệp Ðịnh Paris về Việt Nam được ký kết vào ngày 25/1/1973 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 27/1/1973.Nhưng hầu như không mấy ai ngoài những người lãnh đạo biết được đó chính là bản án khai tử chính thể Việt Nam Cộng Hòa.

Hòa bình là niềm vui của mọi nhà. Ðình chiến là tương lai, là niềm hy vọng trở về của những người vì làm nhiệm vụ đang phải chịu đọa đày trong ngục tù Cộng Sản. 
Bao năm tù đày khổ nhục vững chí trung kiên chỉ đợi một ngày xổ lồng tung cánh. Nhưng niềm hy vọng mới manh nha đã lại tắt lịm. Ðòn thù của đối phương lại chụp xuống thân xác những người con yêu của đất nước. Cuộc đấu tranh giữ gìn phẩm cách và sinh mệnh của những người công tác bí mật bị sa cơ còn gian nan, vô vọng hơn cả giai đoạn trước khi có hiệp định Paris.. nhưng quả tình “sắt đá cũng chưa bền gan bằng ý chí” của những con người có lý tưởng... 
Trang sử ô nhục lật qua đã lâu nhưng nhân ngày 30 năm nhớ lại chuyện cũ, trích lược đôi dòng tự truyện để phần nào cho chiến hữu, bằng hữu biết rõ cuộc sống trầm luân của những người chiến sĩ trung kiên.....



***

 



BK Nguyễn Thái Kiên , BK Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt Tỷ phú Ross Perot , BKTrình A Sám 

Năm 1970 , khoảng vài tháng sau vụ đột kích giải cứu tù binh Mỹ ở Bất Bạt, Sơn Tây của Lực lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ không thành công, chúng tôi đang ở tại trại Phong Quang- Lào Cai thì bắt đầu có những cuộc đảo người, xáo nhóm.

Khu biệt lập có hơn 130 Gián Ðiệp Biệt Kích tuần tự được chuyển đi từng nhóm nhỏ. 
Nhóm của chúng tôi là nhóm thứ hai - tổng số 32 người - được chuyển về trại Tân Lập, Vĩnh Phú vào đầu năm 1971.

Ðến trại được vài hôm, chúng tôi được biết khu Biệt Lập - còn gọi là khu xây - chiếm một dẫy gồm bốn buồng lớn. Từng buồng trong tường vây có sân sau, sân trước, bể nước khá rộng.

Ngoài buồng chúng tôi đang ở nằm mút đầu phía trong trại, buồng sát bên cũng đã có một nhóm Gián Ðiệp Biệt Kích khác. Nhóm này đang làm công việc may quần áo tù. Buồng sát bên cạnh nhóm may giam một vị tướng Cộng Sản tên là Ðặng Kim Giang. Buồng sát ngoài vòng tường trại là buồng để hơn chục cái máy may cho toán lao động.

Mấy tháng đầu mới tới trại, chúng tôi được ở không. Hàng ngày bọn công an quản giáo CS mở cửa cho ra phơi nắng, đi lại trong khoảnh sân quanh buồng giam.

Khu chúng tôi ở tuy nằm trong vòng tường của trại nhưng tuyệt đối không thể nào liên lạc được với những nhóm tù hình sự khác bởi có mấy lớp rào thép gai và tre. Chỉ có một người tù tên Viên trong nhóm trật tự làm công việc gánh cơm nước, phục vụ cho khu biệt lập.

Một hôm, chúng tôi được đưa sang buồng may để học nghề nên thấy một nhóm tù hình sự đang xây mấy căn buồng nhỏ. Lợi dụng lúc tên quản giáo đi khỏi, tôi hỏi mấy người tù đang làm việc, mới biết là họ đang xây xà lim để dành cho chúng tôi.

Sau khi nghe họ nói vậy, tôi đã biết chắc chắn mình sẽ có một xuất..... 

Ðợt khai trương nhà cùm vào tháng 7 năm 1971, Nguyễn Huy Thùy, lúc đó mang quân hàm trung úy làm Phó giám thị trại Tân Lập đưa một trung đội công an vũ trang vào khiêng tôi đi “khánh thành” xà lim kỷ luật vừa mới xây xong. Ðúng là “khiêng”; bởi vì sau khi tên quản giáo đọc lệnh “kỷ luật”, tôi chống lại cương quyết không đi. Chẳng phải chúng tôi sợ cùm nhưng cố tình gây khó dễ để tỏ thái độ chống đối.

Kể cũng vui, thỉnh thoảng được thử xem “Sức Mạnh Tòan Ðảng và Toàn Quân” của bọn “khỉ tiến hóa” tới đâu.

Thật ra mỗi lần đi cùm chẳng dễ chịu gì; hai cổ chân thì vỡ toác, môi trường yếm khí, hôi hám không thể tả.

Ăn đói, thời tiết lại rét buốt, chết lúc nào không hay nhưng im lặng để bọn đười ươi coi thường là chuyện không thể chấp nhận được...



Sau hơn bốn tháng cùm kẹp, một hôm tôi được lệnh mang đồ đoàn về lại buồng tập thể. Chân thấp, chân cao tập tễnh trên đường từ nhà cùm về buồng, tôi thầm nghĩ chắc hẳn chúng tưởng tôi đã mỏn sức nên cho ra. Nhưng sau về đến buồng gặp anh em mới biết vì nhà cùm không còn chỗ để đưa người khác vào nên tôi là người đang nằm lâu nhất mới được “nhà nước gia ơn” giải phóng từ nhà cùm sang nhà tù.



Mai văn Học (hiện ở San Jose- Cali) vào cùm sau tôi ba tháng là người thay tôi trấn nhậm xà lim cho tới gần tết 1972.

Khi Học được thả ra, tôi biết mình lại sắp sửa được đảng bộ trại Tân Lập cử đi “trấn thủ lưu đồn” tiếp.

“Nhân bảo như thần bảo”.. tháng 3, tôi lại khăn gói vào nhiệm sở. Ðợt này mới ở được 30 ngày, chân chưa cuồng; đột nhiên lại được thả về buồng cũ mà chẳng hiểu lý do làm sao...



Suốt gần tháng trời, anh em cứ bàn bạc đến việc chuyển trại. Và rồi chuyển trại thật. Toàn bộ chúng tôi tay xách, nách mang ra xe vào buổi chiều nhưng không đi đâu xa mà chỉ chuyển vào trại sơ tán nằm khuất trong một cánh rừng trung du không xa trại cũ là mấy.

Sáng nào tụi công an trại giam mở cửa cho ra sân trại trong mấy lớp rào nứa kiên cố vây quanh cũng thấy núi Ba Vì đội mây, sừng sững trước mặt.

Thời gian này, không lực Hoa Kỳ được lệnh của Tổng thống Nixon dần nát Bắc Việt.



Nhiều lần chúng tôi được tận mắt ngắm những đoàn chim sắt bay qua bầu trời trung du, tiến vào hỏi thăm Hà Nội.

Cũng tại đây, anh em chúng tôi được một lần nhìn thấy SAM 2 phóng lên để nhằm bắn hạ một chiếc Thunderchief. Tất cả chúng tôi đều trầm trồ tán thưởng khi nhìn chiếc phi cơ đang bay lẻ loi giữa tầng mây lưng trời bỗng khựng lại, thoắt nghiêng cánh chui qua giữa hai trái hỏa tiễn địa không rồi biến mất.

Khoảng hơn tiếng đồng hồ sau, từng đoàn, rồi từng đoàn chim sắt từ biển vào, từ những rặng núi phía Tây bay qua vần vũ trên không phận Vĩnh Phú.

