Quantcast
Channel: Books-Hoi Ky.
Viewing all 674 articles
Browse latest View live

Nỗi buồn Việt Nam đáng suy ngẫm

$
0
0

 
Nỗi buồn Việt Nam đáng suy ngẫm
Bởi nghenói ông ĐXD dungdinh3575@sbcglobal.netlà Bác Sĩ và là nguyên Dân Biểu Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi thử đọc bài viết do ông giới thiệu
Bài viết lấy từ một quyển sách đang viết về Việt Nam do Uwe Siemon-Netto, một  nhà báo ở nước Đức.
Vẫn biết, là một nhà báo thì tầm nhìn bị hạn chế trong phạm vi của công việc, do đó nhận thức cũng sẽ bị hạn chế tương ứng. Nhưng lý luận không thích hợp thì sẽ là quá tệ cho phẩm chất của một nhà báo. Thí dụ, nhà báo viết :
Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc "giải phóng."Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai?
Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì "chiến tranh nhân dân" phải được hiểu là cuộc "chiến tranh của nhân dân."
  
Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa.Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân
.

Thưa ông Uwe Siemon-Netto, tạm chấp nhận những thông tin mà ông đưa ra để làm luận cứ cho “cuộc chiến tranh chống nhân dân” của ông. Nhưng thông tin ấy nói, “chỉ có lính Việt và lính ngoại bang Mỹ chết với  những con số nhân mạng rất lớn”. Cớ gì mà vũ khí và lính Mỹ lại ở đất nước Việt Nam với số lượng lớn ? Như vậy, người Việt đánh đuổi quân ngoại bang ngay trên đất nước mình tại sao lại không phải là trách nhiệm và là cuộc chiến của nhân dân Việt ?
Nếu nhà báo còn muốn nói có cả lính VNCH chết nữa phải không ? Thế thì, ông có tính thêm dữ kiện là ngoại bang Mỹ đã trả lương và chiến phí cho lính VNCH đánh người Việt chưa (dĩ nhiên là theo yêu cầu của người chi tiền)? Nhưng, ông nhà báo đã không đếm xỉa gì đến dữ kiện chiến phí quan trọng ấy thì lý luận của ông rõ ràng là không thích hợp, là không có phẩm chất của một nhà báo chân chính.
Thưa ông nhà báo Uwe Siemon-Netto, thực ra chỉ cần một điều không thích hợp trên đây thôi, chúng tôi đã có thể đánh giá phẩm chất lý luận và phẩm chất công trình viết lách của ông là không có giá trị và không đáng để quan tâm.
Tuy nhiên, xin nhắc nhở ông nhà báo rằng, cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc hơn 40 năm, đến nay đã có hàng trăm ngàn trang tài liệu được Mỹ giải mật, tại sao ông nhà báo lại không chịu khó nhọc bỏ công tham khảo để bù đắp cho những hạn chế về kiến thức cùng tầm nhìn để có thể viết ra một tác phẩm đúng và giá trị ?
Nếu nói rằng ông ông có đọc và tham khảo. Vậy thì, ông đã luận ra sao về vài tài liệu sau đây :
. Công điện của Đại Sứ Cabot Lodge [1], ngày 7 tháng 9 1963, tường trình về việc loại bỏ các ông Tổng Thống Diệm và Cố Vấn Nhu của VNCH ?.
. Công điện của Đại Sứ Graham Martin [2], ngày 21 tháng 1 1974,  tường trình về việc Mỹ đã “hưởng thụ cùng với Trung Cộng trong việc đánh chiếm Hoàng Sa” và về việc ngăn chặn Không Quân VNCH tham chiến khi Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa.
Với những dữ kiện chính yếu trên đây, cộng thêm dữ kiện chính là ông Tổng Thống Thiệu đã thú nhận rằng VNCH “bị nô lệ viện trợ Mỹ” và quân đội VNCH chỉ đánh thuê cho Mỹ *đủ để chứng minh cuộc chiến tranh chống ngoại xâm Mỹ và tay sai là cuộc chiến của nhân dân Việt. Nhà báo Uwe Siemon-Netto cần phải cập nhật kiến thức và tầm nhìn nhiều hơn nữa thì mới hi vọng viết được một quyển sách có giá trị.
Khách Quan.
*Câu nói để đời của ông Tổng Thống Thiệu : “Mỹ chi tiền đến đâu, đánh đến đó” !
TB : Người nước ngoài viết về VN, có sai sót là chuyện thường, không quan trọng.
Người Việt ít học, nhận thức sai sót cũng là chuyện thường..
Nhưng người Việt thuộc tầng lớp gọi là ‘tinh hoa” mà nhận thức và lý luận kém thì không thể chấp nhận được.
Bác sĩ mà nhận thức và lý luận kém thì sẽ hại, thậm chí hại chết, bệnh nhân. Dân biểu, chính trị gia mà nhận thức và lý luận kém thì sẽ hại người dân ngàn lần hơn. Đó làNỖI BUỒNHIỆN NAY CỦADÂN VIỆT
[1]
FRUS 1961-1963 VOLUME IV, DOC 72, AUG-DEC 1963
FOREIGN RELATIONS OF THE UNITED STATES, 1961–1963
VOLUME IV, VIETNAM, AUGUST–DECEMBER 1963, DOCUMENT 72



72. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State1
Saigon, September 7, 1963, 2 p.m.
434. CINCPAC for POLAD—exclusive for Admiral Felt. Eyes only for Secretary. Herewith report of meeting from 6 to 8:15 p.m. Friday2 between [less than 1 line not declassified] and Nhu.
1. [less than 1 line not declassified] stressed the urgent crisis created by the situation in US Senate described in Hilsman's no. 3353 to me. They explained that passage of a resolution described in the telegram would be an irreversible action and would commit every Senator voting for it to vote against further appropriations.
2. They think Nhu was shaken by this news which evidently he had not expected. Nhu said he had expected me to come back, apparently, “to negotiate” with him about his resignation. [less than 1 line not declassified] said that there was nothing for me to negotiate; that I, from a background of 25 years in US public life, had given my very best advice, which was for him to leave the country immediately for six months. It was up to him to take the advice or to reject it. There was nothing to haggle over.
3. Then came a long tirade by Nhu who lost his usual impassive composure and walked up and down. Some of his statements were:
a. “I'm the winning horse—they should bet on me. Why do they want to finish me? I want to be—not the adviser to Pres. Diem—but the adviser to Henry Cabot Lodge.
b. “I may leave the country after a month and what if 100 Strategic Hamlets go over to the Communists while I am away?
c. “I am alarmed by what's going on in the Armed Forces. If I leave, the Armed Forces will take over the government. 'Ces grenouillards' (which I translate as “these schemers” or 'these contrivers') of the CIA and USIS will sabotage the war effort.”
FYI: This is first admission I have seen that Army was worrying him. Nhu also said he was burning his papers.
4. Madame Nhu is to leave on Monday4 —for a two or three months “rest” in Europe.
5. Nhu stressed he would not consider leaving country, but would formally resign without retaining any connection with Strategic Hamlets. After a “number of months” had gone by he might consider leaving for a period of 3 or 4 months. When he did resign he would not deny that he had been kicked out. He would also consider any piece of legislation which would help to appease Buddhists, deal with Decree Law 10 and rebuild pagodas.
Comment: Believe it was good tactics for [less than 1 line not declassified] to see Nhu without me, as they obviously have no axe to grind. Am sure Nhu will not leave, but am also sure that news in Hilsman's telegram has shaken him. Planning Monday meeting with Diem, using Hilsman telegram, Deptel no. 3315 on situation in UN and anything else you may send me on Vietnamese interest in Congress.
Lodge

1 Source: Department of State, Central Files, POL 15 S VIET. Secret; Immediate. Received at 3:02 a.m. Repeated to CINCPAC. Passed to the White House and CIA.
2 September 6.
3 Document 63.
4 September 9.
5 In telegram 331, September 5, the Department of State informed the Embassy in Saigon that the Afro-Asian bloc in the United Nations had requested inscription of the Buddhist issue in South Vietnam as an “urgent and important” item on the upcoming General Assembly agenda. The Department instructed the Embassy to inform the Diem government that unless “far-reaching and well publicized steps towards settlement of the outstanding issues with the Buddhists” were taken, South Vietnam could expect substantive debate on the issue and a condemnatory resolution. If the South Vietnamese did not implement reforms, the United States would not oppose a resolution calling on the Republic of Vietnam to respect the principles of religious freedom and human rights. (Department of State, Central Files, SOC 14-15 VIET)

[2]

[Source: 417, SECRET, DECLASSIFIED, E.O. 12356, Sec. 3.4, MR 94-86, $26, 8/9/94. By NARA, Date 8/19/94. Photocopy from Gerald R. Ford Library]

 “210925Z JANUARY 1974 VIA MARTIN CHANNEL
SAIGON 0587 IMMEDIATE
JANUARY 21, 1974
TO GENERAL BRENT SCOWCROFT
FROM: AMBASSADOR GRAHAM MARTIN
REFS: A) WH 40327; B) SAIGON 924
1. You may wish to bring these further observations to Henry’s attention before he decides on the nature of his approach, if any, to the PRC.
2. Reftel provides answers to questions posed. The Naval Log is interesting to review. Characteristic caution which was countered in the end by compulsion not just to sit there and take it but to do something. This compulsion reinforced by President Thieu’s physical presence in Danang and consequent intangible pressure from necessity not to appear passive faced with what was too easily summarized as clear aggression. Had he been here in Saigon, and had we known about what he was contemplating, we could have probably talked him into more reasonable course of action. For example, I HEARD THIS MORNING HE HAD ORDERED RVNAF TO BOMB CHINESE FORCES IN PARACELS. THAT HAS BEEN STOPPED.
3. Question is where we go from here. What. for example, do we advise GVN to do about their garrison at Namyit Island in the Spratleys. Withdraw it? Reinforce it? Or sit and wait? Naval Log shows despatch of ship to Namyit on 15th. According to preliminary seismological reports beginning to leak, there is probably enormous quantities of oil under the South China Sea in the vicinity of these otherwise worthless bits of real estate.
Therefore, the stakes are pretty high. We cannot, I think, become directly involved in the disputes over sovereignty between our old allies – the RVN, the ROC, and the Philippines. Or between them and the PRC with whom we would hope to build a more forthcoming relationship. However, it would not seem that we would necessarily jeopardize any of them by reiterating quietly and behind the scenes, our traditional position opposing use of force to settle territorial disputes, and such equally traditional positions as the use of the ICRC to facilitate immediate return of dead and wounded.
4. Indeed, if the PRC were to accede to the GVN request to return the dead and wounded under ICRC auspices, it would be a rather large stick to use to push the DRV into a more forthcoming attitude on the current “prisoner exchange” issue which they are stalling now in the TPJMC discussions. If, in addition, the PRC would use the rubric of “wounded” to return all the prisoners as a Tet gesture, it would be an even greater weapon to use on the DRV.
5. I have just been handed FBIS transcript of Peking NCNA Domestic Chinese 210112Z which says, inter alia “persons captured from the other side in this war of self-defense will be repatriated at an appropriate time.” In both Chinese and Vietnamese context there could be no more appropriate time than Tet. Of course, we do not know if the captured are still on Pattle Island or have been removed to Hainan or to the Mainland. It would, of course, be much easier to repatriate them from Pattle Island.
6. Question of Kosh further complicated by fact that UPI Saigon has story from Vietnamese sources that “American with meteorlogical station on Pattle Island now presumably captured by Chinese.”
This is all they have. They do not have his name or fact that he is DAO civilian employee. When queried we did not ask they kill or hold story but observed if it not carried for 24 hours, it might greatly facilitate release. UPI Bureau Saigon is so recommending to Bill Landry, Foreign Editor, UPI, in New York. What he will decide we do not know.
7. On the diplomatic front we have based on observations of USUN, advised GVN to simply file complaint with Security Council but not to press for hearing and certainly not for vote. Thieu wishes despatch letter to President Nixon requesting intervention and condemnation of PRC. We have strongly advised no such letter be sent, since there could be only negative reply, adding that I would myself recommend such a negative reply, We have recommended to Foreign Minister Bac that the GVN take its case to the International Court, and to play any report to SEATO very low key,
8. Out of all this may come a great deal of good. Certainly I shall be able to exert a greater influence in both restraining Thieu from any further ill-considered actions and also in being more forthcoming to meet any give, if any, in Le Duc Tho’s intransigence on prisoner exchange and the GVN proposal on the lowering the intensity of violence by refraining from use of mortars, rockets, and mines and other mass killers of innocent civilians. And, above all, on tightening up both his military command and control apparatus and give Khiem more power to coordinate the civilian ministries.
9. On balance, we should be looking for ways to use this incident, regrettable as it is, in ways which advance our overall objectives. Dispassionately and objectively I still believe low key approach to Chinese along lines I suggested might be useful. I do not suggest we insist they give the Paracels back to the GVN. They have them, and obviously they are not going to return them. Our recommendations that they accede to GVN request for return of dead and wounded and, further, that they may wish to use Tet to generously return all the prisoners are really, and I think would be perceived by the PRC to be, a tacit acceptance of their “fait accompli”. It just might, also, save the Spratleys and the possible oil under them for the GVN. It is just not credible to me that this incident is not one where the GVN stumbled into a PRC operation already well under way.
10. On balance, it seems to me that we would really gain with the PRC and at the same time appear to have done the only thing it makes sense for us to do for the GVN out of all that they have and will request. And, looking at it from this distance, there seems little, if any, danger that could possibly accrue to us from taking this initiative.





----- Forwarded Message -----
From:"Tien Dinh
Sent: Thursday, February 16, 2017 10:47 PM
Subject: [VIDANVIET] Fw: Fwd: Chuyện buồn Việt Nam


Nổi buồn Việt Nam đáng suy ngẩm .

ĐXD.
On Thursday, February 16, 2017 9:22 AM, Son Lu <l> wrote:
 Sent from my iPhone

 From:"Suecong
Date: February 13, 2017

Chuyện buồn Việt Nam

 Mời các  Bạn đọc đoạn kết cuốn sách của  tác giả người Đức này, quá hay, khi nào sách in ra, mỗi người 

chúng ta phải mua  một vài cuốn để dành cho con cháu, chắt chung ta đọc để chúng hiểu sự thật lịch sử.

MC


Người Đức ... nhưng anh nầy có vẻ hiểu chuyện VN hơn rất nhiều người ...

MỘT PHÓNG VIÊN NGƯỜIĐỨC VIT V VIT NAM..


Cuốn sách Đức: "A reporter's love for a wounded people" của tác giả Uwe Siemon-Netto đã được viết xong và đang chờ một số người viết "foreword" và endorsements.

Bản dịch cũng đã xong, được phép của tác giả chúng tôi xin giới thiệu đoạn kết rất xúc động mà tác giả đã nói lên ước muốn cùng với người Việt Nam nuôi dưỡng niềm hy vọng một ngày không xa Tự Do Dân Chủ sẽ trở lại với quê hương khốn khổ của chúng ta:


Đoạn kết

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng

Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày "giải phóng."

Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của
sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài.

 Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất.

Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?

Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt.
 
Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải
vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.

Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc "giải phóng."Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai?
 
Có phải miền Nam đã được "giải phóng" khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí?
 
Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?

Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?

Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc "chiến tranh nhân dân." Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì "chiến tranh nhân dân" phải được hiểu là cuộc "chiến tranh của nhân dân."
 
Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân.

Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là "vắng mặt không phép," câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?

Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.

Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là "I have no dog in this fight" (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách "Lời nguyện của nhà báo", tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.

Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).

Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.

Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do
lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?
 
Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà "tội ác" duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu?
 
Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội?
 
Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?

Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ.
 
Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).
 
Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.

Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau:
Giáp:
"Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!"

Charton:
"Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi... cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố."

Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.

Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là:

 khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đãchín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận.
 
Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.

Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử.
 
Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra.

Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?







__._,_.___

Posted by: Khach-Quan Tran

Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn

$
0
0
 
Như Một Nén Hương Lòng Chân Thành Kính Gỡi

đến Hương Linh Cố Trung Tá Không Quân  Nguyễn Thị Hạnh Nhơn.

Sonny Phạm


    KHÔNG QUÂN NGOẠI TRUYỆN: Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn
    Tác Giả Võ Ý

            KHÔNG QUÂN NGOẠI TRUYỆN

Trung TáNguyễnThị Hạnh Nhơn

                                       I- Đừng Đợi Ngày Mai...

                           RẤT NHIỀU NGƯỜI có thể không biết nhạc sĩ Trần Duy Đức là một  quân nhân từng phục vụ tại Sư Đoàn 6 Không Quân Pleiku trước 1975. Nhưng ngày nay, tại hải ngoại cũng như quốc nội, hầu như ai cũng biết lời ca “Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ, đừng đợi ngày mai đến lúc tôi qua đời”(1), mà tác giả là nhạc sĩ Trần Duy Đức phổ thơ Ngô Tịnh Yên

             Câu hát như một lời kinh, ai nghe cũng đồng tình. Mà đúng vậy, không lẽ đợi đến ngày mai, lúc nghĩa tận, mới rủ rê thăm viếng, nói lời yêu thuơng, đặt vòng hoa phúng điếu, thậm chí còn sưu tầm tướng mạo quân vụ, làm lễ phủ cờ, gác quan tài, đọc điếu văn nữa thì ích lợi gì? Đến lúc đó thì đã muộn màng vì “cát bụi làm sao mà biết mỉm cười?”(1), cát bụi làm sao biết nói lời tạ ơn những biểu hiện của tình cảm trân quý đó?

             Cho nên, nếu “có tốt với tôi thì tốt với tôi bây giờ”(1) “Tôi” trong lời ca là nói chung cho con người, cho dân tộc hay gia tộc, cho bằng hữu hoặc đồng bào đồng đội cùng màu cờ sắc áo...

                                                    Trong Không Quân, có Ban Quân Sử ghi chép những sự kiện liên quan đến hoạt động của Không Quân. Đặc San Lý Tưởng, các Đặc San KQ khác và các Trang nhà KQ có mục Không Quân NgoạiTruyện (KQNT) ghi lại những nhân vật đặc biệt của Quân chủng. Những bài viết về  KQNT không hẳn là dã sử nhưng những tình tiết trong câu chuyện hoàn toàn dựa trên người thật việc thật,được viết với giọng văn kể chuyện đôi khi pha một chút hóm hỉnh, như là đặc tính của KQ mà người ngoài cuộc có khi không thấmđể mà...cười!.

                                                    Trong hơn một triệu chiến sĩ phục vụ trong Quân Lực VNCH trước kia, rất ít người biết đến con số 6000 nữ quân nhân (NQN) hiện diện dưới cờ. Và trong 64 ngàn chiến hữu đệ huynh Không Quân (KQ) (2), rất ít người biết đến con số trên 300 NQN (?) phục vụ trong toàn Quân chủng  mà người đứng đầu là Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn.
                                       Chúng tôi cũng nằm trong số “rất ít người” đó.
            Trong cuộc chiến giữ nước khốc liệt trước kia, mỗi một quân nhân đều nhận một nhiệm vụ và ngày đêm lo hoàn thành nhiệm vụ do cấp trên giao phó, không ai rảnh rỗi để đi tìm hiểu hoạt động của các đơn vị bạn, nhất là đơn vị bạn lại là...Nữ Quân Nhân! (trừ trường hợp cá nhân đặc biệt!).
            Trải qua bao dâu bể, do cơ duyên, chúng tôi gom góp được ít điều chưabiếttrước kia và muốn chia sẻ cùng quý vị, ngay bây giờ, vì chúng tôi e rằng nếu để đến ngày mai có khi muộn màng. Điều tôi muốn chia sẻ là, bóng dáng một Trưởng Phân Đoàn Nữ Quân Nhân Không Quân, Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn.

            II- Một Mảnh Nhung Y Điểm Má Hồng

            CHÚNG TÔI THẬT SỰ ái ngại khi muốn tiếp cận với chị. Phải bay lòng vòng thám sát mục tiêu, dọ hỏi quân bạn (các NTKQ Bồ Đại Kỳ kỹ thuật, Nguyễn Cầu radar, Nguyễn Văn Ức trực thăng, Nguyễn Quí Chấn khu truc...), cho đến khi đã nắm chắc một số dữ kiện (là chị Hạnh Nhơn thật là hiền lành chứ không chằng ăn trăn quấn đâu),  chúng tôi mới quyết định gởi điện thư để  xin được tiếp chuyện với chị qua điện thoại.
            Nhìn chị trên TV qua các lần Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh...thì tôi vẫn nghĩ trong đầu, cao lắm thì chị Hạnh Nhơn hơn tôi vài niên kỷ và vài năm thâm niên quân vụ là cùng, (tôi nhập ngũ 1960). Nhưng không phải thế, chị thuộc loại Đại Niên Trưởng của tôi rồi. Năm 1950, chị gia nhập Việt Binh Đoàn ở Huế thì tôi  đang học tại Trường Nam Tiểu Học Đà Nẵng. Năm 1952, chị trúng tuyển ngành Nữ Phụ Tá (P.A.F. =Personnel Auxiliaire Féminin), mang cấp Chuẩn Úy và năm 1957,thăng cấp Thiếu Úy đảm nhiệm chức vụ Sĩ Quan Tiếp Liệu Quân-Y-Viện Nguyễn Tri Phương -  Huế, thì tôi vẫn còn vật lộn với sách đèn dưới mái trường Trung Học Phan Châu Trinh, Đà Nẵng!
            Ngày nay, không phải loại lão nhi như tôi mới có cái nhìn lệch lạc về dung nhan của chị Hạnh Nhơn, mà ngay cả lão trượng Vũ Văn Lộc, Đại Tá, tức nhà văn Giao Chỉ cũng mắc phải bé cái lầm một cách thật thà và dễ thuơng, như: “(…) Vâng, cả chị Hạnh Nhơn nữa, Giao Chỉ tôi lâu nay vẫn cậy mình ở tuổi cao niên nhưng bây giờ thì đã biết rằng vẫn còn thua các thuyền quyên xứ Huế về cả tuổi tác lẫn thâm niên quân vụ”. (Đặc San Cựu Nữ Quân Nhân QLVNCH, Hội Ngộ Kỳ IV, 08/2007. Niên Trưởng Hồ Thị Vẻ, Giao Chỉ, trang 9).
            Quý Bô Lão Không Quân tại miền Trung Cali thường họp mặt vào đầu tháng 7 hằng năm. Ban Tổ Chức phát quà lưu niệm cho các Bô Lão đạt đến tuổi 70 trở lên, (cứ cọng thêm 5). Buổi họp mặt năm 2007, sau khi nhận quà lưu niệm có khắc tên và số 80 niên kỷ, KQ Nguyễn Cầu trong BTC bất ngờ phỏng vấn chị  Hạnh Nhơn: “Xin Lão Trượng vui lòng cho biết, bằng bí kíp nào mà ở tuổi nầy trông Lão Trượng vẫn trẻ đẹp như Lão Nhi 70 vậy?”. Dù bất ngờ, nhưng chị đã ứng khẩu:  “Bí kíp là tôi trường chay, xả bỏ mọi chuyện vô ích và làm việc thiện!”
            Bí kíp mà chị công bố, mới nghe có vẻ dễ, khi nghĩ lại thì chỉ có thánhnhân mới thực hành nỗi, còn người phàm như chúng tôi thì...bù trất!
            Người xưa bảo, coi mặt mà bắt hình dong, vào thời thanh niên, chị Hạnh Nhơn chắc hẳn là một Sĩ Quan đầy ắp sáng kiến và năng lực. Từ Việt Binh Đoàn, phụ trách kiểm soát lương bổng, chuyển qua Nữ Phụ Tá, vẫn làm việc tại Sở Hành Chánh Tài Chánh, sau đó chị được bổ nhiệm về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương - Huế. Tại đây, ông Y Sĩ Trưởng Quân Y Viện thấy chị còn “sữa” quá nên chưa dám giao việc. Mãi sau khi nhận nhiệm vụ mới, Thiếu Úy Hạnh Nhơn mới chứng tỏ khả năng và óc tháo vát của mình bằng cách nổ lực chỉnh trang lại Quân Y Viện (QYV) chỉ trong vòng 3 tháng, đã đưa sinh hoạt vào nề nếp quy củ và tô điểm QYV đẹp đẽ và khang trang từ bên trong đến bộ mặt bên ngoài. “Chị xin Quân Nhu kệ, bàn, tủ, máy đánh chữ..., xin Kho Y Dược thuốc, y cụ, giường nệm, chăn gối để thay thế những vật dụng cũ và cho sơn lại 300 giường bệnh lâu ngày đã rỉ sét. Chị còn xin Phái đoàn Viện trợ Hoa Kỳ cung cấp máy X Ray và dụng cụ Nha Khoa cho QYV nữa, làm cho vị Y Sĩ Trưởng phải ngạc nhiên về tài năng của Thiếu Úy Nguyễn Thị Hạnh Nhơn!” (Thư riêng. KQ Nguyễn Phúc Tiến, 10/28/2011).
            Thời bấy giờ, KQ chưa bành trướng mà chị đã có sáng kiến đầy ắp tình đồng đội là, thực hiện một bãi đáp trực thăng trong QYV để đưa các thương binh từ mặt trận về hoặc chuyển các thương binh nặng vào Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng, “để rút ngắn sự đau đớn cho anh em nếu di chuyển bằng xe Hồng Thập Tự”.
            Chịthân hành nghiên cứu sân bay Thành Nội rồi từ đó xin Công Binh cung cấp vĩ sắt để hoàn thành một bãi đáp đủ an toàn cho trực thăng tải thuơng.  
            Tôi nghe chị kể lại sự việc một cách hào hứng bằng giọng Huế ngọt lịm mà lòng dâng trào một niềm cảm phục về sự năng động và tấm lòng từ ái của một bậc đàn chị đáng kính.

            Năm 1964, Trung Úy Hạnh Nhơn thuyên chuyển về Sàigon, cùng các Nữ Sĩ Quan khác, thành lập Đoàn Nữ Quân Nhân & Trung Tâm Huấn Luyện NQN vào năm 1965 với chức vụ mới là Trưởng Phòng Hành Chánh Tiếp Vận. Thú thật, nếu không đọc Đặc San Nữ Quân Nhân số 08/2007, thì chúng tôi không hề biết rằng, Quân Đội ta còn có một Trung Tâm Huấn Luyện NQN như thế!
            Một lần nữa, cô gái đất Thần Kinh cao ráo (chị cao 1, 65m đấy!) lại có dịp thi thố tài năng và trách nhiệm của một Sĩ Quan Tham Mưu bằng cách ngày đêm theo dõi việc xây cất phòng ốc, các phòng học, kho quân trang, nhà ăn, nhà bếp...cho một Trung Tâm Huấn Luyện. Song song với việc xây dựng cơ sở,  Trung Úy Hạnh Nhơn còn nghiên cứu soạn thảo các Chương Trình Huấn Luyện, thiết lập các Phiếu Huấn Luyện Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan NQN sao cho kịp thời gian khai giảng. Chị liên lạc Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung để xin tài liệu căn bản, bỏ đi những phần thuộc về nam quân nhân, thêm phần hướng dẫn tư cách cho Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan NQN. Với bao bề bộn như vậy, mà công trình cũng hoàn tất sau một tháng quyết tâm!
            Sáng kiến tháo vát và sức làm việc bền bỉ của chị đã gây thán phục và ngạc nhiên cho các nữ Cố vấn Mỹ bấy giờ. Họ thán phục là phải, vì từ nước lã chị (và các vị Nữ Sĩ Quan khác) đã khuấy nên hồ. Từ một bãi đất trũng nước với nhiều cây cỏ rác rưới mà Trung Úy Hạnh Nhơn, qua giao tế đã làm chạnh lòng các đơn vị Công Binh bạn nên họ hăng hái đến giúp đỡ san bằng mặt nền cũng như cung cấp các vật dụng xây dựng khác để hình thành một Trung Tâm Huấn Luyện đẹp đẽ khang trang.
            Công trình quy mô như rứa mà không thán phục sao được, có vậy thinhânmới xưng tụng là...một mảnh nhung y điểm má hồng (3) chứ!

            Năm 1967, Đại Úy Hạnh Nhơn thuyên chuyển về Bộ Tổng Tham Mưu, Văn phòng Đoàn Nữ Quân Nhân, chức vụ Trưởng Phòng Nghiên Cứu. Ở đây, chị hoàn tất một Bản Quy Chếcủa Nữ Quân Nhân QLVNCH.
            Năm 1969, Thiếu Tá Hạnh Nhơn thuyên chuyển qua Bộ Tư Lệnh Không Quân, chức vụ Phân Đoàn Trưởng NQN, phụ trách tuyển mộ, lưu trữ hồ sơ, giám sát NQN thuộc Bộ Tư Lệnh KQ và các Sư Đoàn trực thuộc. Lúc bấy giờ các NQN rất cần nơi ăn chốn ở. Chị Hạnh Nhơn xin thượng cấp giúp lo cư xá cho họ. Chị tranh đấu về chuyện nầy quyết liệt đến nỗi “sau buổi họp, Đại Tá Phùng Văn Chiêu, Không Đoàn Trưởng Yểm Cứ Biên Hòa (sinh năm 1928, 84 tuổi, hiện ở ElMonte, Cali)phải trốn luôn trong phòng (vì ông chưa giúp được cho vụ cư xá NQN) trong khi chị vẫn đứng chờ ông ngoài cửa phòng để nhắc ông giúp đỡ”. (KQ Nguyễn Phúc Tiến. Thư Riêng, 10/28/2011).
            Nghĩ cho cùng, các NQN nào phục vụ dưới quyền Thiếu Tá Hạnh Nhơn là vô cùng...lucky!

            Năm 1972, chị thăng cấp Trung Tá cho đến tháng 4 năm 1975.

            Tính ra, Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn đã cống hiến tuổi thanh xuân và năng lực của mình trong 25 năm (1950-1975) cho Tổ Quốc và Quân Đội. Để bù lại, chị đã được tưởng thưởng nhiều huy chương cao quý trong đó có Bảo Quốc Huân Chương Đệ Ngũ Đẳng.
            -Tôi, KQ Võ Ý, xin được trân trọng chào kính tấm huy chương mà chị xứng đáng đón nhận!

            III- Nữ Quân Nhân & Nỗi Truân Chuyên

            SAU 30 THÁNG TƯ, như hầu hết các chiến sĩ QLVNCH, chị Hạnh Nhơn phải chịu nhiều khổ nhục trong tù ngục cộng sản cho đến năm 1979, qua các trại giam Long Giao, Quang Trung, Hóc Môn, Hàm Tân (Z30D) và Long Thành.
            Là một nữ tù, lại là một cấp chỉ huy, Trung Tá Hạnh Nhơn phải tỏ ra chịu đựng và can trường gấp bội so với nam tù nhân trước đòn lao động khổ sai và nhục mạ của cai tù, thì mới mong tồn tại.
            “Làm lụng thì vất vả mà ăn thì bo bo với muối trường kỳ nên sức khỏe ngày càng kiệt quệ. Chị em thay nhau bệnh tậttriềnmiên...(...) Những căn bệnh của tù cải tạo đa số là:
- “Bệnh bao tử (vì ăn những thức ăn mà chỉ bao tử của súc vật mới nghiền nát được).
- “Bệnh tê thấp (vì phải nằm đất năm này qua năm khác).
- “Các bệnh gan, phổi, thận (có thể đi đến lao và ung thư vì lao động quá sức).
- “Bệnh tim và bịnh tâm thần (do quá tuyệt vọng và bị mất sạch)”.(4)
((4) Đặc San Nữ Quân Nhân Kỳ IV-2007. Nữ Tù Nhân. Nguyên Hạnh, trang 82)
            Trại nào cũng có những trò hú tim như thỉnh thoảng vào lúc nửa đêm, khi  tù nhân đang say giấc, bổng nhiều tiếng kẻng tiếng phèn la inh ỏi nổi lên, rồi vệ binh theo nữ cán bộ cai tù vào trại giam ra lệnh thức dậy, xếp hàng điểm danh, khám xét, xong lại cho về...ngủ tiếp (4). Chúng hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần. Trò hú tim  nầy cũng là thủ phạm gây nên căn bịnh yếu tim mà cánh tù NQN thường phải lãnh đủ.
            Đã là tù nhân, ai ai cũng phải nếm mùi chuyển trại. Chuyển trại là một cực hình. Mỗi một xáo trộnđương nhiên phải kèm theo biết bao lo lắngmà nếu tinh thần sa sút thì rất dễ bị ngã quỵ. 
            “(…) Tất cả ở Z30D nầy đều quá mới lạ một cách hãi hùngđối với chúng tôi. Trong trại không có nước, không có giếng, không có bể nước. Tắm giặt đều ở cái khu suối thật xa sau giờ lao động trên đường về. (…) Đặc biệt nhất với chúng tôi là phải tắm suối. (…) Lần đầu tiên chúng tôi tắm suối thật kinh hãi, không thể tưởng tượng nổi có ngày phải như thế! (…) Thẹn với cả trời đất cỏ cậy! “ (4). Câu chuyện tắm suối mới đọc qua thấy buồn cười, nhưng là cười ra nước mắt như tác giả nói. Theo chúng tôi, câu chuyện “kinh hãi” tự nó đã nói lên nhân cách, lòng tự trọng, khí tiết và giấy rách giữ lấy lề của người chiến binh miền Nam nói chung, với quý vị NQN nói riêng.
            Truyện “Nữ Tù Nhân” của tác giả Nguyên Hạnh (tức Hạnh Nhơn) đã trúng giải ba trong kỳ thi viết về “Chuyện Người Tù Cải Tạo” do Nhật Báo Viễn Đông tổ chức. Câu chuyện là một khúc phim bi hài được chiếu lại và chúng tôi như thấy rõ “một đám phụ nữ xinh đẹp trước kia được“nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa” nay đầu bù tóc rối, áo quần rách rưới, hì hà hì hục xúc, đẩy bột than, bụi tung mù mịt, mặt người nào người nấy đen xì chỉ trừ cặp mắt và hàm răng trắng toát như những người da đen cùng khổ (4).
            Khúc phim quét qua mọi góc cạnh của cuộc sống trong ngục tù, từ sáng tinh mơ xuất trại, lao động khổ sai ở ruộng ở rừng, đến chiều tối vào “chuồng”, từ cảnh bị khám xét, lên lớp, nhục mạ đến cảnh thăm nuôi trong dòm ngó dở khóc dở cười, cảnh biệt ly do chuyển trại hoặc được thả về nhà tù lớn hơn...
            “Nơi đó là “trại cải tạo Long Thành”, mà chúng tôi lại phải tiếp tục những ngày lao khổ khốn nạn nhất với công việc chăm lo một vườn táo rộng lớn. Quanh năm suốt tháng lam lũ đi xúc phân ngườiở các hố lớn khiêng cáng về vườn táo để bón cây, dẩy cỏ, cấm không được mang khẩu trang vì làm như thế là “ngại khó ngại khổ”. Suốt ngày áo quần lem luốc hôi hám từ đầu đến chân, chiều mới được về tắm gội ở một bể nước lớn chung với một số nữ tù hình sự đông đảo giam riêng gần đó (…) (4)
            Có một điều kỳ diệu là, dù trải qua bao nghiệt ngã như vậy, dù chủ trương thâm hiểm là tiêu diệt lòng tự trọng của người tù qua các thủ đoạn trong đó có thủ đoạn “khẩu phần ăn”, tình đồngđộivẫn nở hoatrong tủi nhục và cay đắng. “Thời gian nầy tôi bị bệnh tê thấp nặng gần liệt cả hai chân, đi đứng rất khó khăn đau nhức, phải vịn tường lần đi từng bước, ở trong nhà, không ra lao động được nữa. Các anh từng đi ngang qua để xuống thung lũng trồng trọt, thấy tôi trong tình trạng đó, thế là hằng ngày các anh thay nhau lén ném thuốc vào cửa sổ giúp tôi chữa bệnh.” (4)
            Hoặc là “Những lần chị (Hạnh Nhơn) thăm hỏi, săn sóc tận tình đến các em nữ tù ốm đau trong trại như tình chị thuơng em ruột thịt của mình”(Đặc San NQN kỳ IV-2007. Giấc Mơ. Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy, trang 41)
            Vì ai gây dựng cho nên nỗi nầy? (Chinh Phụ Ngâm Khúc). Không phải đợi lịch sử trả lời, đợi như vậy lâu lắm. Ngày nay, người dân trong và ngoài nước đều biết là “AI”đã gây nên thảm cảnh khốc liệt nầy rồi!.