Tiếng động cơ phản lực gầm thét như sấm động, tiếng bom nổ liên hồi. Bọn công an vũ trang đuổi tất cả mọi người xuống hầm, hào tránh bom nhưng chúng tôi vẫn nằm ngửa, cố tìm xem các phi cơ của “Không Quân Nhân Dân Anh Hùng” có bay lên nghênh chiến hay không... nhưng hoài công.. vì chắc họ “nghe lệnh bác” chơi kiểu “tiêu thổ kháng chiến” mặc cho phi cơ Hoa Kỳ thả hết bom và bay hết xăng thì cũng phải chuồn thôi.

Chỉ tội nghiệp cho “đơn vị tên lửa anh hùng” kia chạy trối chết cũng không thoát khỏi tổn thất nặng nề.

Nhưng có sá gì! Miền Bắc đang thiếu gạo, bớt đi nhiều miệng ăn chừng nào càng tốt chừng ấy... Chẳng phải chúng tôi đã ăn độn đủ thứ để nhìn cho ra sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa hay sao?

Trong suốt thời gian ở trại “sơ tán” khoảng gần sáu tháng. Chúng tôi vẫn cứ châm chọc và chống đối như trước nhưng chẳng có ai được cho đi “trấn thủ” nữa.

Hỏi một số tù hình sự thì được biết nhà kỷ luật đặc biệt cùm Gián điệp biệt kích đã sụp vì đợt oanh tạc vào trại.

Có hôm, sau đợt bom đánh vào khu chăn nuôi của trại; chúng tôi thấy bữa ăn hôm đó bỗng nhiên có khẩu phần thịt khá nhiều do lợn bị chết vì bom. Ăn xong, hôm sau mới nghe anh chàng Viên phục vụ kể cho biết có mấy tên cán bộ và ba người tù chết tan xác với bầy gia súc khi bom rơi trúng khu chuồng lợn..!.!.!

Khoảng cuối tháng tám, chúng tôi được tin sẽ chuyển sang một phân trại khác để học tập chính trị chờ trao đổi, trao trả. Theo những thông tin từ nhiều nguồn khác nhau (lúc này chúng tôi đã tiếp xúc được với đám tù hình sự) Hiệp định Paris về căn bản đã xong chỉ còn chờ ký chính thức.

Nhưng rồi chẳng được mấy tuần sau, không khí lại căng lên vì những tiếng động cơ phản lực bay qua bầu trời.

Và rồi lại mấy tuần vắng bặt.

Bầu trời trung du, mùa thu xanh lồng lộng, khoáng đạt vô bờ. Hàng ngày, chúng tôi đi lại trong khoảnh sân nhỏ hoặc trải chiếu ngồi đánh chắn, rõi nhìn những tầng mây lang thang, lòng trào dâng ý tưởng phiêu bồng.

Thế rồi vào khoảng gần cuối tháng chín sang đầu tháng mười, đột nhiên chúng tôi được chuyển qua phân trại khác để học tập trao trả thật.

Chúng tôi được di chuyển bằng xe hơi. Một số ở lại chuyển về trại xây cũ. Trên đường xe chạy, chúng tôi gặp một số anh em ở cùng trại Phong Quang trước đây đang tay ôm túi, tay cắp chiếu đi ngược lại.

Như vậy là ở tại Tân Lập có hai bộ phận Gián Ðiệp Biệt Kích nằm ở hai nơi khác nhau mà mãi đến lúc đó chúng tôi mới biết.

Nhẩm tính con số, tổng cộng tất cả khoảng hơn trăm người.

Tôi và một số anh em được đưa vào một trại sơ tán khác. Ở đây cả nhóm bị phân tán mỏng vì mỗi buồng chỉ ở tối đa từ 6 đến 8 người.

Ngày hôm sau, được mở cửa ra sân, trèo rào nói chuyện chúng tôi được biết ngoài anh em Gián Ðiệp Biệt Kích còn có mười mấy người Thái Lan và bốn người tù Bắc Việt ( Vũ thư Hiên là một trong bốn người) ở cùng khu biệt giam với chúng tôi.

Thảo nào, tối hôm qua, tôi đập tường rồi dùng “morse” nói chuyện mấy lần mà chỉ nghe tiếng gõ trả nhè nhẹ, dè dặt chẳng theo nguyên tắc nào, khác hẳn với cái thói “coi trời bằng vung” của mấy anh em Gián Ðiệp Biệt Kích chúng tôi.

Những người tù như vậy thường là những cán bộ cao cấp trong hàng ngũ đảng Cộng Sản vì chống đối lại chủ trương của phe đương quyền nên bị thanh trừng.

Trường hợp Ðặng Kim Giang ở khu xây với chúng tôi và những người này hẳn là cùng chung nhóm “xét lại” thân Khrouschev của Hoàng minh Chính.

Biết vậy, anh em chúng tôi vờ nói lớn cốt để cho họ hiểu chúng tôi là những người có thể tin cậy được rồi qua trò chuyện, tâm sự có thể hiểu thêm đươc thực chất nội bộ của họ ra sao.

Buổi tối, tôi làm quen được với người ở sát vách. Qua tiếp xúc tôi thấy ông ta là một người có học.

Sau khi biết rõ chúng tôi thuộc thành phần nào, ông tỏ ra tin tưởng và cho biết tên ông là Phùng Văn Chức (sự thực là Phùng Mỹ, giáo sư Ðại Học công tác tại Viện Triết Học)  bị bắt cùng với Hoàng Minh Chính, Ðặng Kim Giang. Tất cả đều bị ghép cho tội âm mưu đảo chánh.

Ông ta cho biết, ông đã là đảng viên từ khi chưa thành lập cái nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và ông ta thuộc “Những người Cộng Sản có trái tim?”.

Theo lời ông ta kể, tập đoàn Lê Duẩn là một bọn “siêu phát xít” đang cố bóp chết mọi mầm mống chống đối để củng cố quyền lực của chúng.

Qua trò chuyện với nhân vật này, tôi càng thấy rõ thực chất của bọn Cộng Sản còn tồi tệ hơn những gì bộ máy tuyên truyền trong Nam đã nói về chúng. Nhân vật này là người cho tôi biết nhiều nhất về bản Hiệp Ðịnh bởi ông vẫn được đọc báo. Ông có lòng cảm mến nên khuyên tôi cố nhẫn nhục, che dấu tư tưởng căm thù thì mới có hy vọng về được miền Nam.

Ông kể cho tôi nghe chuyện của nhiều người và kinh nghiệm ngay cả của bản thân ông rồi kết luận:“ Dưới chế độ cộng sản con người phải tự biến mình thành một viên bi bằng cao su mới có thể an thân. Bi tròn thì lăn đâu cũng được. Cao su thì co dãn sát hợp với những ô cửa rộng hẹp khác nhau.”

Tôi không tranh cãi với ông nhưng không chấp nhận ý kiến này, tôi không sợ khổ, sợ chết chỉ sợ đánh mất khí phách nam nhi. Tôi đọc cho ông nghe một bài thơ của mình làm để tỏ lộ ý chí của tôi. 



 HIÊN NGANG



 Núi vẫn hiên ngang đứng giữa trời. 
 Sao mờ. Sao nhạt. Phải thay ngôi. 
 Thiên cơ diệu ảo - đêm thần bí 
 Tù ngục sầu ray rứt nửa đời 


 Thù nước khi nào rửa được đây? 
 Bao xuân uất hận - kiếp lưu đầy. 
 Mẹ già tức tủi - đôi hàng lệ 
 Vẫn đợi mong ta - những tháng ngày


 Xuân đến trời đêm tối mịt mùng 
 Một đời nguyền giữ vẹn kiên trung 
 Ðêm cũ sẽ qua - ngày mới đến. 
 Bình minh xuân sáng tỏa vô cùng.