            IV- Cám Ơn Anh, Người Thương Binh...

            SAU CƠN MƯA trời lại sáng. Sau những năm tù đày, cuối cùng, gia đình Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn đã đến bến bờ Tự Do và định cư tại miền Trung Cali, Hoa Kỳ năm 1990 theo diện HO2.
            Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. (Kim Vân Kiều). Nghiệp ở đây là nghiệp...Nữ Quân Nhân, là hy sinh và phục vụ. Vừa đến Mỹ, chân còn chưa ráo, một năm sau, năm 1991, chị Hạnh Nhơn lăn xả vào công việc cộng đồng, vác cái ngà voi, đảm nhận chức vụ Phó Chủ Tịch Hội Tương Trợ Cựu Tù Nhân Chính Trị (TT/TNCT). Hội chủ trương chăm lo giúp đỡ bước  đầu các anh chị em cựu tùđến Cali mà không có thân nhân bảo trợ. Chị cũng là Chủ Bút “Nguyệt San Hội Ngộ” của Hội Tương Trợ nầy.
            “Ngày Quân Lực 1992, có 7 cựu tù HO ở Nam Cali có quyết định thành lập Hội HO Cứu trợ Thương Phế Binh & Quả Phụ VNCH. Trong lần họp nội bộ, họ đã nghĩ đến việc mời Trung Tá Hạnh Nhơn tham gia. Nhưng bà quá bận với Hội TT/TNCT và với tờ Đặc San Hội Ngộ, nên không có mặt từ lúc đầu. Cho đến khi Hội TT/TNCT ngưng hoạt động và đó là cơ duyênđã đưa chị về với Hội H.O Cứu Trợ TPB & QP/VNCH”(Trích “Đôi Điều Về Cựu Nữ Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn”, Cựu Mũ Nâu Đại Úy Nguyễn Phán).
            Năm 1996, chị Hạnh Nhơn giữ chức vụ Tổng Thư Ký Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh & Quả Phụ VNCH (TPB & QP/VNCH).
            Năm 2006, chị đảm nhận chức vụ Hội Trưởng do đa số tuyệt đối anh chị em trong Hội bầu lên từ đó cho đến nay và không biết cho đến bao giờ!

            Để có ngân khoản hoạt động cứu trợ như tên gọi, Hội tổ chức gây quỹ tại các Nhà hàng. Số tiền kiếm được chẳng thấm vào đâu so với nhu cầu ngày càng tăng, chị Hạnh Nhơn nẫy ra ý định mời MC nhạc sĩ Nam Lộc tiếp tay (5).  Anh Nam Lộc vui vẻ nhận lời, dù gì anh từng có kinh nghiệm tổ chức Đại Hội Nhạc Trẻ ngoài trời  từ trước 1975 và anh Nam Lộc  mời thêm nhạc sĩ Trúc Hồ, Giám Đốc Đài Truyền hình SBTN và MC ca nhạc sĩ Việt Dzũng. Các nghệ sĩ có lòng nầy đã lôi kéo hầu hết các ca sĩ nỗi tiếng tại Hải Ngoại tham gia vào Chương Trình cứu trợ qua các Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh, Người TB VNCH...
            Mới biết, đàn bà như chị Hạnh Nhơn dễ có mấy tay! Công việc cứu trợ xem ra quá đơn giản phải không thưa quý vị? Thưa, không hẳn vậy mà nhiêu khê rắc rối vô cùng. Nếu không có tấm lòng nhân ái thực sự, không trầm tĩnh, thông cảm và chịu đựng thì rất dễ...phủi tay! Tôi đã ghé nhà trước là thăm chị sau là muốn tìm hiểu qua về việc điều hành của cái “Cơ Quan Trung Ương” (6) trong việc cứu trợ TPB và QP ra sao.
            Điều tôi ngạc nhiên là cơ cấu tổ chức điều hành của Hội thật khoa học và thiết thực, phù hợp với luật pháp và nhu cầu cứu trợ. Ngoài những nhân sự và chức vụ thông thường của một Hội Đoàn, tôi thật bất ngờ và thán phục đến sự phân chia rành mạch các trách vụ để giúp việc cứu xét và gởi quà chính xác và hiệu quả. Đó là:  Ủy viên Tài chánh. Thủ quỹ.Thư tín-Phân phối-Lưu trữ Hồ sơ. Phụ trách TPB Vùng 1 &2 CT. Phụ trách TPB Vùng 3 & 4 CT.  Phụ trách Quả phụ. (Tài liệu do KQ Nguyễn Phúc Tiến, Data Entry của Hội cung cấp).
            Chị Nguyễn Thị Hoàng, Phụ trách TPB Vùng 1 & 2 CT có cho chúng tôi xem một hồ sơ tại Quảng Ngãi không được cứu xét, lý do, một TPB có hai tấm hình, kiểu dáng và thương tật giống hệt nhau, cùng một quê quán mà có đến hai tên, hai số quân, hai địa chỉ hoặc ngược lại, v.v...
            Do kinh nghiệm và cách làm việc chu đáo, Hội đã phát hiện ra một số hồ sơ như vậy và dĩ nhiên việc cứu trợ được xếp lại để chờ phối kiểm cho chính xác. Trước sự việc đáng tiếc, dù tôi nghĩ đến 4 chữ Từ Bi Hỉ Xã của Phật Giáo mà lòng vẫn cứ man mác buồn...
            Vào Thứ Tư mỗi tuần, các thành viên trong Hội HO tập họp tại tư gia của chị Hạnh Nhơn ở Garden Grove, CA để giải quyết các hồ sơ liên quan và nhận hồ sơ mới đem về nhà làm việc. Công việc thật bề bộn đòi hỏi nhiều công sức và thời giờ, nhưng trách nhiệm chính vẫn đè nặng hai vai chị Hội trưởng, nên ngày đêm, chị sống vì...uy tín và công tác của Hội!
            (...) Được làm việc chung với Chị hơn mười mấy năm qua, nay tôi lại có nhận xét thêm về Chị: Chị Nguyễn Hạnh Nhơn trong thân xác người thường như chúng ta, mang một “trái tim Bồ Tát” (…) Làm việc không lương từ sáng sớm đến tận khuya (chúng tôi gọi đùa là Chị làm việc không chỉ “full time”, không chỉ làm “overtime”, mà còn làm “doubletime” quanh năm suốt tháng – với Chị, không có ngày nghỉ Chủ Nhật, không có “weekend”, không có “Holiday”, ngoài những lúc cần phải đi ra ngoài). Chị lúc nào cũng “trực baphone” trong lúc làm việc, ngay cả khi ngủ, lúc đi vào rest room. Chị tâm sự: “để mất một cú phone, nếu họ gọi đến Hội cho tiền, mà mình không bắt phone, họ hiểu lầm, đổi ý, thì uổng quá” (Đôi Điều Về Cựu Nữ Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn. Mũ Nâu Đại Úy Nguyễn Phán).
            Từ 2006 đến nay, Hội đã tổ chức được 5 kỳĐại Nhạc Hội Cám Ơn Anh  với thành tựu thật đáng đồng tiền bát gạo. (Xin xem chi tiết phần chú thích 7).
            Tổng kết trong“4KỳĐại Nhạc Hội, gởi được 20,000 lượt giúp. (Kỳ 5 chưa tổng kết). Chưa kể những số tiền ân nhân đã gởi đến Hội từ năm 1993 đến nay, Hộiđã gởi được 18,500 lượt giúp. Tổng cộng từ ngày thành lập Hội đến nay: 38,500 lượt giúp” (*) (Đây là tổng kết 4 kỳ ĐNH, kỳ V chưa tổng kết*).
(*) Theo Tập giới thiệu “ĐNH Cám Ơn Anh Kỳ 5”,  Sunday, 7 Tháng 8-2011).

            Những con số đã nói lên được một phần nào lòng biết ơn chân thành của tất cả đồng hương, quân, dân, cán chính hải ngoại đối với TPB và QP đã hy sinh một phần thân thể của mình để bao người được sống còn đến ngày hôm nay.
            Những con số cũng đã xoa dịu một phần nào những cơ cực, lầm than, những khổ đau tủi nhục trong uất hận, trống vắng, hiu quanh suốt 36 năm từ ngày nước mất nhà tan.
            Những con số như tiếng phi cơ quan sát bao vùng, tiếng trực thăng tải thương, tiếng vận tải thả dù...Những con số như hỏa châu soi sáng niềm tin và dường như có tiếng quân xa hối hả mở đường tiếp tế chia sẻ hiểm nguy, bên thương phế binh và quả phụ cô nhi, vẫn còn chúng tôi quan tâm hoài...
            Trên 36 năm tan đàn xẩy nghé, tưởng mọi sự đã vùi vào quên lãng, bặt âm vô tín. Nhưng hôm nay, anh TPB húp một ngụm trà ấm lòng, trên bàn thờ di ảnh, chị quả phụ thắp sáng một nén hương tưởng niệm cho chồng, cháu cô nhi mơ màng suy nghĩ, đồng đội của bố vẫn còn thương tưởng đến bố thật sao?
            Xin hãy lắng lòng mà nghe, tiếng nghĩa tình từ cõi bất hạnh vọng về:
 “...Thưa quý vị, tôi đã nhận được $200 USD của quý vị thương gởi về giúp đỡ.  Tôi là thương phế binh Nguyễn Văn Toàn, số quân 74/425.623 thuộc Sư Đoàn 5 BB. Ngày 22/08/1974 trong một trận đánh tại An Điền, Bến Cát, Bình Dương, tôi bị đạn xuyên qua cổ, nên bị tê liệt toàn thân, đưa về điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Biến cố 30/4 xảy ra, tôi bị đuổi khỏi Tổng y viện Cộng Hòa. Cuộc sống thật vất vả, nên khi nhận được tiền của quý vị, tôi biết ơn quý vị rất nhiều. (Nguyễn Văn Toàn – Ban Mê Thuột).
*
...Ba con đã nhận được tiền là 100usd vào ngày 27/03/2011. Gia đình chúng con xin cám ơn các bác chú và cô có tấm lòng vàng trong Hội từ thiện đã giúp đỡ ba con trong cơn túng thiếu, ngặt nghèo. Ba con nay đã già mà nhận được tiền cứu trợ cho ba con, cũng là niềm an ủi, trong những ngày còn lại của cuộc đời bất hạnh, ba con mừng lắm vì trong cuộc đời ba con chưa từng có số tiền nhiều như vậy...” (Nguyễn Thị Lệ con của Nguyễn Văn Ngoan – Bến Tre).
*
“Vào ngày 06/01/2011 tôi có nhận được 50USD từ Hội Cứu Trợ TPB&QP/VNCH. Tôi rất mừng và hạnh phúc, không sao cầm được nước mắt. Vì quí Hội đã quan tâm đến các anh em tử sĩ, những TPB hy sinh vì đất nước và những quả phụ còn lại sau chiến tranh. Số tiền mà quí Hội đã gởi cho tôi, đã đủ cho tôi sinh hoạt và uống thuốc được 2 tháng so với căn bệnh cao huyết áp, tai biến mạch máu não trong 10 năm qua. Một lần nữa xin chân thành cám ơn quí Hội”. (Quả Phụ Nguyễn Thị Tuyết – Sài Gòn).

            Những thành tựu nầy, Hội HO Cứu Trợ TPB & QP/VNCH xứng đáng nhận được lòng quý trọng và tin cậy của tất cả đồng đội đồng bào ở Hải ngoại cũng như trong nước.
            Thượng Nghị Sĩ Lou Correa, Địa Hạt 34, Tiểu bang California, đã tuyển chọn để vinh danh các phụ nữ mà ông quý trọng vì họ đã đóng góp công sức khả năng của mình cho cộng đồng và cho đất nước Hoa kỳ, trong số 5 phụ nữ Việt, có chị Hạnh Nhơn.
            (…) “Thật sự ra tôi muốn làm việc trong im lặng thôi, không có muốn đến những chỗ như thế này. Mình làm, mọi người vui là được rồi nhưng mà mấy anh bên Liên Hội Cựu Chiến Sĩ nói, ông Lou Correa nói với mấy anh đề nghị một phụ nữ, mấy anh thương quá, mấy anh đề nghị tôi, chứ thật sự ra đâu phải một mình tôi mà làm được. Bao nhiêu thiện nguyện viên, bao nhiêu các anh, rồi Asia, rồi SBTN, bao nhiêu người phụ với mình mới làm được, thật ra mình tới đây chỉ là đại diện thôi, chứ đâu phải cá nhân mình mà làm được. Tuy nhiên, dù sao đi nữa tôi cũng rất là vinh dự được đến đây hôm nay nhận cái phần thưởng nầy. Xin cám ơn tất cả” (Trích Viễn Đông, A9, TNS Lou Correa Vinh Danh 80 Phụ Nữ, 5 Người Việt Nam. Thanh Phong, Thứ Bảy 26 Tháng 3, 2011)
            Thưa chị Hạnh Nhơn, chúng tôi rất cảm phục và trân quý tính nhân hậu và đức khiêm cung của chị qua phát biểu nêu trên. Chúng tôi cũng học được tinh thần tập thể (team work) là working together winningtogether, nhưng thưa chị, tập thể nào cũng vậy, muốn winning togetherđều phải cần một vị lãnh đạo tài đức vẹn toàn chị ạ.
            Hội HO ngày nay không là một Đơn vị Quân Đội mà chị là Đơn Vị Trưởng. Hội cũng không là một Công Ty mà chị là Tổng Giám Đốc. Nếu là Đơn Vị Trưởng hay Tổng Giám Đốc thì...dễ thôi. Đằng nầy là một Hội Thiện Nguyện vô vị lợi mà nếu người Hội trưởng thiếuhòa nhã nhỏ nhẹ, hăng hái kiên trì, phân minh, khiêm tốn vị tha (8) thì Hội không dễ gì đạt những thành quả khích lệ và tồn tại đến ngày nay.
            “Có những lúc Chị đã khóc khi nhận những cú phone “đay nghiến”, “kết tội” mà không có bằng chứng từ một vài đồng hương vì cố ý hay vô tình (!). Nhưng nghĩ lại tình cảnh của các TPB về cuối đời, tưởng tượng những giọt nước mắt mừng vui trên những khuôn mặt nhăn nheo, tiều tụy của các Quả Phụ khi nhận được tiền..., chị lại hăng say cùng anh chị em thành viên của Hội, cặm cụi bên những chồng hồ sơ mỗi ngày một dày hơn...”(9). Vâng, chị Hạnh Nhơn đã thực hành đức hỹ xả của nhà Phật, và  “chúng tôi rất sung sướng, hãnh diện, đã biết và làm việc chung với chị” (KQ Nguyễn Phúc Tiến. Thư riêng, 10/29/2011).
            Trong một thư riêng cho chúng tôi, có đoạn chị viết: “Anh Ý ơi, đôi khi tôi thật tức cười cho tôi. Với cái tuổi nầy mà chưa rút chân ra được Hội HO để..dưỡng lão, vì không ai chịu thay thế, cứ bắt làm việc hoài. Vậy thì có bất công không chứ!”
            Chị Hạnh Nhơn ơi, không bất côngđâu chị à, vì sinh hoạt của Hội bây giờ là không khí và là nguồn sốngđó chị à, nếu thiếu chúng, e rằng chị sẽ trống vắng và...hụt hơi ngay thôi! Phương chi, “sau khi anh chị em trong Hội nói “nếu Chị thôi vai trò đó thì các anh chị em khác khó có thể có được uy tín như Chị để kiếm tiền cho các TPB/QP...”(9).
            Đúng là chị bị triệt buộc rồi chị Hạnh Nhơn à! Mà cũng có thể hiểu đó là... ý dân, mà ý dân là ý...trời phải không thưa chị?