  
Kim Âu





Và mặc dù trải bao khổ nhục, có lúc tưởng đã không thể sống nổi nhưng tôi thấy mình vẫn đúng, vẫn tự hào với phẩm cách của mình.....

Thời gian này (1972), chúng tôi đang chuẩn bị học tập trao trả nên đã bắt đầu được nâng mức ăn lên cao để mau chóng phục hồi thể lực cho chế độ tù binh của “Ðảng quang vinh” khỏi mang tiếng là vô nhân đạo.

Ðầu tháng 10, đoàn giảng viên của Bộ Nội Vụ do Võ Ðại Nhân dẫn đầu đến thăm chúng tôi và sau đó tổ chức học tập chính trị.

Tưởng rằng chúng tôi được phát bản Hiệp Ðịnh để nghiên cứu nhưng chẳng thấy gì ngoài những tài liệu nhằm đáp ứng yêu cầu học tập do chúng đề ra.

Thật tâm, chúng tôi cũng chẳng thèm để ý đến chương trình học tập chính trị của bọn cộng sản nhưng rõ ràng tôi thấy bọn chúng âm mưu thông qua những bài giảng này để gài chúng tôi vào một cái “thế “ nhằm “vô hiệu hóa” chúng tôi, để nếu có được trả về miền Nam chăng nữa chúng tôi cũng khó mà tránh khỏi nanh vuốt của chúng.

Thông lệ cứ qua một bài giảng, chúng lại buộc tổ chức mạn đàm. Sau đó là viết bản “thu hoạch”. Một bài học tập mất khoảng ba ngày.

Âm mưu của chúng lộ rõ nhất là khi học đến bài “ Tội Ác Của Ðế Quốc Mỹ bè lũ tay sai”.

Buổi tối ngồi uống trà trong phòng, tôi nói với anh em đừng nên viết bản thu hoạch này. Vì theo ý kiến của tôi, đây sẽ là một thứ “sinh tử phù “ vô cùng tai hại cho chúng ta khi trở về miền Nam.

Hôm kết thúc bài giảng, bọn chúng cho mạn đàm từng tiểu tổ, có cán bộ của đoàn Trung Ương về tham dự chứng kiến.

Thật là buồn cười khi những buổi mạn đàm tố cáo “Tội Ác Của Ðế Quốc Mỹ bè lũ tay sai”, trở thành những buổi lên án “Tội Ác của Liên Xô - Trung Cộng và Ngụy Quyền Bắc Việt”.

Mấy năm tù tội dưới chế độ giam giữ dã man của cộng sản khiến chúng tôi căm hận. Dưng không có dịp, không ai bảo ai; tất cả mọi người đều trút cả căm hận lên đầu bọn cán bộ tham gia mạn đàm. Nhiều lúc thấy bọn này ngồi thộn mặt ra để nghe anh em chửi rủa, tôi cũng thấy phục tài chịu đựng và nhẫn nhục của chúng.

Trước tình hình đó, chúng bắt đầu có biện pháp tách từng người đi gặp riêng để thực hiện kế ly gián, mua chuộc và gây áp lực. Còn chúng tôi thì tổ chức yêu sách, đòi hưởng quy chế tù binh, đòi trao trả và chống đối học tập.

Sau những chống phá này, một số anh em -trong đó có tôi- được đưa về trại Bình Ðà, Khúc Thủy, Hà Tây ít hôm - thêm vài người ở nơi khác về nhập đoàn - rồi lại chuyển vào trại Ba Sao, Kim Bảng, Nam Hà. Lần này, theo sát chúng tôi có đoàn cán bộ phụ trách học tập và trao đổi, trao trả do cục phó Phản Gián đứng đầu.

Ðến trại, chúng tôi được trại trưởng - thượng tá Xuyên - tiếp nhận đưa vào khu giam người Mỹ hiện bỏ trống vì nhóm này vừa được đưa đi trao trả mấy hôm trước.

Ở được vài hôm, đúng buổi trưa ngày 30 tháng chạp Âm Lịch, bọn Cộng Sản đưa tôi đi giam “cách ly” để ép tôi phải làm cái thủ tục gọi là “Ðơn Xin Khoan Hồng” (chuyện này cụ Nguyễn Văn Ðãi, Ðại Biểu Hành Chánh Vùng I chiến thuật - bị bắt tại Huế năm Mậu Thân và bị đưa ra Bắc cùng với Phó tỉnh trưởng Thừa Thiên Bảo Lộc - đã viết trong hồi ký Ánh Sáng và Bóng Tối dưới bút hiệu Hoàng Liên, cụ cho tôi cái ngụy danh Văn vì sợ nếu viết tên thật, tôi còn ở lại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng).

Và cũng là một cơ duyên, cùng chiều hôm đó, nữ sĩ Thuỵ An - một người đứng đầu của vụ Nhân Văn Giai Phẩm- chuyển từ một trại khác về ở ngay phòng còn lại. (đón xem trong tự truyện Hận Cùng Trời Ðất)

Thời gian này bọn cộng sản dùng đủ mọi thủ đoạn mua chuộc lẫn áp đảo tinh thần tôi. Chúng chiêu dụ mãi không xong, rồi trắng trợn nói thẳng rằng chúng sẽ không bao giờ cho tôi trở về Miền Nam nếu tôi không chịu viết những bản “thu hoạch” như mọi người khác đã làm. Dù biết rằng phận mình chẳng khác gì “cá nằm trên thớt, cua nằm trong rọ”, tôi vẫn cương quyết trả lời: “Không bao giờ, vì tôi không phải là công dân của nước VNDCCH mà là một tù binh nên không thể chấp nhận làm những điều vô lý”.

Tất nhiên suy tư của mỗi người mỗi khác nhưng tính cách con người tôi thì vẫn tâm niệm “anh hùng tử, khí hùng nào tử” nên vẫn vững tin là sẽ trở về trong vinh quang vì số anh em được trả về nhờ “giả dại qua ải” chắc chắn không bao giờ im lặng. Ăn thua do mình có đủ nghị lực để vượt qua những thử thách hay không.

Sau hơn bốn tháng nằm trong khu biệt giam. Ngày 19 - 5 - 1973. Một mình, một xe, tôi bị đày lên trại Cổng Trời, Quyết Tiến, Hà Giang, vốn là nơi thi hành bản án tử hình cho những người chống đối.

Cảnh ngộ thật bi phẫn - mọi người đều về xuôi để chuẩn bị trao đổi, trao trả một mình tôi lthẳng lên mạn ngược. Trên đường đi tức cảnh, sinh tình. Khi lên đến trại Cổng Trời, Quyết Tiến cũng là lúc hoàn thành bài thơ Trên Ðỉnh Lưu Ðày.



 Trên Ðỉnh Lưu Ðày 


 sương chiều phủ trắng Phạ Quan

 xe men dốc núi

 người tan tác lòng

 Hà Giang, Quản Bạ nghìn trùng

 đèo cao, sương muối

 anh hùng thi gan.

 xe qua trăm dặm - đại ngàn

 mơ ngày đất nước vinh quang

 Ta về...

 sầu giăng xám cả sơn khê

 xe lên!lên mãi!

 hồn tê tái sầu.

 Ta về đâu?

 sẽ về đâu?

 Mây giăng bốn cõi

 vực sâu!

 đỉnh trời!

 hỏi lòng

 rồi bỗng cả cười

 hùng tâm tráng trí

 đạp đời mà đi.

 xe lên tận cõi man di

 Cổng Trời - Ðịa ngục

 có đi không về

 xe qua nghìn khúc tiểu khê

 vách! vách! núi dựng

 đường xe lượn vòng

 xe dừng

 tuyệt đỉnh

 mờ trông

 Phương Nam độc đạo

 rừng phong tầng, tầng

 Ta vào huyệt mộ

 cô thân

 bao giờ?

 đá nẩy chồi xuân

 Ta về...



Kim Âu 
19- 5 - 1973 



Sau khi tôi bị cùm tại Cổng Trời đã hơn bốn tháng, những nhóm Gián Ðiệp Biệt Kích ở các nơi khác lục tục kéo lên, rồi một số thuộc thành phần chống đối quyết liệt bị đưa vào nằm chật khu hành hình có hỗn danh “Cung Ðiện Mùa Ðông” ở xà lim trại Cổng Trời. 
Ðể trả đũa những người có hành động chống đối, bọn cộng sản quyết cùm chúng tôi cho tới chết..... Mãi tới năm 1975 chúng cưỡng chiếm Miền Nam xong và tổ chức ăn mừng thống nhất chúng mới thả cho chúng tôi trở về các đội lao động với thể xác tiều tụy và tâm hồn tan nát - Việt Nam Cộng Hòa đã không còn. 
Tính ra tôi đã nằm một lèo hết hai mươi bẩy tháng trời trong cái lò sát sinh mà trước đây không ai chịu nổi quá vài tháng. 
Những người tù chính trị địa phương và đám tù hình sự sau này thường gọi tôi là “Chủ Nhân Cung Ðiện Mùa Ðông hoặc Chủ Nhân Ðiện Kremlin.” 
BN 587 gọi tôi là “Lion d'Or”. Tên Tin cán bộ trực trại nghe lỏm được không hiểu nhưng gã trật tự tên Tưởng biết tiếng Pháp nói cho hắn biết chữ đó có nghĩa là “Sư Tử Vàng”. 
Thế là cả đám công an đều biết tôi qua những biệt hiệu này....

***

Bao nhiêu gian khổ, nhục hình đã qua từ ngày đó. Hiệp Ðịnh Paris về Việt Nam chẳng có chút hiệu lực nào đến với anh em Gián Ðiệp Biệt Kích chúng tôi. 
Và tất cả những nhận biết của chúng tôi về bản Hiệp Ðịnh này đều thông qua những trích đoạn trong một số bài đăng trên báo Nhân Dân và Quân Ðội Nhân Dân của bọn Cộng Sản nhằm vu khống và bêu riếu chế độ Việt Nam Cộng Hòa.... 
Sau này, khi ra khỏi trại giam rồi qua đến Hoa Kỳ. Nghiên cứu kỹ lưỡng nhiều tài liệu được giải mật và những văn tự của Hiệp Ðịnh cùng với những biến động thực tế của lịch sử. Tôi nhận thấy quả tình Hiệp Ðịnh này là một vết nhơ không thể bôi xóa và cũng là một cái nhục cho các quốc gia đã ký vào bản Ðịnh Ước.

Trong bốn bên ký kết bản Hiệp Ðịnh ngày 27 - 1 - 1973 ngày hôm nay chỉ còn hai.

Hiệp định Paris về Việt Nam!

Ðó là kết thúc đáng buồn cho những lời cam kết, hứa hẹn của Hoa Kỳ sau khi đã tìm đủ mọi cách, kể cả sát hại Tổng Thống Ngô Ðình Diệm để nhằm mục đích đưa quân vào chiến đấu tại Việt Nam. 

Tiến sĩ Henry Kissinger, như người ta thường ca tụng là một nhà ngoại giao lỗi lạc nhưng thật ra theo tôi, hắn chỉ là một thứ thuyết khách mạt hạng nhất tự cổ chí kim.

Ngoại giao mà đi thương thuyết để rồi xóa bỏ hết thành quả xương máu của hơn 58.000 quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh để bảo vệ thành trì của thế giới tự do. Ðó là chưa kể đến tính mạng của những quân nhân các nước Ðồng Minh khác và hàng triệu quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa.

Ðấu trí mà không hiểu rõ đối phương đến nỗi hậu quả là cho tới ngày hôm nay còn chưa biết rõ tông tích bao nhiêu người Mỹ bị giữ làm con tin không trao trả.

Thương thuyết để bức tử cả một quốc gia đồng minh thừa quyết tâm chống Cộng như Việt Nam Cộng Hòa để chiều theo ý đối phương như vậy nếu nói là tài năng xuất sắc thì ắt hẳn cần phải xem xét lại....

Henry Kissinger cùng “ê kíp “cầm quyền tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và bọn phản chiến thuở ấy đã vay một món nợ “Máu và Danh Dự” không biết bao giờ mới trả lại được cho dân tộc Việt Nam chứ đừng nói rằng chúng ta phải thọ ơn họ.

Gần ba thập kỷ đổ xương máu để chặn đứng làn sóng Ðỏ tại Ðông Nam Á là chiến công vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Chính sự sụp đổ của chúng ta đã trở thành bài học giúp cho các quốc gia trên thế giới thấy rõ giá trị của Ý Thức Hệ Tự Do để kịp thời củng cố, tồn tại và chiến thắng cộng sản.

Chính dân tộc Việt Nam đã chịu nạn cho Thế Giới và cứu rỗi cho Nhân Loại...

Mặc dù cơn sóng dữ đã làm vỡ đập nhưng sức của cơn lũ đã yếu không còn bao nhiêu tác hại.

Sau Nixon, tổng thống Reagan có tạo nên nhiều biến đổi về chiến lược dẫn tới sự sụp đổ của khối Cộng nhưng cho đến nay dân tộc Việt Nam vẫn còn chìm đắm trong kiếp sống mông muội dưới sự cai trị hà khắc của Cộng Sản.

Hầu như Việt Nam ngày nay đã trở thành một quá khứ, một món nợ không ai còn muốn nhắc tới..... nhưng Cuộc Chiến Tranh Việt Nam đã đi vào lịch sử.... Món nợ lịch sử vẫn còn đó.

Thất bại ở Việt Nam là thất bại của Chủ Nghĩa Thực Dụng Phản Trắc của Hoa Kỳ mà dân tộc Việt Nam chính là nạn nhân.

Hiệp Ðịnh Paris về Việt Nam là một kết thúc Không Có Hòa Bình và cũng Chẳng Có Danh Dự như ai đã từng cao rao.

Thế mà vẫn có kẻ kêu đòi chúng ta phải “ Tây Phương Hóa”.

Tây phương ư ! Xin nhìn kỹ lại! Chẳng có chính nhân và cũng không có quân tử.

Chỉ có nền văn hóa của DÂN TỘC chúng ta mới thực sự tạo ra những “kẻ sĩ “ biết trọng tín nghĩa, cương thường. 


Kim Âu Hà văn Sơn.  
(lược trích tiểu đoạn của Hận Cùng Trời Ðất)

__._,_.___

Posted by: Gia Cat

CẦN THÂN NHÂN THĂM VIẾNG Nghĩa Trang Cổ Thành Quảng Trị

$
0
0

CẦN THÂN NHÂN THĂM VIẾNG

Nghĩa Trang
Cổ  Thành Quảng Trị 
 
Xem Xong Xin Forward Cho Người Khác. 
Cảm ơn.

Xin giúp gửi chuyển tiếp để may ra có vài thân nhân của những người quá cố đọc được tên trên các mộ bia này.

Cảm ơn. HMN.

Những ngôi mộ Lính VNCH bị bỏ quên

HLTL
CỘNG ĐỒNG, TÌM NGƯỜI, VNCH 9/16/2012
Nhân dịp tham quan Cổ  Thành Quảng Trị, tôi ghé quán cơm ven QL1, cạnh mương thủy lợi, tôi có gặp đôi vợ chồng Cán Bộ về hưu tốt bụng có một ước nguyện hợp đạo lý của người Việt Nam là quy tập hài cốt về với Gia Đình , Dòng Họ.