            V- Tạm Kết, Nếu Có Yêu Tôi...

            CHÚNG TÔI THẬT SỰ vinh hạnh được chị Hạnh Nhơn cho phép viết về chị như là...Không Quân Ngoại Truyện! Chị cứ dặn tới dặn lui là không nói chi nhiều về chị mà nên tập trung nói về Hội. Dĩ nhiên là chúng tôi phải...tuân lệnh ngoài mặt mà trong lòng vẫn cứ...hay quên! Chị Hạnh Nhơn sợ thiên hạ họ cười, họ bảo “mèo khen mèo dài đuôi”. Chị sợ như vậy cũng phải, nhưng nếu mèo không có đuôi, hoặc cụt đuôi thì tôi lấy cái lý do gì mà khen đuôi dài cho được chứ? Phương chi, tâm huyết của chị, khả năng của chị ngày nay không còn giới hạn trong vòng đai Bộ Tư Lệnh Không Quân nữa mà chị là của Cộng đồng và của Tập thể Quân Cán Chính VNCH từ lâu rồi.
            Chị đâu biết rằng, chính tôi mới là người đang ganh tỵ với những cống hiến cho tha nhân của chị và của các anh chị em trong Hội vì không có cơ duyên phụ một tay cho quý Hội. Ganh tỵ nhưng trân trọng. Vì trân trọng nên tôi nguyện phát tâm tùy hỷ những công tác từ thiện vô vị lợi của bất cứ cá nhân hay đoàn thể nào.
            Không phải chị đã biểu hiện cách sống “mình vì mọi người” qua các trách vụ mà chị đã thực hiện cho Quân Đội từ thuở gia nhập Việt Binh Đoàn, rồi Nữ Phụ Tá, Nữ Quân Nhân, trong ngục tù cho đến Hội HO ngày nay đó sao? Thôi thì, chuyện cũ bỏ qua, nhưng mới đây, khi nhận giải thưởng cuộc thi viết về Chuyện Người Tù Cải Tạo, chị Hạnh Nhơn đã phát biểu: “(...) Do đó, với phần thưởng hôm nay, tôi sẽ chia sẻ một phần vào “Quỹ Tình Thương Nữ Quân Nhân” mà chúng tôi đã lập ra mấy năm nay để Nữ Quân Nhân Hải Ngoại cùng nhau đóng góp gởi về giúp đỡ các chị em bất hạnh ở quê nhà” (Đặc San Cựu NQN Kỳ IV, 2007. Phát Biểu Của Tác Giả Nguyên Hạnh (Nguyễn Thị Hạnh Nhơn) trang 92).
            Chị đã gieo nhân lành, đương nhiên sẽ nhận quả ngọt. Một trong những hạnh phúc ấm áp khác là các con cháu trong gia đình đều hổ trợ công việc “bao đồng” của chị: “Trong những lần tổ chức “ĐNH Cám Ơn Anh”, có lẽ gia đình chị là một gia đình duy nhất mà người Mẹ là trưởng ban tổ chức, lo đôn đáo từ việc lớn đến việc nhỏ, ngày như đêm ròng rã mấy tháng trước cho ngày ĐNH, mà vào ngày ĐNH, tất cả các con cháu hơn một tá, đều phải mua véđể vào làm việc thiện nguyện”. (KQ Nguyễn Phúc Tiến. Thư Riêng, 10/29/2011).
            Các cháu mua vé không những để làm việc từ thiện mà còn là dịp để các cháu cảm nhận niềm hãnh diện và tự hào về người Mẹ, người Bà tuyệt vời của các cháu. Chắc chắn ở tận cõi vĩnh hằng, phu quân của chị, anh Lý Nhựt Hướng, một Trưởng Hướng Đạo Việt Nam, cũng mỉm cười mãn nguyện vì họ đã tiếp nối bước đi của anh. Được biết, trước lúc lâm chung (2002) anh đã căn dặn thân bằng quyến thuộc, “thay vì mua vòng hoa, gởi tiền phúng điếu, thì nên dùng số tiền đó để cứu giúp cho Thương Phế Binh và các trẻ mồ côi ở quê nhà. Ước mơ của anh đã được người thân thực hiện trọnvẹn”. (KQ Phạm Đình Khuông, Thư riêng, 10/21/2011 Bản Tin Hội HO Cứu Trợ TPB/QP. Một Bông Hồng Cho Người Nằm Xuống, Nguyễn Phán).

            Xin nhắn các bạn trẻ thế hệ nối tiếp, nếu tình cờ đọc bài Không Quân Ngoại Truyện nầy, mong các bạn sẽ tự hỏi lòng mình, là tại sao các bạn và bà con thân thuộc của mình lại có mặt ở Mỹ, để rồi các bạn thử suy nghĩ là có nên góp một bàn tay cho Việt Nam ngẩng mặt với đời, góp một nhịp tim cho quê hương và đồng bào của mình thoát cảnh đọa đày? Thực tiễn hơn, nếu các bạn muốn tìm cho mình một cuộc sống ý nghĩa và hạnh phúc thì cũng đơn giản thôi, đó là ta sống cho ta, ta sống cả cho đời, cho đồng bào, đồng đội bất hạnh của mình, như thế hệ chúng tôi đã từng, cách riêng qua bài viết. Thế hệ chúng tôi sắp tàn, chúng tôi kỳ vọng ở thế hệ các bạn đó.
            Có bao giờ các bạn dám mơ ước sẽ là những Cánh Chim Tự Do của Việt Nam ngày mai không? Sao lại không được nhỉ?
                                                                                                                                                                                                                            
            Thưa chị Hạnh Nhơn,
            Tôi rất tâm đắc với lời ca trong bài hát: "Nếu Có Yêu Tôi" của nhạc sĩ Trần Duy Đức, cho nên tôi rất mong khi có dịp thì chị thử lắng lòng mà nghe khúc ca ngọt ngào như ca dao, thanh thoát như lời kinh và cần thiết như nước và không khí nầy.
            Rất tiếc tôi không biết ca, nhưng không sao, tôi biết nói. Và lời tôi nói, sẽ  là:         
            -Thưa chị Hạnh Nhơn,tôi thật sự quý mến chị qua nhân cách, tinh thần phục vụ và tính nhân bản thủy chung của một quân nhân QLVNCH. Tôi hãnh diện là đồng đội của chị, cùng chung với chị một bầu trời, một màu cờ trước kia và một ước vọng về một Việt Nam Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền hiện nay.
            Chị là bậc đàn chị khả kính của tôi đó chị Hạnh Nhơn à.
            Thân kính chúc chị sức khỏe thật an khang, Phúc như biển Thái Bình, Thọ như ông Bành Tổ, nghe chị!

            Kính thư,
            Bắc Đẩu võ ý
            Corona , CA. Thu 2011

           
Chú thích
(1)    Nếu Có Yêu Tôi, nhạc Trần Duy Đức & thơ Ngô Tinh Yên
(2)    Chữ của nhà văn Trần Văn Minh, cố Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân.
(3)    Thơ của Đinh Hùng
(4)    Đặc San Nữ Quân Nhân Kỳ IV-2007. Nữ Tù Nhân. Tác giả Nguyên Hạnh (Hạnh Nhơn, trang 82. Bài viết được trúng Giải Ba trong cuộc thi viết về Chuyện Người Tù Cải Tao do Nhật Báo Viễn Đông chủ trương. Chị Hạnh Nhơn đã chia một phần giải thưởng cho Quỹ Tương Trợ của Hội Nữ Quân Nhân VNCH
(5)    Tiết lộ của KQ Phạm Đình Khuông. Thư riêng, October, 21, 2011.   
(6)    Tiếng của các Hội Tương Trợ khác tại Hải ngoại cũng như của các TPB & QP tại quê nhà gán cho Hội HO Cứu Trợ TPB/QP/VNCH, trong khi đó, Hội do chị Hạnh Nhơn điều hành trên pháp lý là một Hội vô vị lợi và bình đẳng với các Hội cùng chủ trương. Hội được cho là Trung Ương có lẽ Hội được đồng hương và đồng đội tin cậy nên ủng hộ dồi dào qua các kỳ Đại Nhạc Hội...
(7)    *Tập Quảng Cáo “DNH- Cám Ơn Anh Kỳ V”, Nam Cali, 2011, có ghi:
- Kỳ 1,Ngày 25-06-2006 tại Nam Cali (*)
            Thu được $426,000.00. Chi $47,391.00. Còn lại $379,085.00.
            Giúp được 3,000 gia đình TPB &QP (tính tròn)
            - Kỳ 2, Ngày 03-08-2008 tại Nam Cali (*)       
            Thu được $1,013.000.00. Chi $55,534.00. Còn lại $958,308.00
            Giúp được 7000 gia đình TPB & QP (tính tròn)
            - Kỳ 3, Ngày 17-05-2009  (Cùng với San Jose , Bắc Cali)(*)
            Thu được $688,619.00. Chi $82,679.00. Còn lại $599,938.00
            Nam Cali nhận: $378,812.00. giúp được 2383 gia đình.
            Bắc Cali nhận: $208,700.00. giúp được 1568 gia đình.
            Cộng 4,000 gia đình (tính tròn)
            - Kỳ 4, ngày 01-08-2010 tại Nam Cali (*).                   
            Thu được $828,040.00. Chi $55,000.00. Còn lại $773,040.00
            Giúp được 6000 gia đình TPB & QP.
            - Kỳ 5, Ngày 01-08-2011 tại Nam Cali
            Thu được $830,000.00 (chưa tổng kết chính xác)
            Tiêu chuẩn giúp đỡ hiện nay:(*)
            - TPB thương tích nặng (cụt 2 chân, cụt 2 tay, mù 2 mắt, liệt: $200/người. (*)
            - TPB thương tích nhẹ hơn: $100/người
      - Quả phụ tử sĩ: $50/người
(8)    Chữ in đậm là nhận xét của KQ Phạm Đình Khuông trong Thư Riêng, 10/21/2011.
(9)    Bài viết “Đôi Điều Về Cựu Nữ Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn” của tác giả Mũ Nâu Nguyễn Phán.












__._,_.___

Posted by: SONNY PHAM

LỄ NGHI QUÂN CÁCH CHỈ DÀNH CHO NHỮNG CHIẾN SĨ VỊ QUỐC VONG THÂN

$
0
0
Kính chuyển để tùy nghi nhận định.
On Monday, April 24, 2017 11:52 AM, "Gia Cat  [thaoluan9]"<> wrote:

 

LỄ NGHI QUÂN CÁCH CHỈ DÀNH CHO
NHỮNG CHIẾN SĨ VỊ QUỐC VONG THÂN




 Mt người lính cm súng hướng v phía quân thù trên chiến trường hành đng đó nhìn qua rt đơn gin nhưng vô cùng cao quý vì hđãđem mng sng thách thc vi súng đn quân thùđ bo v quê hương, an ninh hnh phúc ca đng bào, nhng người sng hu phương. Nhng người chiến sĩv quc vong thânđược t quc ghi ơn và dành cho nhng nghi thc, nghiêm cn, thiêng liêng nhưng xã hi không bao gi trđược công lao và s hy sinh ca h, không xoa du hay bùđp được nhng đau thương, mt mát ca gia đình h.
Ngày nay hi ngoi, mt bn người bát nháo có nhng hành đng vôý thc, vô văn hóa, lm dng khi đem nhng nghi thc nghiêm cn ca quc gia trong quá kh ra x dng đ bêu danh my cái xác thi.
 Tt c anh hùng, t sĩ và nhng người đã tn hiến tui thanh xuân cho cuc chiến chính nghĩa đã b bán đng đu b bêu nhc bi nhng trò h và ngôn tđu cáng ca bn người như vy.
 Hai người lính đng trên tượng đài màđi li được chc phi nhy xung đá b mt tên Nam Lc,Trúc H và bn bát nháo Hưng Ca, SBTN vìđã xúc phm đến anh linh ca h vàđng đi.
 Dĩ nhiên trong xã hi t do này, người ta có quyn din bt k mt loi tung ci lương, h qung, tung chèo hay kch nói nào, không ai có quyn cm cn. Nhưng đó ch là v tung không thc trên sân khu, không chính nghĩa, không chính danh. Bi không có mt người nào, mt tp th nào có tư cách ra quyết đnh ph c cho mt cá nhân nào. Th chế VNCH, QLVNCH là mt th chế chính danh, du đã tiêu vong nhưng chính nghĩa ca cuc chiến vn còn vi chiu dài lch s dân tc. Có th người ta bày ra nhng tung tích đ hoài nim nhưng đó vn là mt s xúc phm nghim trng đến nhng gía tr quá kh.
Đáng trách nht là có nhng kđng trong hàng ngũ quân nhân, sĩ quan lúc nào cũng ưỡn ngc trường m vi trường con v tay, phát ngôn tán thưởng nhng trò h bêu nhc c QLVNCH như nhng người mt trí.
 Ông Lê Minh Đo là mt cu tướng quân lc VNCH, bà Hnh Nhơn mang cp bc trung tá nhưng ch vì nhng đng tin bn thu mà h nhn ca Trung Tâm Asia trước đây nên cũng có nhng hành đng, ngôn t hết sc ô nhc. Ông Đo và bà Hnh Nhơn nên nh th chế VNCH còn mt món n ln vl nghi quân cách vi nhng anh em t sĩ hy sinh trong nhng gi phút cui cùng ca cuc chiến, n nhng người chiến sĩ hu danh chết trong vô danh trên đường mòn Trường Sơn, chết trong tùđày đt gic. Nhng người nhưông Lê Minh Đo, bà Hnh Nhơn ch là nhưng con ri, bung xung b git dây vì tin không h có thm quyn đ quyết đnh v nghi thc ph c mc dùđó ch làtrò phường tung không đem đến mt giá tr nào cho người chết ngược li còn h nhc c mt th chế trong quá kh chng khác gì Hu Ch thi Tam Quc.
Và đáng trách thay danh xưng Liên Hi Cu Chiến sĩ Nam Cali cũng b mt s người thích mc chiến phc đi mũ, bng súng li dng đ phc v cho mt vic không chính danh. Liên Hi Cu Chiến sĩ Nam Cali hin nay ch là mt hi ái hu quân đi không phi làđơn v thay mt QLVNCH làm trách nhim chung s, khi th chế VNCH không còn tn ti, nói gìđến ngày nay hu như toàn bđã tuyên th tr thành công dân mt quc gia th hai S dĩ cng đng hi ngoi hn lon vì là mt tp hp phc tp, vô t chc và có nhng người ch nói theo cm tính bt chp mi nguyên tc, dm đp lên mi giá tr. Con người cm tính sng bng bn năng sinh vt ch không phi là con người có nhn thc lý tríđ phân bit đúng sai, phi trái, không cóý thc đ tđiu chnh.
Trong mt tp th nhân qun, cá nhân phi tôn trng nhng quy ước chung; người công dân ca mt quc gia phi tôn trng lut pháp, đnh chế, nghi thc, tín nim, giá tr tinh thn quc gia.
 Cu tướng Lê Quang Lưỡng, cu đi tá Nguyn văn Y, tướng Ngô Quang Trưởng , tướng Cao văn Viên đu không chu cho ph c vì h là nhng người tôn trng nhng giá tr tinh thn cao quý ca nhng nghi thc quc gia L Nghi Quân Cách vì nhng th tc đó ch có giá tr khi nhn được quyết đnh t nguyên th quc gia. Nhưng do mt s thuc h nài n, thm chíép buc thân nhân, gia đình vài vđ tiến hành mt thl nghi quân cách không được tha nhn.
 Nhiu khi thy nhng cu sĩ quan, nhng tên khoa bng ngu đn đưa ý kiến lên din đàn, tôi thy ngán ngm cho nhn thc và kiến thc ca nhng người này. Đu óc ca h kém ci đến ni không phân bit được CHIN SĨ vi KÉP HÁT, không phân bit được CHIN TRƯỜNG vi SÂN KHU, không phân bit được THC T vi HƯ CU, không có chút hiu biết nào v giá tr thiêng liêng cao c ca L NGHI QUÂN CÁCH.
Người quc gia chân chính phi biết tôn trng nhng giá tr ca CHÍNH NGHĨA đ hành đng có CHÍNH DANH. Người quc gia chân chính không ly HƯ làm THC, không ngu đn cho rng nhng TUNG TÍCH, HOT CNH TRÊN SÂN KHU là nhng CHIN CÔNG DŨNG CM, THNG LI HUY HOÀNG.
 Chng có s hy sinh và lý tưởng đu tranh nào trong môi trường sinh hot phường tung. Din tung yêu nước không phi là yêu nước đích thc và ch có nhng thđu óc cha toàn cht cn bã, hoang tưởng mi đng hóa nhng văn ngh sĩ, ca công, nhc công, vũ công vi nhng người chiến sĩ, nhng quân nhân làm nhim v bo quc an dân đích thc. Xã hi nào, tp th nào ngu mui đn đn như vy t thân phi băng hoi. Thc tế cho thy tp ththa phương cu thc hi ngoi chính là mt tp th như vy. Ngược li nhng người quc gia còn gi gìn tư cách t nn luôn luôn đý thc nhn biết nhng trò PHƯỜNG TUNG chđ mua vui trong vài trng canh. Chuyn sân khu phường tung kiếm ăn không th bao gi có thđem ra so sánh vi người chiến sĩv quc vong thân trong cuc chiến. Bao nhiêu sinh mnh trai hùng trong đơn v Bit Kích Dù nm xung trong trn An Lc đđược lch s ghi li hai câu thơ :An Lc đa s ghi chiến tích. Bit Kích Dùv quc vong thân.
Bao nhiêu chiến sĩĐa Phương Quân, SĐ1B Binh, Nhy Dù, Thy Quân Lc Chiến v.v..đã ngã xung chân b thành ca C Thành, Qung Trđ cóđược nhc phm C bay c bay oai hùng trên thành ph thân yêu va chiếm li đêm qua bng máu.
Hi nhng người cu quân nhân QLVNCH, không l ngày hôm nay bc đu trên đt khách tui già lú ln làm ny sinh nhng cm tính bnh hon, lch lc đến đđem xương máu ca nhng t sĩđã nm xung đđi ly nhng quyn li kim tin bn thu như Lê Minh Đo và Hnh Nhơn. Da vào tín nim quc gia nào, th tc, nghi thc nào, ly thm quyn đâu đ quý v cho người này hay người kia đng ngang hàng vi nhng t sĩv quc vong thân? Con người chđâu phi là trâu bò, súc vt mà không biết tôn trng nghi thc quc gia, không biết thế nào là bt kính vi anh linh ca t sĩ. Đa s người cóý thc trên din đàn đu lên tiếng ngăn cn chuyn làm càn.
 Ch có th vô li mi c tình vượt qua ranh gii ca đo đc, xem nh quc thđ trc li. Khi bn vô li này làm điu sai trái xúc phm đến nhng nghi thc quc gia, người hiu biết nhc nh là chúng mm loa mép gii nói chuyn hơn thua vi ganh t, ba điu đt chuyn cho người công chính.