Bà tuy tuổi đã cao, lại đi chân giả, mà bà vẫn nhiệt tình chỉ cho tôi từng ngôi  mộ hoang của Sĩ Quan, binh lính chế độ cũ. Vạch những đám cỏ dại, những bụi gai, bới những nấm đất (vì lâu năm những ngôi mộ bị đất bồi lấp gần hết) để thấy được bia mộ của những người đã nằm xuống. Là ở một Nghĩa Trang, những ngôi mộ này có tên, có tuổi, có số quân, nhưng không hiểu sao qua gần nửa thế kỉ mà không ai đón về, không ai hương khói, để những ngôi mộ phủ đầy gai. cỏ như rừng rậm vậy. Theo Ông Bà già tôi ghi được 36 ngôi mộ, ngôi thì sup, ngôi thì bị bồi lấp gàn hết, ngôi thì bia bị đổ bể lăn lóc hoặc mờ tịt không còn thấy chữ vì thời gian làm mờ đi hoặc bị đạn bắn, còn tất cả giống nhau ở chỗ cỏ và gai bao phủ kín mít.


Dưới đây là những ngôi mộ tôi ghi được (còn bao nhiêu mộ bị san bằng thì ….)

1_ Phan Gia Thinh 18-05…… Kỉ Sửu
Cha: Pham Khánh Hưng


2_ Môi Kim Trọng (60/ 207 956)
Sinh 07-03-1940
Phước Hòa- Tiên Phước- Quảng Tín
TT 05-07-1967
Cha: Môi Ha
Mẹ: Trần Thị Tửu
Vợ: Lưu Thị Nhẫn
Con: Môi Kim Tân


3_ Lê Đình Chữ  1934- 1967 ( Sinh Mùi- chết Mùi)
Kim….. Xuân-  Cam Lộ Quảng Trị
Vợ: Nguyễn thị Phương


4_ Ngô Văn Minh  28-12 năm Kỷ Mão
Đản Duệ- Vĩnh Linh- Quảng Tri 28-11- Ất Tỵ
Me: Nguyễn Thị Nghĩa


5_ BDQ Phạm Văn Long- 1939
Long Thanh- Chơn Thành Long An  TT 1-1-1962


6_ Lê Công Tuyên- 1951
Thạch Đàn- Lệ Thủy- Quảng Bình  5-2- Mậu Thân


7_  1968 Nguyễn Trang  TT 5-5-1968
Nguyên Quán Thôn Thanh Suôi


8_Dương C. Sữa  19-02-1944
Thương Văn- Hương Hóa- Quảng Trị
Tử: 02-05- 1969
Vợ: Võ Thị Huế
Con: Dương Công Tuấn


9_Lê Văn Nỗ  29-03-1948
An Nhơn- Gò Vấp- Gia Định
Cha: Lê Văn Tam
Mẹ: Nguyễn Thị Cúc

5-8-1968_ Quảng Trị


10_ Họa Sĩ Phan ( Phạm) Sơn  Số Quân:70/ ……
Sinh ngày :….
Tử trận: 27-07-1969
(12-6-Kỉ Dậu)
Tai HT Fre Base Davis


11_ Đinh Văn Hảo
Tử Trận: 30-09-1969


12_ Nguyễn Pho (Phô)  SQ: 57/216504
Tử Trận: 01-02-1968
Nguyên Quán: Đại Lộc Quảng Nam

Tiểu Đoàn 2/1 _ Đại Đội 1/2


13_ B1 Cao Văn Thời  Sinh: 1944 Phú Nhuận_ Sài Gòn
Con Ộng: Cao Văn Vinh
Bà : Phạm Thị Mười
TT: 01-02-1968 tai Quảng Trị
Tiểu Đoàn 2/1


14_ Nguyễn Văn Vào
BSQD – SQ 64/103267
Tai: Mỹ T…….


15_ Phạm Văn Hải  65/175503
Sinh 1945_ Long An
Cha: Pham Quế
Mẹ: Nguyễn Thị Ngọt
TT: 28-02-1968- Quảng Trị


16_ Thiếu Úy Lê Khắc Minh  66/139428
23-9-1946 tai Thanh Cẩm- Hương Yên
Tiểu Đoàn: 2/2
TT12-02-1968


17_ Hạ Sĩ Hồ văn Quân  64/208306
Sinh tại: Phú An- Mộ Đức – Quảng Ngãi
TT: 04-02-1968
Tiểu Đoàn 2/2 PL


18_ Hạ Sĩ QD Nguyễn Văn Bông
56/804583
Bình Phước- Biên Hòa
TT: 10-02-1968
Tiểu Đoàn 2/2 PL


19_ Hạ Sĩ QD Lê Văn Thành  57/000304
Cai Lậy- Đinh Tường

TT04/02/1968

TĐ 2/2 L


20_ Hạ Sĩ QD Lương H. Cường
Tiểu Đoàn: 2/1
TT: 01-02-1968


21_ Phạm Văn Đủ  BSQD – SQ: 68/8…1101
Sinh: 15-08-1947 ( Công Giáo)

TT 04-02-1968

Tiểu Đoàn:2/1 Đại Đội 3 Phong Lập


22_ Nguyễn Văn Chiến  01-01-1942_ Cần Thơ
TT 1-2-1968
Me: Nguyễn Thị Hải lập mộ


23_ Nguyễn Văn Chiến  SQ: 62/100192
Nguyên Quán: Đường Trần Quang Khải- Sài Gòn
Tiểu Đoàn: 2/1_ đại đội 1/2


24_Thiếu Tá Võ Văn Thừa_ Phật Giáo  Sinh: 4-12-1939

Tai: Kiến Hòa

Tử Trận 1-2-1968(3-1- AL )
anh Nguyễn Văn Tá lập Mộ


25_ BSQD Dương Cần  
Sinh 1945
SQ: 65/208574
Nguyên quán Sơn Trà- Sơn Tịnh- Quảng Ngãi
TT 5-2-1968
Con Ông: Dương Câu
Bà: Nguyễn Thị Đào
Tiểu Đoàn: 1/2


26_ BSQD Trương Văn Dũng  
SQ 66A/ 115830
Sinh:1946 Quán Thuận Hòa- Tỉnh Sóc Trăng
TT 5-2-1968
Cha: Trương Cam Thân
Mẹ: Nguyễn Thị Lan
Vợ: Trần Thị Đúp


27_BSQD Nguyễn Văn Thông  65/ 000207
Mỹ- An- Hưng Sa Đéc- Long An
TT 31-01-1968
Cha: Nguyễn Thu
Mẹ: Lương T. Hai
Vợ: Trần Thị Tuyết Nguyên


28_Nguyễn Văn Lý  Sinh: 1942
Thốt Nốt- An Giang- Nam Phần
TT: 27-1-1968
Vợ: Võ Thị Điền lập mộ


29_ Dương Quang Phương

25-10-1940

Tiên Phước- QN
TT 27-2-Đinh Mùi
Vợ: Nguyễn Thị Chúng
Con: Dương Quang Phước


30_Hạ Sĩ Nguyễn Ngoc S….
Tiểu Đoàn 2 ( Nhảy dù)
TT 2-1-1968
KBC4
Con Bà:…. Thị Trẻ
Quận Điện Bàn_ Quảng Nam_ Phụng Lập


31_ BSQDDo964 Ngọc But  31-1-1968
Hòa An- CL- Khánh Hòa


32_   1970 Lập mộ  Nguyễn Văn Đại
3-1-1968
Vợ: Hồ Thị Tẽo


33_ Vô Danh  64/248494
24-2-19….
Hải Phòng
Cha: Nguyễn S Tin
Mẹ: Lý Thị Cần
TT 19-2-1968


34_ Nguyễn………. ang  SQ:62/165276
Sinh 1942- Gò Công
TT: 19-2-1968
Cha: Nguyễn Văn Va
Me: Phan Thị Sự


35_ Trần Văn Lân  SQ: 64/201208
1-4-1968
Chánh Quán Hòa Lộc_ Hương Mỹ_ Vĩnh Bình


36_ Giang Binh Lai  62/804467
NQ Bình Tha- Bình Dương
Tiểu Đoàn 2/1
Đại Đội: 1/2


Ghi chú
: những chữ ghi thiếu ( …..) là một số bia mộ bị mờ hoặc bị đạn bắn nên không thấy rõ chữ.
Từ hôm tôi rời Quảng Trị đến nay đã nửa tháng, hai Ông Bà Già có gọi điện hỏi thăm là tôi đã đăng tin này lên mạng chưa?!!!
Tôi có cảm tưởng rằng Ông Bà hiểu lắm nỗi lòng của những người lính đang nằm đó, dưới những lùm cỏ, trong bụi gai, không một nén hương mong mỏi lắm được trở về nhà, bên người thân, bạn bè và đồng đội…


Như-Ý
   101 One Way St.
    Hóc Môn, SG 98175
__._,_.___

Posted by: tuyen do 

Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà

$
0
0

Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà
   TRI ÂN QUÂN LỰC
VIỆT NAM CỘNG HÒA
(Gratitude Republic of Vietnam forces)

Quân Lực Việt Nam Lính Cộng Hòa
đã  từng  chiến  đấu  khổ  can  qua
ngày đêm canh gác bảo toàn  Quốc
năm tháng di hành giữ  vững  Gia
mặt trận  hào hùng  vang hiển hách
sa trường dũng cảm khó phai nhòa
dù nay đội  ngũ trong thương tiếc
sử sách son vàng thắm mãi  hoa

Tố Nguyên

CHIẾN SĨ TRẬN VONG
 Memorial Day

tri   ân   liệt   sĩ   đã   hy   sinh
vì nước vì dân  dâng hiến mình
gan dạ hào hùng ngoài mặt trận
uy nghiêm oai vệ giữa tiền đình
xả thân không hỏi một phần thưởng
hành nghĩa chỉ đòi toàn thắng binh
lịch sử son vàng gương dũng cảm
đời đời ghi nhớ chiến công anh .

Tố Nguyên

Nguyễn thị Thảo An




thienthanmudo02
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua(*)



.
Những hình ảnh yêu quý trong QLVNCH .
Không biết những người lính trong những tấm hình này giờ ở đâu ?
Mong mọi điều bình an và may mắn đến với các anh.
vnch-19.jpg


alt
Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế hính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn,bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam.

Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.

Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. 

Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. 

Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. 

Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước..Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch. Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác,ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.

Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. 

Tất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?

Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.

Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. 

Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.

Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)

Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. 

Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.

Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà... Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai...


Nguyễn thị Thảo An



Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến ?

__._,_.___

Posted by: tuyen do 

Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà

$
0
0

Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà
   TRI ÂN QUÂN LỰC
VIỆT NAM CỘNG HÒA
(Gratitude Republic of Vietnam forces)

Quân Lực Việt Nam Lính Cộng Hòa
đã  từng  chiến  đấu  khổ  can  qua
ngày đêm canh gác bảo toàn  Quốc
năm tháng di hành giữ  vững  Gia
mặt trận  hào hùng  vang hiển hách
sa trường dũng cảm khó phai nhòa
dù nay đội  ngũ trong thương tiếc
sử sách son vàng thắm mãi  hoa

Tố Nguyên

CHIẾN SĨ TRẬN VONG
 Memorial Day

tri   ân   liệt   sĩ   đã   hy   sinh
vì nước vì dân  dâng hiến mình
gan dạ hào hùng ngoài mặt trận
uy nghiêm oai vệ giữa tiền đình
xả thân không hỏi một phần thưởng
hành nghĩa chỉ đòi toàn thắng binh
lịch sử son vàng gương dũng cảm
đời đời ghi nhớ chiến công anh .

Tố Nguyên

Nguyễn thị Thảo An




thienthanmudo02
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua(*)



.
Những hình ảnh yêu quý trong QLVNCH .
Không biết những người lính trong những tấm hình này giờ ở đâu ?
Mong mọi điều bình an và may mắn đến với các anh.
vnch-19.jpg


alt
Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế hính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn,bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam.

Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.

Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. 

Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. 

Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. 

Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước..Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch. Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác,ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.

Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. 

Tất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?

Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.

Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. 

Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.

Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)

Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. 

Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.

Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà... Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai...


Nguyễn thị Thảo An



Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến ?

__._,_.___

Posted by: tuyen do 

Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà

$
0
0

Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà
   TRI ÂN QUÂN LỰC
VIỆT NAM CỘNG HÒA
(Gratitude Republic of Vietnam forces)

Quân Lực Việt Nam Lính Cộng Hòa
đã  từng  chiến  đấu  khổ  can  qua
ngày đêm canh gác bảo toàn  Quốc
năm tháng di hành giữ  vững  Gia
mặt trận  hào hùng  vang hiển hách
sa trường dũng cảm khó phai nhòa
dù nay đội  ngũ trong thương tiếc
sử sách son vàng thắm mãi  hoa

Tố Nguyên

CHIẾN SĨ TRẬN VONG
 Memorial Day

tri   ân   liệt   sĩ   đã   hy   sinh
vì nước vì dân  dâng hiến mình
gan dạ hào hùng ngoài mặt trận
uy nghiêm oai vệ giữa tiền đình
xả thân không hỏi một phần thưởng
hành nghĩa chỉ đòi toàn thắng binh
lịch sử son vàng gương dũng cảm
đời đời ghi nhớ chiến công anh .

Tố Nguyên

Nguyễn thị Thảo An




thienthanmudo02
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua(*)



.
Những hình ảnh yêu quý trong QLVNCH .
Không biết những người lính trong những tấm hình này giờ ở đâu ?
Mong mọi điều bình an và may mắn đến với các anh.
vnch-19.jpg


alt


Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế hính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn,bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. 

Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ.

 Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam.

Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.

Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. 

Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. 

Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. 

Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.

Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. 

Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.

Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. 

Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước..Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch. Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác,ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.

Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. 

Tất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?

Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. 

Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.

Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? 

Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. 

Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. 

Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. 

Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. 

Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.

Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. 

Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. 

Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)

Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. 

Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. 

Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. 

Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.

Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà... Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai...


Nguyễn thị Thảo An



Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến ?

__._,_.___

Posted by: tuyen do 

Chút gì để nhớ Sàigòn những ngày tháng cũ XÀ BÔNG CÔ BA

$
0
0


Show original message


From: Huy Dang




                            Chút gì để nhớ Sàigòn những ngày tháng cũ
                            XÀ BÔNG CÔ BA
                                     ***  
        
Xà phòng Cô Ba đang được trưng bày trong Bảo tàngTP HCM


VIDEO

Nếu người miền Bắc khâm phục nhà tài phiệt Bạch Thái Bưởi thì ở miền Nam có ông Trương Văn Bền (1883 - 1956), chủ nhân nhãn hiệu Xà bông Cô Ba. Cả hai đều thành công trên thương trường nhưng không hề trải qua trường lớp và dĩ nhiên là không bằng cấp. Điều đó chứng tỏ họ là những con người có đầu óc kinh doanh, tháo vát, nhiều sáng kiến, đóng góp thiết thực vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước.

Ông Trương Văn Bền 

 Wikipedia


Trước khi làm một nhà doanh thương, ông Bền còn là một ông Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Gia sản đồ sộ của Trương Văn Bền là do công sức của ông làm ra. Không phải ông Bền làm giàu bằng ruộng đất, ông có một lối đi riêng bằng con đường công nghiệp đáng để làm gương cho những người đi sau.