 Người chính trc đi thy chuyn bt bình là phi ra tay ch không th phn sđng chm ti bn thân mình đ thành loi người vô cm, vô tri nht là khi nhng giá tr cao quý bđem ra bôi bác. Đi vi chúng tôi, dù chng được ơn sng gì ca hai th chế VNCH nhưng trong tư cách mt công dân ca VNCH , mt người lính ca QLVNCH, chúng tôi vn ý thc trách nhim phi bo v nhng tín nim ca mt CHÍNH NGHĨA THC HU vì tôi tin rng loi b nhng li lm ca nhng người lãnh đo, vai trò vinh quang ca hai th chế VNCH trong lch s sđược soi sáng bi nhng s gia hu Cng Sn.
 Khi ngi viết nhng dòng này người viết xác đnh ba điu: Th nht, chúng tôi lên tiếng làđ bo v nhng tín nim và giá tr ca nhng nghi thc quc gia, l nghi quân cách. Th hai: chúng tôi lên tiếng vì nếu nhng giá trđó b bôi nh là xúc phm ti anh linh ca các t sĩ. Th ba: s tn hiến ca người chiến sĩ trong cuc chiến là giá tr cao quý tuyt đi.
 Chúng tôi không nói đến người đã chết, người chết đã không còn quyết đnh được gì cho bn thân h nhưng nhng người sng trong gia đình phi t nhn ra nhng trò h, nhng v tung được son tho bi bn theo đóm ăn tàn, nhng li xúi gic thm chí cưỡng bách thân nhân người chết làm điu xng by s dn đến hu qu ba năm mãn tang chưa hết bài v ph nh, nguyn ra.
 Chúng tôi được mt s chiến hu báo cho biết có bn nhóm tranh giành v tung Ph C theo L Nghi Quân Cách Tượng Đài Chiến Sĩ”đ quyên góp, gây quđã b hai người lính đá văng v SBTN (Radio Bolsa ca Nguyn Chí Thin em h Chí Tài, PTHC Hunh Lương Thin, LHCCS và SBTN). Kết qu SBTN được quyn làm trưởng ban t chc nhưng trước phn ng ca công lun đã chuyn v SBTN. Little Sài Gòn TV trước đó công b chương trình phát hình trc tiếp đã b SBTN loi khi vòng chiến. Đó là s thc hu trường.
 Cui cùng v tung Ph C trên sân khu Sng Bng Thuc N cũng đã b gia đình sáng sut hy b, thay bng L trao c và tưởng nim. Cô Dim Chi đã chuyn ti tôi email như sau:
“Ngày th By 28 tháng 12, 2013 13:49, Dim Chí<radiotudo@yahoo.com> đã viết:
 Kính thưa Anh Kim Âu
 Gia đình NS VD quá c gm m, v, anh ch Em ca NS VD đã chôn ct VD trong s thương tiếc ca chúng tôi mà không có nghi l ph c vy là hđã theo quy tc ca Quân Đi VNCH ri đó anh.
 Kính mến
 Dim Chi
Đng thi chúng tôi cũng được biết lut sư ca gia đình đã ra mt thông báo nghiêm cm tt c nhng hành vi li dng tên tui ca người quá cđ quyên góp, gây qu. Lũ kên kên chuyên ra xác chết b khp mđã tan hàng.

 Như vy vic chúng tôi tích hp tài liu đ viết ba năm coi như không còn cn thiết.
 Chúng tôi có nhn được rt nhiu email ca nhng chiến hu đng tư tưởng bo v nhng giá tr nghi thc quc gia trong đóđáng chúý nht là li văn mc mc ca chiến hu Cao Vng t Dallas nói v bài hc Quân Cách. Cao Vng là mt người lính cp bc thp nhưng so ra ý thc quc gia, tinh thn bo v nhng giá tr cao c ca bn chL Nghi Quân Cách cao hơn nhng k như Lê Minh Đo, Hnh Nhơn nhiu bc.
 T Quc đã không còn -Trách Nhim không hòan thành. Ngày nay ch còn Danh D mà không biết gi thì qu tình th chế Vit Nam Cng Hòa sp đ không ch vì nguyên nhân khách quan mà vì trong hàng ngũ QLVNCH có nhiu th vô li chđến khi “tht th vong gia mi nhìn ra mt tht ca chúng.

 Hi nhng anh hn t sĩ Vit Nam Cng Hòa tn bên kia bđi dương! Quý v hãy yên tâm, an ngh vi tin nhân trong ngôi đn ca lch s. Không bt k mt cá nhân hay tp th nào có th xúc phm ti anh linh ca quý v.

Lch s rt công bng, cho dù chính th VNCH và QLVNCH đã không còn nhưng CHÍNH DANH và CHÍNH NGHĨA ca cuc chiến bo v mt CHÍNH NGHĨA THC HU vn trường tn vi lch s ca dân tc Vit Nam..

 Trân trng

 Kim Âu
 Tháng Mười Hai 28/2013

 Tín Lý và Tín Nim

 Sau đây Tôi xin mn phép đưa ra mt thí dđin hình đ minh chng ti sao "Nghi l quân cách" ph c có giá tr thiêng liêng trong nim tin phng pht đâu đây Anh Linh ca tin nhân và các Anh hn T sĩ , n mình trong lá c T Quc thân yêu và linh thiêng y!
 Mt trong nhng điu quan trng v nim tin ca người công giáo La Mã là" Bí tích Thánh Th" . Khi v linh mc ch tế mt bui l thường nht hay Misa Ch Nht, v linh mc y có"kh năng" biến nước và rượu nho tr thành Mình và Máu Thánh Chúa.Ti sao ?

 Vì đó là mt tín lý ca đo công giáo, và cũng bi vì v linh mc y đãđược Tòa Thánh phong cho by chc Thánh sau mt thi gian dài tu tp ! Vì nim tin vào Thiên Chúa và tuân theo tín lý ca Hi Thánh, đó làđiu không th làm khác được!

Mt người tín hu bình thường, không được th phong by chc Thánh, cho dù có lp li y chang nhng "cung cách" hành l ca v linh mc thì cũng không th nào hòan tt bí tích Thanh Thđược , đó ch là hành đng ca nhng k ngo mn vi Thiên Chúa và chàđp thiên chc Linh Mc ca Hi Thánh !
Vì vy, trong "L nghi Quân Cách" ca quân Đi Vit Nam Cng Hòa cũng được hiu rng, khi Chính th Cng Hòa và QLVNCH còn tn ti, thì người "ch s"đãđược y nhim ca Chính ph/ B Quc Phòng/B Tng Tham Mưu c hành L nghi Quân cách ph c cho người T Sĩ, s biến lá c T Quc may bng vi hay tơ la tm thường tr thành linh thiêng vìđãđược chng nhn bi Anh hn t sĩ- V Quc Vong Thân, cái "Tín lý"y đãđược hình thành và thc thi bi Uy Quyn Quc Gia ! Mà đi din cho Uy quyn Quc Gia là Tóan H K -Quc K và Quân K , nên vic Ph c là mt L Nghi Quân Cách không th làm khác được!

Tr li vn nn "L Nghi Quân Cách ph c", t ngày 30-4-1975, min Nam T Do đã b bán đng, Quân Lc VNCH đã b bc t oan khiên, người người lưu lc xa quê , K cương , phép nước không còn, quân đi thì tan rã sau lnh đu hàng ô nhc, dù phi luân lc x người, nhưng không vì thế mà ta li phá b k cương , luân thường đo lý ! Không vì quân Lc VNCH tan rã mà người quân nhân li ch trương "Xúc phm" Quân Phong - Quân K, coi thường L Nghi Quân Cách !

" Giy rách phi gi ly l"đ chúng ta còn có th giáo dc lp con tr sau này tuân theo hay hiu rõ k cương và các nghi l ngòai dân sđi thường và trong Quân Đi ca mt min Nam Nhân bn- T Do.
 Nếu người lính coi thường " Nghi L Quân Cách" làm sao ta khuyên dy con cái, đàn em đ chúng noi gương?
 Ai là người có"chính danh", t chc nào cóđ uy quyn tm mc Quc Gia đ làm nghi thc "ph c" thiêng liêng này nơi hi ngai ?
 Nếu c làm ba , thì có còn chút gì"thiêng liêng -cao c" na không ? Hay ch làđp lên quan tài manh vi không hơn không kém !
 Nếu ..... thc hành Nghi l quân cách ph c không chính danh , thì cũng là vô nghĩa.
 Tuy nhiên, qua cuc đi đi 30-4-11975 , có biết bao cnh cười ra nước mt, chó nhy bàn đc , "thng " thành "Ông", con sen thành bà ch, cương thường đo lý là cái chi chi v.v........!

 Thôi thì mây vn bay, núi vn xanh và lòng người ai biết được ?

 ChinhIrving
 Tháng Mười Hai 30/2013


TRUNG-TÁ NGUYỄN VĂN LONG

$
0
0
TRUNG-TÁ NGUYỄN VĂN LONG


        CỘNG-SẢN chiếm được Miền Nam đã mười năm rồi mà tôi vẫn còn tiếp-tục bị chúng kêu lên, kêu xuống hỏi cung. Tuy thế, nhờ những thời-gian đợi đi làm việc như thế tại các trại giam như Thanh-Liệt  Hà-Nội; Kho-Ðạn, Hội-An, và Hòa-Sơn  Quảng-Nam; mà tôi có dịp gặp nhiều cán-bộ Việt-Cộng cấp cao bị bắt về tội kinh-tế hoặc tham-ô và cả bạo-loạn nữa, cũng như đồng-bào nhiều giới phạm tội phản-động hiện-hành, vượt biên, vượt biển, đưa hối-lộ, xâm-phạm hoặc phá-hoại tài-sản xã-hội chủ-nghĩa, vân vân, nên tôi biết nhiều và biết sớm những biến-cố xảy ra bên ngoài thế-giới cải-tạo hơn đa-số anh+chị+em khác trong tù.

        Tôi đã nghe tin Trung-Tá Nguyễn Văn Long tự-tử từ lâu.  Nhưng vì có những trường-hợp sự thật khác với tin đồn; vả lại, biết đâu đó không là một người khác mà lại trùng tên với người mà tôi thân+thương; hơn nữa, anh Nguyễn Văn Long của tôi là một tín-đồ Ky-Tô-Giáo, lẽ nào lại tự hủy mình; do đó, tôi vừa âm-thầm đau-khổ về hoàn-cảnh chung, vừa bán-tín bán-nghi về phần anh Long.  Ðến khi tôi được nghe thêm hai viên thủ-trưởng  một thuộc Cục Xuất-Nhập-Khẩu 2 tại thành phố Hồ Chí Minh, một thuộc Ban Hậu-Cần Quân-Khu 5  khẳng-định là họ có nghe đề-cập trong nội-bộ cơ-quan rằng, ngoài một số tướng-lĩnh Miền Nam đã tự-sát chứ không chịu đầu-hàng hay trốn chạy ra nước ngoài, có một trung-tá Cảnh-Sát tên Nguyễn Văn Long, từ Ðà-Nẵng di-tản vào, đã tự-tử chết phía trước trụ-sở Quốc-Hội Việt-Nam Cộng-Hòa, tôi mới tin chắc đó chính là anh Nguyễn Văn Long.

Anh Long vĩnh-biệt cõi đời giữa cảnh lửa-bỏng dầu-sôi, bạn-bè nói riêng và đồng-bào nói chung thì còn bận lo tự cứu lấy mình, trong khi kẻ thù thì càng thù hận anh thêm, lấy đâu có những vòng hoa và những nén nhang cùng những dòng lệ thương tiếc tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.

Năm 1982, tại Trại bí-mật Thanh-Liệt, thuộc Huyện Thanh-Trì, Hà-Nội, là nơi giam-cứu các phần-tử quan-trọng nhất, mà đa-số là cán-bộ Ðảng, Nhà-Nước và Bộ-Ðội ở cấp Trung-Ương, do Bộ Nội-Vụ trực-tiếp quản-lý, tôi mới được một bạn tù cho biết thêm một chi-tiết quý-báu về cái chết hùng-vinh của trung-tá Nguyễn Văn Long Ðó là Phạm Trung Linh, một trung-tá bộ-đội Bắc-Việt, nguyên Trưởng Tiểu Ban Thanh Tra & Xét Khiếu Tố thuộc Trung Ương Cục Miền Nam  tổng-thư-ký của một tổ-chức đảo-chính quân-sự dự-định hành-động vào đêm 24 rạng ngày Nô-En năm 1979 nhưng bất-thành nên bị bắt cùng với một số tướng+tá và cán-bộ cao-cấp khác  xác-nhận rằng gã đã có trông thấy bức ảnh chụp cảnh trung-tá Nguyễn Văn Long mặc cảnh-phục chỉnh-tề nằm chết trước một tượng-đài Chiến-Sĩ Quốc-Gia phía trước trụ-sở Quốc-Hội Việt-Nam Cộng-Hòa, in trên bìa trước của một tạp-chí Hoa-Kỳ, trong kho sách+báo ngoại-quốc mà Việt-Cộng ở một số cấp cao đã sưu-tầm để nghiên-cứu những gì có liên-quan đến Việt-Nam.
Thế là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái lại còn cảm thấy lòng mình vui thỏa cho anh Long. Báo Mỹ mà đã đăng lên thì khắp thế-giới đều biết. Anh, cùng với những vị anh-hùng tuẫn-quốc khác trong biến-cố lịch-sử 30-4-1975, đã nói lên được hùng-hồn và cụ-thể tinh-thần bất-khuất của dân-tộc Việt-Nam yêu chuộng Tự-Do trước quyền-lực của cộng-sản bạo-tàn.
*
Thuở ấy, vào khoảng 1947-1950, ở Miền Trung có hai hệ-thống an-ninh: một bên là Pháp với hai cơ-quan Sûreté fédérale (Liêm-Phóng Liên-Bang) và Police française (Cảnh-Sát Pháp), một bên là Việt-Nam với hai cơ-quan Công-An & Cảnh-Sát Quốc-Gia.  Anh Nguyễn Văn Long tùng-sự bên Sûreté Fédérale (chính-trị) của Pháp, trong số vài người phụ-trách nội-ô Thần-Kinh; còn tôi thì bên Cảnh-Sát (hình-sự) của Việt-Nam. Tôi kiêm cả việc sáng-tác, ra báo, và dựng kịch cho sở-làm, và cho riêng mình.
Chúng tôi thường uống cà-phê ở quán Lạc-Sơn, nhà hàng lộ-thiên trên lề Đại-Lộ Trần Hưng-Ðạo, quay lưng vào Chợ Ðông-Ba. Nhân-viên hai bên không ưa gì nhau, nhưng gặp mặt mãi cũng thành quen nhau.
Dạo ấy, tôi viết cuốn truyện Trai Thời Loạn chống Pháp xâm-lược và Bảo-Ðại bù-nhìn, nên bị bắt giam; sau nhờ phái-đoàn của các nhân-sĩ Cao Văn Tường, Cao Văn Chiểu, cùng với nhà-báo Phạm Bá Nguyên và cả Giám-Ðốc Thông-Tin Lê Tảo can-thiệp với Thủ-Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được trả tự-do.  Ra tù, tự-nhiên tôi được thiện-cảm của nhiều người hơn.