Ông Trương Văn Bền, Cô Ba và gia đình.
 (Năm 1948 gia đình ông chuyển sang sinh sống tại Pháp).

Là người Việt gốc Tàu, sinh năm 1883 tại Chợ Lớn, ông Trương Văn Bền thuộc một gia đình khá giả. Ông có đi Pháp nhiều lần, nhưng chưa hề học qua một trường chuyên nghiệp nào. Theo bảng lượng giá để đánh thuế của Phủ toàn quyền Đông Dương ở Hànội, năm 1941, ông Trương Văn Bền phải đóng thuế cho chính phủ một số tiền lên tới 107.000 đồng, trong khi đó, giá vàng khoảng 60 đồng/lượng.

Là người nhạy cảm trong việc thương mại, nhìn xa thấy rộng, ông Bền biết rõ một tiềm năng kinh tế Việt nam còn bị lãng quên: cây dừa. Từ năm 1918, ông đã lập xưởng ép dầu dừa (dùng trong kỹ nghệ xà bông, mỹ phẩm) mỗi tháng sản xuất 1.500 tấn. Năm 1932, hãng xà bông Trương Văn Bền được thành lập tại đường Quai de Cambodge (trước chợ Kim Biên bây giờ), ban đầu sản xuất 600 tấn xà bông giặt mỗi tháng. Từ khi Xà bông Cô Ba tức xà bông thơm đầu tiên của Việt Nam ra đời, Cô Ba đã đánh bạt xà bông thơm của Pháp, nhập cảng từ Marseille, nhờ phẩm chất tốt, giá thành thấp.

Trong thương trường, ông Bền có chủ trương riêng để tạo uy tín là phải giữ chất lượng tốt và sản phẩm phải hợp với túi tiền người tiêu dùng. Ông nhìn xa thấy rộng, không theo lối chụp giựt, ăn xổi ở thì. Mặc đầu có địa vị cao trong xã hội, nhưng ông Bền không tự mãn. Ông luôn luôn tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm mỗi lần có dịp qua Pháp. 

alt



Những cục xà bông đầu tiên

Khi máy giặt được phát minh và nhập cảng vào Việt Nam, ông Bền liền sản xuất loại bột giặt để thích ứng ngay. Loại bột giặt Viso của ông Trương Văn Khôi, và bột giặt Việt Nam của hãng xà bông Trương Văn Bền (lúc đó đổi thành Hãng Xà bông Việt nam), có đủ sức cạnh tranh với bột giặt nhập cảng từ Mỹ. 

Những người lớn tuổi, không ai không biết đến xà bông “Cô Ba”, có in hình nổi trên cục xà bông thơm hình oval. Ngoài hộp xà bông bằng giấy carton cũng có in hình người đàn bà búi tóc đó. 
       
Nhiều giai thoại kể lại rằng người đàn bà in hình trong cục xà bông thơm và nhãn hiệu đó chính là người vợ thứ của ông Bền. Cái hay của ông Trương Văn Bền là biết áp dụng tâm lý, đưa hình ảnh Cô Ba, người đẹp huyền thoại trong dân gian làm nhãn hiệu cho sản phẩm hàng hoá của mình.      



Tem và chân dung Cô Ba 
      
Khi đã định hình được tên tuổi sản phẩm và thị trường tiêu dùng, Trương Văn Bền đặc biệt chú trọng vào quảng cáo, khuếch trương thương hiệu. Trong suốt thời gian dài hầu hết báo chí thời đó đều đăng mục quảng cáo “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” hoặc “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam” của Hãng Xà bông Trương Văn Bền.     

Trong các cuộc triển lãm được mở cửa hàng năm tại các tỉnh và Sàigòn, bao giờ gian hàng của ông Bền cũng được thiết lập đặc biệt  nhất với mô hình một cục xà bông khổng lồ gây được sự chú ý và tò mò đặc biệt của người xem. Chưa dừng lại ở đó, tại các gian hàng còn có bán xà bông gọi là chào hàng với giá rẻ hơn bên ngoài đến 25%. Trương Văn Bền còn đưa nhãn hiệu xà bông Trương Văn Bền vào những loại hình nghệ thuật dân tộc được người Việt yêu thích như vọng cổ, thơ lục bát đề cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước... khiến cho từ giới bình dân đến trí thức người Việt đều biết đến sản phẩm của ông.

   
  Không chỉ nổi tiếng trong lĩnh vực sản xuất tinh dầu, xà bông, Trương Văn Bền còn nổi tiếng trong kinh doanh lúa gạo, hình ảnh nhà máy xay lúa của Trương Văn Bền.  

Với sự ra đời của Hãng Xà bông Trương Văn Bền ở Nam Kỳ năm 1932, Việt Nam hãnh diện được một xưởng công nghệ quy mô, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế trong thời kỳ phôi thai. Các xưởng ép dầu, xưởng làm xà bông, thâu nhận và tạo công ăn việc làm cho trên 200 công nhân. Khi công việc làm ăn phát đạt thêm, ông Bền còn xuất tiền cất một dãy phố 50 căn, gần Ngã Sáu Chợ Lớn, nằm góc đường Armans Rousseau và Général Lizé (trước năm 1975 đổi thành Minh Mạng-Hùng Vương).

alt
Công Ty Xà Bông Việt Nam

Ông Bền có nhiều con trai lẫn gái. Một người con, tôi được nghe nhắc tới là ông Trương Khắc Trí, từng là chủ tịch ban quản trị Việt nam Công Thương Ngân Hàng (lập năm 1953)tại Sàigòn. Người con trai út, ông Trương Khắc Cần, thay cha quản lý Hãng Xà bông Việt nam cho tới năm 1975. 

Sau năm 1975, Công ty Trương Văn Bền và Các Con trở thành Nhà máy  hợp doanh Xà bông Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ. Năm 1995, đơn vị này trở thành công ty Phương Đông thuộc Bộ Công nghiệp. Tháng 7/1995, công ty Phương Đông liên doanh với tập đoàn Proter & Gamble lập một nhà máy mới ở Sông Bé.       

Trong ký sự Một tháng ở Nam Kỳ, nhà văn Phạm Quỳnh có nhắc đến ông Trương Văn Bền: Ông Trương Văn Bền là một nhà công nghiệp to ở Chợ Lớn, năm trước cũng có ra xem hội chợ ở Hànội, đem xe hơi ra đón các phái viên Bắc Kỳ về xem nhà máy dầu và nhà máy gạo của ông ở Chợ Lớn. Xem qua cái công cuộc ông gây dựng lên, đã to tát như thế mà chúng tôi thấy hứng khởi trong lòng, mong mỏi cho đồng bào ta ngày một nhiều người như ông, ngõ hầu chiếm được phần to lớn trong trường kinh tế nước nhà và thoát ly được cái ách người Tàu về đường công nghệ thương nghiệp.      




Nhãn hiệu và quảng cáo sản phẩm Cô Ba Nguyễn Thị Kiều.


(Trích Hồi Ức Một Đời Người - Nguyễn Ngọc Chính)

***







__._,_.___

Posted by: Truc Chi 

Chút gì để nhớ Sàigòn những ngày tháng cũ XÀ BÔNG CÔ BA

$
0
0


Show original message


From: Huy Dang




                            Chút gì để nhớ Sàigòn những ngày tháng cũ
                            XÀ BÔNG CÔ BA
                                     ***  
        
Xà phòng Cô Ba đang được trưng bày trong Bảo tàngTP HCM


VIDEO

Nếu người miền Bắc khâm phục nhà tài phiệt Bạch Thái Bưởi thì ở miền Nam có ông Trương Văn Bền (1883 - 1956), chủ nhân nhãn hiệu Xà bông Cô Ba. Cả hai đều thành công trên thương trường nhưng không hề trải qua trường lớp và dĩ nhiên là không bằng cấp. Điều đó chứng tỏ họ là những con người có đầu óc kinh doanh, tháo vát, nhiều sáng kiến, đóng góp thiết thực vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước.

Ông Trương Văn Bền 

 Wikipedia


Trước khi làm một nhà doanh thương, ông Bền còn là một ông Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Gia sản đồ sộ của Trương Văn Bền là do công sức của ông làm ra. Không phải ông Bền làm giàu bằng ruộng đất, ông có một lối đi riêng bằng con đường công nghiệp đáng để làm gương cho những người đi sau.


Ông Trương Văn Bền, Cô Ba và gia đình.
 (Năm 1948 gia đình ông chuyển sang sinh sống tại Pháp).

Là người Việt gốc Tàu, sinh năm 1883 tại Chợ Lớn, ông Trương Văn Bền thuộc một gia đình khá giả. Ông có đi Pháp nhiều lần, nhưng chưa hề học qua một trường chuyên nghiệp nào. Theo bảng lượng giá để đánh thuế của Phủ toàn quyền Đông Dương ở Hànội, năm 1941, ông Trương Văn Bền phải đóng thuế cho chính phủ một số tiền lên tới 107.000 đồng, trong khi đó, giá vàng khoảng 60 đồng/lượng.

Là người nhạy cảm trong việc thương mại, nhìn xa thấy rộng, ông Bền biết rõ một tiềm năng kinh tế Việt nam còn bị lãng quên: cây dừa. Từ năm 1918, ông đã lập xưởng ép dầu dừa (dùng trong kỹ nghệ xà bông, mỹ phẩm) mỗi tháng sản xuất 1.500 tấn. Năm 1932, hãng xà bông Trương Văn Bền được thành lập tại đường Quai de Cambodge (trước chợ Kim Biên bây giờ), ban đầu sản xuất 600 tấn xà bông giặt mỗi tháng. Từ khi Xà bông Cô Ba tức xà bông thơm đầu tiên của Việt Nam ra đời, Cô Ba đã đánh bạt xà bông thơm của Pháp, nhập cảng từ Marseille, nhờ phẩm chất tốt, giá thành thấp.

Trong thương trường, ông Bền có chủ trương riêng để tạo uy tín là phải giữ chất lượng tốt và sản phẩm phải hợp với túi tiền người tiêu dùng. Ông nhìn xa thấy rộng, không theo lối chụp giựt, ăn xổi ở thì. Mặc đầu có địa vị cao trong xã hội, nhưng ông Bền không tự mãn. Ông luôn luôn tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm mỗi lần có dịp qua Pháp. 

alt



Những cục xà bông đầu tiên

Khi máy giặt được phát minh và nhập cảng vào Việt Nam, ông Bền liền sản xuất loại bột giặt để thích ứng ngay. Loại bột giặt Viso của ông Trương Văn Khôi, và bột giặt Việt Nam của hãng xà bông Trương Văn Bền (lúc đó đổi thành Hãng Xà bông Việt nam), có đủ sức cạnh tranh với bột giặt nhập cảng từ Mỹ. 

Những người lớn tuổi, không ai không biết đến xà bông “Cô Ba”, có in hình nổi trên cục xà bông thơm hình oval. Ngoài hộp xà bông bằng giấy carton cũng có in hình người đàn bà búi tóc đó. 
       
Nhiều giai thoại kể lại rằng người đàn bà in hình trong cục xà bông thơm và nhãn hiệu đó chính là người vợ thứ của ông Bền. Cái hay của ông Trương Văn Bền là biết áp dụng tâm lý, đưa hình ảnh Cô Ba, người đẹp huyền thoại trong dân gian làm nhãn hiệu cho sản phẩm hàng hoá của mình.      



Tem và chân dung Cô Ba 
      
Khi đã định hình được tên tuổi sản phẩm và thị trường tiêu dùng, Trương Văn Bền đặc biệt chú trọng vào quảng cáo, khuếch trương thương hiệu. Trong suốt thời gian dài hầu hết báo chí thời đó đều đăng mục quảng cáo “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” hoặc “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam” của Hãng Xà bông Trương Văn Bền.     

Trong các cuộc triển lãm được mở cửa hàng năm tại các tỉnh và Sàigòn, bao giờ gian hàng của ông Bền cũng được thiết lập đặc biệt  nhất với mô hình một cục xà bông khổng lồ gây được sự chú ý và tò mò đặc biệt của người xem. Chưa dừng lại ở đó, tại các gian hàng còn có bán xà bông gọi là chào hàng với giá rẻ hơn bên ngoài đến 25%. Trương Văn Bền còn đưa nhãn hiệu xà bông Trương Văn Bền vào những loại hình nghệ thuật dân tộc được người Việt yêu thích như vọng cổ, thơ lục bát đề cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước... khiến cho từ giới bình dân đến trí thức người Việt đều biết đến sản phẩm của ông.

   
  Không chỉ nổi tiếng trong lĩnh vực sản xuất tinh dầu, xà bông, Trương Văn Bền còn nổi tiếng trong kinh doanh lúa gạo, hình ảnh nhà máy xay lúa của Trương Văn Bền.  

Với sự ra đời của Hãng Xà bông Trương Văn Bền ở Nam Kỳ năm 1932, Việt Nam hãnh diện được một xưởng công nghệ quy mô, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế trong thời kỳ phôi thai. Các xưởng ép dầu, xưởng làm xà bông, thâu nhận và tạo công ăn việc làm cho trên 200 công nhân. Khi công việc làm ăn phát đạt thêm, ông Bền còn xuất tiền cất một dãy phố 50 căn, gần Ngã Sáu Chợ Lớn, nằm góc đường Armans Rousseau và Général Lizé (trước năm 1975 đổi thành Minh Mạng-Hùng Vương).

alt
Công Ty Xà Bông Việt Nam

Ông Bền có nhiều con trai lẫn gái. Một người con, tôi được nghe nhắc tới là ông Trương Khắc Trí, từng là chủ tịch ban quản trị Việt nam Công Thương Ngân Hàng (lập năm 1953)tại Sàigòn. Người con trai út, ông Trương Khắc Cần, thay cha quản lý Hãng Xà bông Việt nam cho tới năm 1975. 

Sau năm 1975, Công ty Trương Văn Bền và Các Con trở thành Nhà máy  hợp doanh Xà bông Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ. Năm 1995, đơn vị này trở thành công ty Phương Đông thuộc Bộ Công nghiệp. Tháng 7/1995, công ty Phương Đông liên doanh với tập đoàn Proter & Gamble lập một nhà máy mới ở Sông Bé.       

Trong ký sự Một tháng ở Nam Kỳ, nhà văn Phạm Quỳnh có nhắc đến ông Trương Văn Bền: Ông Trương Văn Bền là một nhà công nghiệp to ở Chợ Lớn, năm trước cũng có ra xem hội chợ ở Hànội, đem xe hơi ra đón các phái viên Bắc Kỳ về xem nhà máy dầu và nhà máy gạo của ông ở Chợ Lớn. Xem qua cái công cuộc ông gây dựng lên, đã to tát như thế mà chúng tôi thấy hứng khởi trong lòng, mong mỏi cho đồng bào ta ngày một nhiều người như ông, ngõ hầu chiếm được phần to lớn trong trường kinh tế nước nhà và thoát ly được cái ách người Tàu về đường công nghệ thương nghiệp.      




Nhãn hiệu và quảng cáo sản phẩm Cô Ba Nguyễn Thị Kiều.


(Trích Hồi Ức Một Đời Người - Nguyễn Ngọc Chính)

***







__._,_.___

Posted by: Truc Chi 
Viewing all 675 articles
Browse latest View live