Một hôm, anh Long tâm-sự với tôi:  Tôi chống Việt-Minh nên lỡ vào làm với Tây; nay tôi đã quyết sẽ thôi để qua làm với người mình.
Anh ít nói, không văn-hoa, lại lớn tuổi hơn tôi nhiều, mà đã nói thẳng với tôi như thế thì tôi hiểu rằng anh đã đau-lòng khổ-trí đến ngần nào trước thời-cuộc bấp-bênh của nước nhà.  Trong thời-gian chờ-đợi, anh Long đã nghe theo lời thuyết-phục của tôi, bỏ qua cho nhiều bạn thơ của tôi, thí-dụ Nhất-Hiên, Vân-Sơn PMT, Như-Trị, v.v... mà Sûreté Fédérale đã định bắt giam.  Liêm-Phóng Liên-Bang của Pháp mà đã bắt ai thì người ấy khó về được vẹn toàn.

Sau đó, anh đã chuyển qua Công-An Việt-Nam; và Vân-Sơn Phan Mỹ Trúc cũng như Như-Trị Bùi Chánh Thời thì vào Sài-Gòn; kẻ thành ký-giả tên tuổi, người nên luật-sư tài-danh.

Sau khi gia-nhập vào đúng hàng-ngũ thích-hợp để phụng thờ Chính-Nghĩa Quốc-Gia, trải qua mấy chục năm trời gắn bó với Lực-Lượng Cảnh-Sát & Công-An Việt-Nam Cộng-Hòa, anh Nguyễn Văn Long tận-tụy phục-vụ, và đã nổi tiếng là một trong số những cấp chỉ-huy tích-cực, cương-trực và liêm-khiết nhất trong Ngành.
*
TÔI về lại Miền Trung đảm-trách Giám-Ðốc Ngành Ðặc-Cảnh tại Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Vùng I vào ngày 26 tháng 9 năm 1973. Tìm gặp lại các bạn cũ, thuộc lứa tuổi trên tứ-tuần, đã từng giữ các chức-vụ Trưởng Ty Công-An, Cảnh-Sát-Trưởng, Trưởng Ty CSQG trở lên, từ thời Bảo-Ðại qua thời Ðệ-Nhất Cộng-Hòa đến nay, mà hiện còn lại tại Vùng này, tôi thấy chỉ có 6 người, trong đó có anh Nguyễn Văn Long.
Một số chưa có chức-vụ tương-xứng thì tôi nâng lên hoặc hợp-thức-hóa cho làm Phó Giám-Ðốc, Chánh-Sở.  Anh Long thì đã là một Chánh-Sở nắm Sở Tư-Pháp rồi, nên tôi không giúp gì về chức-vụ mà chỉ giúp về công-vụ mà thôi; những tin-tức về hình-sự mà tôi có được, thay vì xếp bỏ thì tôi chuyển qua cho anh. Tuy nhiên, đáp lại, chính anh giúp tôi nhiều hơn, rất nhiều, cả trong công-tác cụ-thể hằng ngày lẫn về phương-diện tinh-thần.

Anh Long tự-nguyện làm thêm nhiệm-vụ chính-trị  diệt-Cộng  ngoài phần-vụ chính của anh là truy lùng kẻ phạm-pháp về mặt hình.  Là một tay cừ trong giới tình-báo cũ, anh đã nhân làm công-tác sưu-tầm về hình-phạm mà thu-thập thêm tin-tức về quốc-phạm, và đã cung-cấp cho Ngành Ðặc-Cảnh của tôi nhiều manh-mối về cộng-sản nằm vùng.  Theo anh quan-niệm, đã là Cảnh-Sát Quốc-Gia, với chức-năng an-ninh trật-tự, thì phải góp phần trực-tiếp hoặc gián-tiếp vào lãnh-vực tình-báo, để phát-hiện và loại-trừ cộng-sản  mà trong giai-đoạn hiện-tại thì đối-tượng Việt-Cộng phải là ưu-tiên hàng đầu  để bảo-vệ và duy-trì an-ninh & trật-tự chung.  Anh không thể chỉ tự bằng lòng với phận-sự tiễu-trừ tội-phạm xã-hội, mà phải tham-gia phần nào, trong khả-năng mình, vào trách-nhiệm thanh-trừng giặc loạn để giữ nước và cứu dân.
Qua thái-độ và hành-động chính-đáng của mình, Trung-Tá Nguyễn Văn Long đã mặc-nhiên gửi một thông-điệp, một lời nhắn-nhe tâm-huyết, đến những anh+chị+em đồng-nghiệp nào mà vì lý-do nào đó đã tự cho mình là Cảnh-Sát Sắc-Phục thì không dính-dấp gì về tình-báo, nhất là Cộng-Tặc Miền Nam và Cộng-Sản Bắc-Việt Xâm-Lăng.
Trung-Tâm Huấn-Luyện Tình-Báo của tôi nằm trên bãi biển Sơn-Chà, tuốt bên kia bờ Hàn-Giang.  Lần nào khai-giảng hoặc bế-giảng Khóa nào Nhà-Trường cũng đều có mời các cấp chỉ-huy cả Ðặc-Cảnh lẫn Sắc-Phục đến dự.  Về sau, tôi bỏ bớt tiệc mãn-khóa, chấm dứt tình-trạng bắt các học-viên góp tiền.  Không còn tiệc-tùng, thì phần lớn quan-khách ngớt vãng-lai, viện cớ bận việc và đường quá xa; nhưng anh Long vẫn tiếp-tục đến dự  anh nói  để yểm-trợ tinh-thần chung.

Về mặt tư-pháp, Trung-Tá Nguyễn Văn Long đã thực-hiện đúng khẩu-hiệu pháp bất vị thân. Ngay đối với chính đồng-nghiệp, bất-cứ nhân-viên Cảnh-Sát nào mà phạm tội hình-sự là anh truy-tố ra Tòa thẳng tay  anh nói  để lành-mạnh-hóa nội-bộ, và nêu gương thượng-tôn luật-pháp cho người dân.  Bởi thế, anh bị nhiều người gọi bằng cái tên Long Lý, ý nói anh chỉ biết chiếu-lý chứ không vị-tình.

Sau Hiệp-Ðịnh Paris 1973, tình-hình xã-hội Miền Nam thật là rối-ren.  Bên ngoài thì Cộng-Sản Bắc-Việt công-khai ồ-ạt đổ thêm quân và chiến-cụ, vũ-khí vào tấn-công ta; bên trong thì các tổ-chức xưng-danh đối-lập và lợi-dụng tự-do quá-khích, tiếp tay với các phần-tử nằm vùng, ngày càng gia-tăng mức-độ và cường-độ gây hỗn-loạn trật-tự và làm suy-thoái tinh-thần các lực-lượng Quốc-Gia.  Về mặt chính-trị, CSQG vừa phải đối-phó với các bộ-phận Ðảng, Mặt-Trận, Nhà-Nước và Nhân-Dân của CSXL và Việt-Cộng, vừa phải chống-đỡ các phần-tử, phe nhóm chủ-bại và nội-ứng cho kẻ thù.
Về mặt tệ-đoan xã-hội, ung nhọt tràn lan khắp nơi.  Riêng về nạn dịch nhũng-nhiễu tham-lam, công-tác đương-đầu đã gặp quá nhiều khó-khăn.  Hầu như kẻ nào làm bậy cũng đều nấp dưới danh-nghĩa của một chính-đảng, tìm sự che-chở của một đoàn-thể hay một số cấp lãnh-đạo nào đó trong Chính-Quyền.  Ðụng vào họ, dù họ là kẻ phạm-pháp, có thể là tự rước lấy tai-họa vào mình  Thế mà anh Long đã dám xúc-tiến điều-tra, lập hồ-sơ truy-tố nhiều nhân-vật đáng sợ.  Nhiều vụ lắm.  Và vụ mà tôi thích nhất là vụ tiền trợ-cấp dân Quảng-Trị tị-nạn. Ðại-khái như sau:  
Ðầu năm 1975, đồng-bào từ Tỉnh Quảng-Trị bắt đầu di-tản. Chính-Quyền Trung-Ương tổ-chức đón tiếp và cứu-trợ họ tại Trại Tạm-Cư Ðà-Nẵng.  Trên thực-tế, có người đã vào, có người vẫn còn ở lại ngoài kia.  Do đó, có một tổ-chức quy-mô đứng ra lập hồ-sơ ma để lãnh các món cứu-trợ di-tản nhiều hơn bội-phần: tiền mặt, thực-phẩm, thuốc-men, áo+quần, giường+mùng chăn+chiếu, xi-măng, tôn, v.v..., cấp cho cả đồng-bào ở Trại lẫn đồng-bào vẫn còn ở Tỉnh cũ mà được chứng-nhận là đã nhập Trại Tạm-Cư, do ngân-sách của Bộ Xã-Hội đài-thọ.  Thậm chí, họ còn lập thêm hồ-sơ theo diện tị-nạn, dành cho đồng-bào dời-cư từ các xã bất-an và xôi-đậu đến định-cư tại các xã an-ninh, để lãnh thêm loại trợ-cấp này vốn áp-dụng chung cho bất-cứ vùng quê nào.  Chưa thỏa, họ còn chứng-nhận cho cũng những đồng-bào ấy là nguyên cơ-sở của Việt-Cộng ở vùng địch kiểm-soát, nay bỏ kẻ thù về với Quốc-Gia, để hưởng các khoản trợ-cấp loại này do Bộ Chiêu-Hồi cung-cấp định-kỳ, v.v...  Ngoài ra, người dân di-tản cũng bị lôi-cuốn vào tình-trạng hỗn-tạp chung bên ngoài Trại, lẫn-lộn giữa hợp-pháp và bất-hợp-pháp.  Một số trở thành nhân-viên Chương-Trình Áo Xanh, do một tổ-chức xã-hội Hoa-Kỳ tài-trợ, cung-cấp việc làm cho người lao-động thất-nghiệp.  Một số cũng là hội-viên Hội Cựu-Chiến-Binh và Dân-Phế, quy-tụ lính cũ đâu từ thời Pháp-thuộc, thời Nhật chiếm, thời kháng-Pháp, thời Bảo-Ðại, và nạn-nhân các vụ tai-nạn lưu-thông, ẩu-đả, hủy-hoại thân-thể, tàn-tật bẩm-sinh, vân vân, nhưng cũng được lập hồ-sơ và lãnh đều đều từ một tổ-chức nhân-đạo Hoa-Kỳ những món viện-trợ tiền mặt, thực-phẩm, thuốc-men, đồ dùng, v.v...  Hơn nữa, một số giả-danh là Thương-Phế-Binh, cưỡng-thu hụi chết tại các hàng quán, bến xe.  Phanh-phui vụ này lòi ra vụ kia.  Tóm lại, một người lãnh nhiều trợ-cấp với nhiều tư-cách trong nhiều hoàn-cảnh khác nhau; nhưng chỉ lãnh được một ít, còn thì nạp vào túi riêng của bọn gian+tham.

Vụ án đã làm chấn-động dư-luận, vì dính đến nhiều cấp+chức thuộc nhiều giới, ngành, từ cấp Tổ, Toán, Khóm, Thôn, Xã, Phường, lên đến Quận, Tỉnh, vào thấu Sài-Gòn, là những phần-tử chứng-nhận láo, chấp-thuận bừa, do đó, đã phí-phạm công-quỹ và phá-hoại chính-sách của Trung-Ương.

TRONG việc móc-nối đầu mối, nuôi-dưỡng đường dây, lắm lúc nhân-viên Ðặc-Cảnh phải giao-tiếp với những kẻ bất-lương.  Bởi thế, đã có một số Trưởng Mối bị trừng-phạt oan, vì phía Hình-Cảnh nghi là đồng-lõa hay đỡ đầu.  Sau khi có thêm bộ-phận An-Ninh Cảnh-Lực, Ðặc-Cảnh càng gặp nhiều khó-khăn hơn, đến nỗi Trưởng Ngành Ðặc-Cảnh Trung-Ương hồi đó là Trung-Tá Nguyễn Mâu đã phải lên tiếng phản-đối công-khai trước một đại-hội toàn-quốc, do Tổng Giám-Ðốc chủ-tọa, nhưng chưa ngã-ngũ ra sao.
Với tôi, anh Long đã chịu nhượng-bộ: nếu gặp nhân-viên Ðặc-Cảnh liên-can đến các vụ hình, anh để tùy tôi xét trước, để tránh oan-ức, trở-ngại cho công-tác chìm.  Ấy là nhờ anh hiểu rõ phương-thức tình-báo và đặt nhu-cầu chống Cộng lên hàng ưu-tiên. Ðó là quyết-định linh-động duy-nhất trong cương-vị Chánh Sở Pháp-Cảnh của anh Long.
*
KỶ-NIỆM đậm nét nhất trong đời tôi về anh Long là vụ rút lui ra khỏi Ðà-Nẵng, thành-lũy cuối cùng của Quân-Khu I Việt-Nam Cộng-Hòa.

Lúc ấy vào khoảng 10 giờ tối ngày 28-3-1975.
Trên máy vô-tuyến truyền-tin thuộc hệ Cảnh-Sát Sắc-Phục nội-thành Ðà-Nẵng, tôi nghe một đài gọi đài trung-ương, nhưng không có ai trả lời.  Lát sau, có một đài khác cất tiếng: Ðừng gọi vô-ích, bọn chúng chạy hết cả rồi!  Tôi bèn hỏi đài hồi nãy, thì được báo-cáo là có nhiều người ăn mặc lộn-xộn, vũ-khí cầm tay, đang nép hai bên lề đường từ hướng Hòa-Cường tiến vào.
Tôi dùng làn sóng của hệ Ðặc-Cảnh ra lệnh cho Sở Tác-Vụ Vùng và Sở Ðặc-Cảnh sở-tại đối-phó, đồng-thời gọi máy điện-thoại cho Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng có mặt với các Chánh-Sở cấp Vùng và một số Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực cấp Tỉnh tập-trung tại đây.

Lát sau, anh Long đến ngồi tại phòng truyền-tin Ðặc-Cảnh Vùng của tôi  nơi đây có máy âm-thoại của cả 2 hệ nổi+chìm địa-phương lẫn hệ toàn-quốc, và máy điện-thoại bưu-điện, điện-thoại quân-sự  cách dăm mười phút lại gọi hỏi tôi tình-hình thế nào.
Vì máy quá bận, tôi khuyên anh vào phòng-giấy của Đại-Tá Lộc để cùng theo-dõi diễn-biến tình-hình chung.

Khoảng sau 11 giờ đêm, từ đài Ðặc-Cảnh Vùng I Trung-Tá Long gọi tôi.  Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên, lời-lẽ trịnh-trọng khác thường:  Tôi xin mời ông Phụ-Tá, hiện là cấp chỉ-huy cao chức nhất, đến đây ngay để tổ-chức phòng-tuyến và điều-khiển đội-ngũ tử-thủ cùng với anh+em chúng tôi! (Tử-thủ là lời cam-kết của Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng đọc trên Ðài Phát-Thanh Ðà-Nẵng suốt chiều hôm nay).
Tôi hỏi về Đại-Tá Lộc thì anh đáp gọn với giọng bực-tức và chán-chường:  Các ngài đào-ngũ hết rồi!
Anh Long kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng với mọi người có mặt tại trụ-sở Vùng  Chánh-Sở các Sở, Chỉ-Huy-Trưởng của một số Tỉnh, có cả mấy viên đại-tá quân-đội  theo Đại-Tá Lộc xuống bến Giang-Cảnh, lên tàu Giang-Cảnh [thuộc BCH/CSQG Thị-Xã Đà-Nẵng], rời bến hướng ra biển Ðông.
Anh hỏi đi đâu thì Đại-Tá Lộc trả lời:  Chúng ta di-tản vào Nam!  Anh thấy máu uất xông lên đỉnh đầu, la lên:  Giặc chưa tấn-công, thuộc-viên vẫn còn ở lại, mà cấp chỉ-huy đã lén-lút bỏ đi như thế này là hèn!  Lộc cố giải-thích:  Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn đã rút đi rồi  Trong tình-huống này chúng ta đành phải phụ lòng anh+em mà thôi!  Long bèn rút súng, nhìn thẳng vào mặt từng người với vẻ khinh thường, và bảo tàu ghé vào bờ cho anh trở lui.
Và anh đã về trụ-sở, để cùng chiến-đấu, sống chết có nhau với anh+em.

TÔI tin-tưởng và kính-phục anh Long vô cùng; nhưng tôi thấy rõ là nếu đến sở thì sẽ dính kẹt ở đó, khó lòng điều-động hoạt-động bên ngoài, nên nói là tôi bận họp. Anh xin mượn tôi một máy vô-tuyến cầm tay, và đòi đến họp với tôi.

Tôi kéo Thiếu-Tá Ngô Phi Ðạm, Chánh Sở Tác-Vụ, ra xe.  Ðến bến Bạch-Ðằng quả thấy xe Jeep xanh+trắng [của CSQG] và ô-liu [của QLVNCH] bỏ đậu nghênh-ngang; gọi máy vô-tuyến trên hệ Sắc-Phục đến Đại-Tá Lộc ở sở, ở nhà, không ai trả lời; tôi bèn chỉ-thị Trung-Tâm Hành-Quân Ðặc-Cảnh Vùng báo-cáo sự-việc lên Trung-Ương.
Anh Long đã đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp là đến Ðặc-Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn; nơi đây vắng hoe.  Anh hỏi, tôi đáp là vào phi-trường, nhưng tôi đến Sở An-Ninh Quân-Ðội; nơi đây cũng chẳng còn ai.  Anh không gặp tôi, lại hỏi; và tôi lại dối, tránh anh.  Cứ thế mà tôi đến khắp các nơi vốn là chỗ dựa cho niềm tin của dân-nhân.

Ðến sau nửa đêm thì cả thành-phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để qua bến cảng, bãi biển Quận III, để mong chạy vào Sài-Gòn. Tôi cùng Ngô Phi Đạm, Chánh Sở Tác-Vụ, và Trần Văn Phú, Chỉ-Huy-Phó Thám-Sát Ðặc-Biệt Vùng, quan-sát xong tình-hình bên đó, len lách trở về thành-phố thì thoáng dưới ánh đèn pha thấy rõ hình-dáng của anh Nguyễn Văn Long, mặc cảnh-chiến-phục, gác khẩu M-16 ngang đùi, mặt-mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy cương-nghị, lái xe ngược chiều chạy vụt qua.

ÐÓ là hình-ảnh cuối cùng của Trung-Tá Nguyễn Văn Long, mãi mãi hằn sâu trong ký-ức tôi.
*
GẦN sáng, ngày 29-3-1975, Việt-Cộng pháo-kích hải-cảng, phi-trường.  Mờ sáng, đặc-công từ hướng Núi Non-Nước bắt đầu tấn-công vào.  Ðến trưa, tôi gọi máy về cho Đại-Úy Nguyễn Văn Tuyên, Chánh Sở Nghiên+Kế, lúc đó còn ngồi tại chỗ, ra lệnh giải-tán Trung-Tâm Hành-Quân của Ðặc-Cảnh Vùng I, là bộ-phận sau rốt của Chính- Quyền VNCH còn hoạt-động đến phút cuối cùng, và cho phép thuộc-viên tự tìm phương-tiện thoát thân.  
Xế chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng, rời bờ, liều-lĩnh trước các làn đạn pháo-kích của địch và trực-xạ của chính bạn mình.

Và tôi không còn gặp lại anh Long
*
*   * 

        CÁI chết của Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn Văn Long làm tôi suy-nghĩ rất nhiều.
Anh đã phục-vụ dưới nhiều chế-độ khác nhau, đảm-trách công-tác ở nhiều lĩnh-vực khác nhau, nhưng vẫn giữ mình trung-chính khiết-liêm.  Anh tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ-trung trong lối sống và trong công việc, không bị lứa trẻ sau này vượt qua.
Trong lúc nước nhà đang bị cộng-sản xâm-lăng, anh ý-thức được chúng là kẻ thù số một của toàn-dân, sự-nghiệp chống Cộng phải là ưu-tiên số một của mọi người yêu quý Tự-Do, nên anh phải góp phần vàọ thành-quả chống Cộng của CSQG nói chung, là đã có lúc hạ được nhiều tên cộng-tặc hơn cả con số chúng bị thiệt-hại trên chiến-trường, do đó, anh tự nhận lãnh vào bản-thân mình một phần trách-nhiệm đối với đối-phương về những tổn-thất mà chúng hứng chịu nặng-nề; nhưng trên tất cả là sự sụp đổ thảm-khốc của Việt-Nam Cộng-Hòa, mà đối với Tổ-Quốc, Dân-Tộc, Lịch-Sử, và Thế-Giới, thì cái trách-nhiệm vô cùng lớn-lao ấy nhất-định là của mọi người, trong đó có anh; nên anh tự xử  cũng như các anh-hùng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, vân vân  để tạ tội với Tiền-Nhân và Quốc-Dân, và để nói lên tinh-thần bất-khuất của người chiến-sĩ Tự-Do, không chịu hạ mình đầu-hàng kẻ thù.

CÁI chết của anh Long làm tôi hãnh-diện vô cùng.  Tuy người chết không mong được đời nhắc đến, nhưng bổn-phận của người sống là phải phát-huy những tấm gương trí-dũng ngời sáng ấy, để nhờ đó mà mình tin-tưởng và phấn-khởi tiếp-tục lo toan sự-nghiệp chung.

Bây giờ, đối với toàn-dân, Nguyễn Văn Long không còn là một trung-tá, là một Chánh-Sở Tư-Pháp, là một viên-chức An-Ninh, là những gì gì khác nữa ... mà anh đã là và vẫn còn là đại-diện cho bất-cứ chiến-hữu ưu-tú nào, không phân-biệt cấp/bậc, chức-vụ, ngành/nghề, hình-sự hay phản-gián, phái mạnh hay phái đẹp; mà anh đã vinh-quang đi vào Lịch-Sử với tư-cách một anh-hùng của Dân-Tộc Việt-Nam nói chung và Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia nói riêng.


        Ghi-Chú:
        Nguyễn Văn Long sinh ngày 1 tháng 6 năm 1919 tại Phú-Hội, Huế, tuẫn-tiết tại Thủ-Đô Sài-Gòn của Việt-Nam Cộng-Hòa ngày 30 tháng 4 năm 1975.






__._,_.___

Posted by: Nhuan Xuan Le 

Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng tư

$
0
0

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với kim chỉ nam “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm” và sứ mạng “bảo quốc, an dân,” chỉ biết tận tụy phục vụ đất nước để chống mọi kẻ thù xâm lược, dù là từ Cộng Sản Bắc Việt hay từ Cộng Sản Trung Hoa tới, chứ không hề là công cụ để đàn áp dân chúng. Vì Việt Nam Cộng Hòa là một trong những quốc gia tự do, dân chủ đầu tiên tại Á Châu sau Thế Chiến Thứ Hai, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ biết vì nước mà hy sinh và vì dân mà phục vụ chứ chẳng bao giờ muốn làm người hùng độc tôn hoặc đoái hoài tới chuyện trở thành những anh hùng duy nhất hay sau cùng trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.


Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng tư
VANN PHAN
 
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trở thành những người anh hùng cuối cùng trong lịch sử dân tộc
Dẫn nhập:
Năm nay, trong dịp tưởng niệm biến cố đau thương ngày 30 Tháng Tư năm 1975, người dân Việt Nam, cả ở trong nước lẫn ở hải ngoại, cùng ngậm ngùi nghĩ đến sự thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chẳng chóng thì chầy, sẽ trở thành những người anh hùng cuối cùng trong lịch sử dân tộc. (1)
Không đem chuyện thành, bại mà luận anh hùng, nước Pháp và thế giới đều đồng ý rằng Napoleon Bonaparte (1769-1821) là người anh hùng vĩ đại nhất của dân tộc Pháp, mặc dù vị hoàng đế này đã bị liên quân các nước Âu Châu do Anh cầm đầu đánh bại tại Waterloo ở Bỉ hồi Tháng Sáu năm 1815 rồi bị đày ra đảo Saint Helena ở Nam Ðại Tây Dương cho đến lúc chết vào năm Tháng Năm năm 1821. Nhưng, dĩ nhiên, Napoleon không phải là người anh hùng cuối cùng trong lịch sử gần 2,000 năm của nước Pháp, bởi vì nước Pháp vẫn còn đó và đang là một trong những cường quốc của thế giới ngày nay.
Tuy nhiên, rồi đây, thế giới sẽ phải nhìn nhận một sự thật chua chát và đớn đau rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cây cột trụ “bảo quốc, an dân” của miền Nam tự do hồi các thập niên 1950 và 1970 trong cuộc xung đột Quốc-Cộng một mất, một còn thời Chiến Tranh Việt Nam (1960-1975), là những người anh hùng cuối cùng trong lịch sử trên 4,000 năm của dân tộc Việt Nam.
Nghe thì không quen tai chút nào, nhưng số phận nghiệt ngã đó, chẳng chóng thì chầy, cũng sẽ phủ chụp xuống dân tộc Việt Nam vì nhiều biến cố lớn lao đang dẫn dắt đất nước và con người Việt Nam đến cái ngày định mệnh kia, mà với chỉ nội lòng yêu nước nồng nàn không thôi của hơn 90 triệu người Việt Nam, cả ở trong nước lẫn ở hải ngoại, sẽ không thể nào đảo ngược được tình thế.
Một lý do thiết yếu để giải thích sự thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trở thành những người anh hùng cuối cùng trong lịch sử dân tộc là sự thể, trong một tương lai không xa mấy, nước Việt Nam thống nhất hiện nay, trong đó có miền Nam tự do cũ, sẽ bị sáp nhập vào Trung Quốc chỉ qua một quyết định đơn thuần của hai đảng cộng sản cầm quyền tại Việt Nam và Trung Quốc, chiếu theo tinh thần của Thỏa Hiệp Thành Ðô được hai bên Cộng Sản Trung Quốc và Cộng Sản Việt Nam ký kết tại Thành Ðô, Tứ Xuyên, vào ngày 4 Tháng Chín năm 1990, với thời hạn chót là vào năm 2020 thì Việt Nam sẽ sáp nhập vào Trung Quốc.
Cuộc sát nhập này tất yếu phải diễn ra sau khi nền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của Cộng Sản Việt Nam sụp đổ. Một “diễn tiến hòa bình” (2) nhằm lật đổ bộ máy cai trị hiện tại – nhưng đội lốt cứu vãn chế độ Cộng Sản tại Việt Nam – đang dần dần và lặng lẽ xảy ra tại Việt Nam mà tác nhân, thay vì là dân chúng đang uất hận vì bị đảng Cộng Sản cầm quyền đàn áp và bóc lột, lại chính là Cộng Sản Trung Hoa khi chính quyền Bắc Kinh bỏ tiền ra để vực dậy nền kinh tế Việt Nam, mà theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế thế giới thì có thể sẽ khởi sự sụp đổ vào cuối năm 2017 vì ngân sách quốc gia cạn kiệt, một sự kiện mà chính Thủ Tướng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã lên tiếng báo động hồi đầu năm nay. (3)
Dĩ nhiên là, vào thời điểm đó Ðảng Cộng Sản Việt Nam cầm quyền cùng các quan chức của họ đã hoàn toàn trở thành các thư lại và công chức lãnh lương của Bắc Kinh rồi, cho nên chuyện họ tự quyền định đoạt việc sáp nhập Việt Nam vào Trung Quốc là chuyện dân chúng Việt Nam thấp cổ, bé miệng không thể cưỡng chống lại được. Lịch sử còn ghi lại một cuộc kết hợp tương tự như thế tại Trung Ðông hồi cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 giữa Ai Cập và Syria, để rồi liên bang này trở thành nước Cộng Hòa Ả Rập Thống Nhất (United Arab Republic) dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Gamel Abdel Nasser, người Ai Cập, trong một khoảng thời gian là ba năm. (4)
Kết quả của biến cố này là Việt Nam “tự nguyện kết hợp” vào nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa quang vinh để trở thành một “khu tự trị” và là một thành phần trong đất nước Trung Quốc vĩ đại, sánh vai cùng các dân tộc anh em khác trong đại gia đình các dân tộc Trung Hoa, bao gồm Mãn (Mãn Châu), Mông (Nội Mông), Hồi (Tân Cương), Tạng (Tây Tạng), Việt (Việt Nam) và Hán (Trung Hoa).
Liên Hiệp Quốc, tổ chức thế giới đang do các đại cường quốc như Mỹ, Anh, Pháp, Nga và Trung Quốc khống chế đến độ tê liệt, dĩ nhiên, không thể làm gì khác hơn là tán thành “diễn tiến hòa bình” này khi thấy Trung Quốc đã sát nhập Việt Nam mà không phải nổ một phát súng nào qua một cuộc chiến tranh thôn tính chớp nhoáng, như trường hợp Crimea hồi năm 2014 khi phần lãnh thổ này của nước Cộng Hòa Ukraine bị Tổng Thống Vladimir Putin sát nhập vào Liên Bang Nga mà thế giới chỉ biết đứng giậm chân kêu Trời và la ó suông.
Và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vào lúc đó, sẽ “nghiễm nhiên” trở thành những người anh hùng cuối cùng của dân tộc Việt Nam, bởi vì quân đội này, dù bị đồng minh Hoa Kỳ phản bội nên đã thua trận và tan rã trước cuộc tấn công sau cùng của quân Cộng Sản Bắc Việt -được Liên Xô và Trung Cộng yểm trợ hết mình- vào hồi Tháng Tư năm 1975, đã có các thành tích chiến đấu oanh liệt chống kẻ nội thù, là Quân Ðội Nhân Dân (còn gọi là Bộ Ðội Cụ Hồ) của Cộng Sản Bắc Việt (từ 1949 tới 1975) và quân xâm lược ngoại bang Trung Cộng, qua trận Hải Chiến Hoàng Sa để bảo vệ biển đảo Việt Nam hồi năm 1974.
Vào thời điểm này, xu thế lịch sử nói trên rõ ràng là không thể nào đảo ngược lại được khi xét đến trào lưu “mạnh được, yếu thua” và “cá lớn nuốt cá bé” trên bàn cờ thế giới hiện nay, trong khi tổ chức Liên Hiệp Quốc đành bất lực đứng nhìn, cùng với tình trạng “sĩ khí rụt rè gà phải cáo” của dân chúng Việt Nam trong nước, giữa lúc tập thể người Việt hải ngoại trên toàn thế giới, vì bị luật pháp quốc tế ràng buộc, chỉ có thể gia tăng buôn bán với Cộng Sản Việt Nam chứ không thể làm gì để chận đứng đà lụn bại và mức độ tùy thuộc một cách trí mạng của Cộng Sản Việt Nam vào Cộng Sản Trung Quốc.
Trào lưu “mạnh được, yếu thua” và “cá lớn nuốt cá bé” trên bàn cờ thế giới hiện nay
Từ đầu thế kỷ 21 tới nay, điều rõ ràng trước mắt là cộng đồng thế giới đang phải chứng kiến trào lưu “mạnh được, yếu thua” và “cá lớn nuốt cá bé” giữa các quốc gia với nhau chỉ vì Liên Hiệp Quốc, tổ chức quốc tế duy nhất có sứ mạng bảo vệ hòa bình và ngăn ngừa thảm họa nước này thôn tính nước kia trên thế giới, ngày càng đánh mất khả năng làm nhiệm vụ của mình, chỉ vì tổ chức này đã bị tê liệt ngay trong cơ chế.
Trong số những sự kiện cho thấy trào lưu nói trên đang liên tục diễn ra, có việc Hoa Kỳ xua quân đánh chiếm Afghanistan, hồi năm 2001, sau khi Osama bin Laden và quân khủng bố Taliban tấn công trực diện vào nước Mỹ trong biến cố 9/11; Hoa Kỳ tấn công và chiếm đóng Iraq, hồi năm 2003, sau khi Saddam Hussein tàn sát người Shi’ite cùng người Kurd và hù dọa thế giới bằng vũ khí hóa học; Nga bất ngờ đem quân đánh vào Georgia và hỗ trợ hai tỉnh South Ossestia cùng Abkhazia ly khai khỏi nước này, hồi năm 2008; Liên quân Pháp-Anh-Mỹ tấn công và lật đổ chính quyền Tổng Thống Muammar Gaddafi của Libya, hồi năm 2011, viện cớ Gaddafi đàn áp dân chúng trong nước và coi thường lời cảnh cáo của Tây Phương; Trung Quốc ngang nhiên lấn chiếm các đảo và bãi đá hoang tại hai quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands) và Trường Sa (Spratly Islands) trên Biển Ðông (South China Sea) để biến vùng biển này thành cái hồ nước riêng của mình nhằm ngăn chặn tự do lưu thông hàng hải quốc tế; Nga lại đem quân đánh chiếm bán đảo Crimea của Ukraine rồi sát nhập vùng này vào lãnh thổ Liên Bang Nga, hồi năm 2014; các lực lượng Hồi Giáo cực đoan đánh chiếm một phần lãnh thổ của hai nước Syria và Iraq để lập thành Nhà Nước Hồi Giáo ISIL (Islamic State of Iraq and the Levant), cũng vào năm 2014; Nga đưa quân đến lập căn cứ để oanh tạc phiến quân Nhà Nước Hồi Giáo trên lãnh thổ Syria, hồi năm 2015; Israel tự ý lập các khu định cư Do Thái trên vùng đất của người Palestine ở Ðông Jerusalem mà họ chiếm đóng từ năm 1967 đến nay; Iran bất chấp thỏa hiệp Cấm Phổ Biến Vũ Khí Nguyên Tử để xây dựng chương trình chế tạo vũ khí nguyên tử riêng; Bắc Hàn bất chấp lệnh cấm của Liên Hiệp Quốc để tự chế tạo bom nguyên tử và phát triển các phi đạn liên lục nhắm vào Nam Hàn, Nhật Bản và Hoa Kỳ,…
Trào lưu “mạnh được, yếu thua” còn diễn ra mà tại nhiều quốc gia độc tài, đảng trị trên thế giới, như Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam, Cuba, Iran, Syria, Venezuela,… nhằm bịt miệng những tiếng nói đối lập trong nước. Những vụ đàn áp dân chúng, bắt bớ, tra tấn các phần tử đối lập, vi phạm nhân quyền và thậm chí tấn công diệt chủng dân lành bằng vũ khí hóa học tại các quốc gia độc tài, độc đảng nói trên ngày càng gia tăng mà không hề bị ai ngăn chặn, bởi vì cộng đồng quốc tế ngày càng dửng dưng trước nỗi thống khổ của đồng loại nên cứ giả điếc, làm ngơ mà khoanh tay đứng nhìn cái Ác liên tục thắng cái Thiện khắp nơi. Ngoài ra, cũng còn phải kể đến những cuộc đàn áp dân chúng và lấy đất xây khu định cư cho dân Israel của nhà cầm quyền Tel Aviv tại những phần đất của người Palestine hiện bị quân đội Israel chiếm đóng.
Tình trạng “sĩ khí rụt rè gà phải cáo” của dân chúng Việt Nam trong nước
Phải nói rằng, chưa bao giờ trong lịch sử dựng nước và giữ nước trên bốn nghìn năm của con cháu các Vua Hùng, từ thời kỳ Hán thuộc cho tới thời kỳ Pháp thuộc cộng với một thời gian ngắn Nhật thuộc, mà dân tộc Việt Nam lại tỏ ra cầu an, rụt rè và ngại hy sinh vì quyền lợi của đất nước trước họa cường quyền đàn áp dân chúng như dưới thời công sản cai trị Việt Nam bây giờ.
Ðại đa số dân chúng Việt Nam ngày nay đều ở mức nghèo khó, trong khi đó thiểu số người giàu có tại Việt Nam đều quá giàu so với mức sống trung bình của người dân, giàu có đến nỗi họ thừa sức mua cả phi cơ riêng để đi lại và trực thăng riêng chỉ đem để trên nóc nhà coi chơi, trong khi chuyện một số người có hàng chục chiếc xe hơi xa xỉ, như Cường Ðô-La chẳng hạn, nay đã là “chuyện thường ngày ở huyện.” Thế nhưng khối đại đa số dân chúng nghèo mạt đó, thay vì trở thành chiếc xương sống của một cuộc “cách mạng vô sản” mới, vùng lên lật đổ chế độ cộng sản toàn trị và “giành lấy chính quyền về tay nhân dân” như lúc Ðảng Cộng Sản Ðông Dương cướp chính quyền hồi năm 1945, thì khối người đó lại đứng ngoài cuộc tranh đấu chống chế độ, chỉ vì một lý do đơn giản là họ quá bận bịu với sinh kế, lúc nào cũng đầu tắt, mặt tối vì chuyện mưu sinh, trong khi chính quyền Cộng Sản, dù mang tiếng là “hiếu với dân” sau khi đã “trung với Ðảng,” lại giao hết công việc an sinh xã hội cho các tổ chức từ thiện của người Việt hải ngoại phụ trách mà chẳng bao giờ đoái hoài tới đám lê dân trong nước.
Còn giới trung lưu Việt Nam tại quốc nội, những kẻ mới “phất” lên nhờ “hưởng xái” từ nguồn tư lợi khổng lồ do các cán bộ, đảng viên tham nhũng ăn cắp của các quỹ phát triển quốc tế đổ vào Việt Nam, cộng với các lợi tức thu được từ những vụ khai thác đến cạn kiệt dầu khí và tài nguyên thiên nhiên của đất nước, lại là nhóm người cực kỳ cầu an và chỉ muốn tồn tại mãi theo chế độ đương quyền, bám riết theo phương châm “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi.”
Bức tranh chung của xã hội ngày nay tại Cộng Sản Việt Nam là, ngoài một số những nhà vận động cho tự do, dân chủ đã bị bắt giam và tù đày, chỉ còn những cuộc biểu tình lẻ tẻ chống đối chính quyền Hà Nội vì những vụ cưỡng chế đất đai hoặc vụ tập đoàn kỹ nghệ Formosa đổ chất thải độc hại phá hoại môi trường biển tại các tỉnh phía Bắc của Miền Trung, đại đa số dân chúng Việt Nam từ Nam chí Bắc vẫn “bỉnh chân như vại,” đứng ngoài các phong trào đấu tranh giành quyền sống và thờ ơ ngồi nhìn thế sự xoay vần, bởi vì họ cảm thấy bất lực hoàn toàn khi hai lực lượng võ trang chính yếu trong nước, là Quân Ðội Nhân Dân và Công An Nhân Dân, do được hưởng quá nhiều ân sủng của chế độ Cộng Sản, đã đứng hẳn về phía chính quyền để bảo đảm cho sự trường tồn của chế độ cai trị hiện nay. (5)
Tệ hại hơn nữa, chưa bao giờ trong lịch sử mà dân chúng Việt Nam, dù đang bị chính quyền đàn áp mạnh tay nhất trong lịch sử và đang phải đối diện với hiểm họa mất nước cận kề, lại vui chơi và ca hát nhiều đến thế. Ngoài thành tích uống nhiều rượu bia nhất Á Châu, dân chúng Việt Nam ngày nay dường như đang đắm đuối theo dõi các chương trình ca nhạc sống được tổ chức khắp nơi cùng những chương trình “nhạc bolero” phổ biến rộng rãi trên các “kênh” truyền hình địa phương. (6)
Cả hai thành phần nói trên, nếu tự thân họ không chịu hợp sức lại mà vùng lên lật đổ chế độ chuyên quyền và bóc lột hiện tại, vốn bao gồm các đảng viên và cán bộ cao cấp của Ðảng Cộng Sản Việt Nam cộng với hai lực lượng võ trang nòng cốt, là Quân Ðội Nhân Dân và Công An Nhân Dân, thử hỏi nay lấy đâu ra người để làm cuộc một cuộc cách mạng lật đổ chế độ hiện tại ở Việt Nam?
Hơn nữa, vì chính quyền Cộng Sản Hà Nội bây giờ lại là một chính quyền cực kỳ thân Bắc Kinh (do những ơn sâu, nghĩa nặng với Trung Quốc đã có từ thời Hồ Chí Minh trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ hồi thế kỷ trước để giành lấy chính quyền về tay những người cộng sản Việt Nam) và đang được Bắc Kinh ngày đêm hà hơi, tiếp sức để thủ lợi, dân chúng Việt Nam bây giờ không có cách nào lật đổ được chế độ hiện tại để Việt Nam có cơ may “thoát Trung,” tức là thoát khỏi hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng. Mặc dù bên trong đất nước Việt Nam vẫn có một số người thật sự yêu nước và chấp nhận hy sinh xương máu để làm một cuộc cách mạng “đổi đời,” nhưng số này vẫn còn quá ít và hoạt động còn quá rời rạc trong khối người trên 90 triệu dân hiện nay.
Vì một cuộc cách mạng lật đổ chế độ cộng sản hiện tại ở Việt Nam không hội đủ yếu tố để thành công, Việt Nam đương nhiên sẽ từ từ lún sâu vào chỗ tùy thuộc Trung Quốc, từ chính trị tới kinh tế và tài chánh, cho tới khi Việt Nam kiệt sức phải buông tay và bị Trung Quốc thôn tính một cách nhẹ nhàng và êm thấm, khiến cho thế giới tuy bàng hoàng nhưng cũng không nói được tiếng nào trước sự đã rồi.
Thay lời kết
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với kim chỉ nam “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm” và sứ mạng “bảo quốc, an dân,” chỉ biết tận tụy phục vụ đất nước để chống mọi kẻ thù xâm lược, dù là từ Cộng Sản Bắc Việt hay từ Cộng Sản Trung Hoa tới, chứ không hề là công cụ để đàn áp dân chúng. Vì Việt Nam Cộng Hòa là một trong những quốc gia tự do, dân chủ đầu tiên tại Á Châu sau Thế Chiến Thứ Hai, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ biết vì nước mà hy sinh và vì dân mà phục vụ chứ chẳng bao giờ muốn làm người hùng độc tôn hoặc đoái hoài tới chuyện trở thành những anh hùng duy nhất hay sau cùng trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, vì những oái oăm của lịch sử, quân đội này, rồi đây, sẽ không thể từ chối cái vinh dự được dân tộc Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung nhớ đến như là “những người anh hùng cuối cùng trong lịch sử dân tộc” một khi Việt Nam bị sát nhập vào Trung Quốc, là lúc mà “thế giới này sẽ không còn Việt Nam,” như lời tiên tri thê thiết của Nhạc Sĩ Việt Khang trong ca khúc “Việt Nam Tôi Ðâu?”
Tưởng niệm Ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư năm nay, dường như khối người Việt lưu vong ở hải ngoại – mà nay, tại một số nơi, đã bước sang thế hệ thứ tư – chỉ còn một niềm hy vọng duy nhất là nhìn thấy những gì còn lại của Việt Nam sau ngày Việt Nam bị Cộng Sản Trung Hoa thôn tính sẽ nằm ở bên ngoài đất nước Việt Nam, như những báo điềm từ truyền thuyết 100 người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay nhau, với 50 người con theo cha lên non và 50 người con theo mẹ xuống biển sinh sống.
Vì hy vọng luôn là lẽ sống của con người, những người Việt lưu vong trên khắp năm châu, bốn bể ngày nay vẫn tin tưởng rằng các giá trị và truyền thống Việt Nam sẽ mãi mãi được bảo tồn tại hải ngoại, nhất là tại Little Saigon ở Miền Nam California, Hoa Kỳ, nơi được coi là thủ đô của người Việt tị nạn trên toàn thế giới, với hai bức tượng Ðức Thánh Trần đã được dựng lên và một đại lộ mang tên “cố đô” Sài Gòn cùng một đại lộ mang tên vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Ðạo ngay trên Phố Bolsa của thành phố Westminster.
Ðến đây, tưởng cũng nên nhắc tới niềm hy vọng của mọi người Việt Nam được thấy, bằng cách này hay cách khác, chế độ cộng sản tại Trung Quốc cáo chung và Ðế Quốc Trung Hoa tan rã sau thời gian cực thịnh, giống như trường hợp Liên Bang Sô Vết hồi năm 1991 trong thế kỷ trước vậy, để rồi khối người Việt yêu nước tại quê nhà và trên toàn thế giới, sau cùng, sẽ quang phục được quê hương từ ách thống trị “Trời gầm không nhả” của quân Ðại Hán, như ý nhạc sau đây trong ca khúc “Bên Bờ Ðại Dương” của Nhạc Sĩ Hoàng Trọng:
“Anh với tôi còn sống bên bờ đại dương,
Tôi với em còn thắm trong lòng niềm thương.
Ðất nước tôi còn gió độc lập Trường Sơn,
Còn lúa tràn đồng phương Nam,
Còn xóa được hờn quê hương…”

Ghi chú:
(1) Vấn đề Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tuy thất trận, vẫn là những người anh hùng trong lịch sử là điều không còn phải bàn cãi gì nữa. Qua những trận chiến long trời, lở đất và những chiến tích vang dội của họ thời Chiến Tranh Việt Nam, quân đội đó luôn xứng đang với danh hiệu anh hùng, mặc dù họ vẫn thường bị báo chí thiên tả cùng các sử gia mù quáng của Mỹ và thế giới xúm lại gièm pha là thiếu khả năng chiến đấu nên mới bị thua trận, nhằm che đậy tội lỗi của phe phản chiến Mỹ từng dẫn đến sự phản bội đồng minh của Mỹ tại Miền Nam Việt Nam. Liệu quân đội Mỹ, được coi là hùng mạnh nhất thế giới, cùng lúc có được 5 vị tướng, 2 vị đại tá (một của quân đội, một của cảnh sát) cùng hằng trăm binh sĩ lẫm liệt tuẫn tiết hoặc anh dũng chiến đấu cho đến chết lúc thua trận như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hay không?
(2) Diễn biến hòa bình là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, được thực hiện dưới một phương thức, thủ đoạn mới để chống phá, đẩy lùi và đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Ðối tượng của chiến lược diễn biến hòa bình là các nước có khuynh hướng phát triển phi tư bản chủ nghĩa, mà trong trường hợp này là chính quyền Cộng Sản Việt Nam.
(3) Theo blogger Phạm Chí Dũng, “2017 là năm bị xem là ‘cực kỳ khó khăn’ đối với nền kinh tế Việt Nam mà thậm chí một quan chức cao cấp là Nguyễn Xuân Phúc đã phải cảnh báo về ‘sụp đổ tài khóa quốc gia.’ Hẳn là thế và hình như không còn lối thoát nào khác nếu chiếu theo luận thuyết ‘kinh tế quyết định chính trị’ của Mác mà Việt Nam vẫn hàng ngày truyền tụng trong các cơ sở đào tạo ‘lý luận chính trị cao cấp.’ Sau triều đại bị xem là ‘phá chưa từng có’ của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, sự thật về một nền kinh tế suy sụp và cận kề khủng hoảng đã không còn lời nào để bào chữa. Nếu trước đây Thủ Tướng Dũng, dàn tham mưu bộ ngành của ông ta, và kể cả dàn đồng ca phụ họa của những người bên đảng còn tự an ủi rằng những ‘khó khăn kinh tế’ như nợ xấu, nợ công, ngân sách không phải là chuyện lớn và ‘vẫn còn dư địa để vay tiếp và phát triển,’ làm thế nào có thể lý giải được một sự thật trần trụi là ít nhất $25 tỷ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng vẫn hoàn toàn bế tắc trong xử lý trong khi nợ công quốc gia không phải chỉ gần 65% GDP như đủ loại báo cáo “nâng lên một tầm cao mới” mà đã vọt lên đến 210% GDP – gấp hơn 3 lần ngưỡng nguy hiểm?” (Phạm Chí Dũng, VOA, March 27, 2017)
(4) Liên Bang Cộng Hòa Ả Rập Thống Nhất (1958-1961) khởi sự tan rã vào Tháng Chín năm 1961 sau khi tại Syria xảy ra một cuộc đảo chánh của các phần tử chống Ai Cập trong quân đội Syria để lập nên nước Cộng Hòa Ả Rập Syria (Syrian Arab Republic) độc lập.
(5) Phần lớn các cuộc cách mạng nhằm thay đổi chế độ, mà tiêu biểu là cuộc Cách Mạng Mùa Xuân Ả Rập hồi đầu thập niên 2010 tại Trung Ðông và Bắc Phi, đều chỉ có thể thành công nếu có sự can dự của các lực lượng võ trang trong nước, hoặc ít ra thì các lực lượng quân đội và cảnh sát phải án binh bất động và không theo về phe chính quyền mà đàn áp dân chúng đang nổi dậy. Các diễn biến mới nhất tại Venezuela, một quốc gia đang được hưởng tự do, dân chủ bỗng dưng biến thành xã hội chủ nghĩa từ thời cố Tổng Thống Hugo Chavez, cho thấy phe đối lập tại quốc gia Nam Mỹ này đang kêu gọi quân đội Venezuela hãy đứng về phía dân chúng mà lật đổ chế độ độc tài đương quyền của Tổng Thống Nicolas Maduro.
(6) Các chương trình giải trí, ca nhạc và vui chơi đang “nở rộ” tại Việt Nam ngày nay khiến giới văn nghệ sĩ quốc nội, kể cả các “danh hài,” ngày càng phất lên, đa số đều sắm được xe hơi hạng xa xỉ, du thuyền và biệt thự cả triệu đô-la Mỹ, làm nức lòng dân chúng trong nước và làm cho nhiều ca sĩ và diễn viên hài hải ngoại khát khao mong được về nước làm ăn. Việc nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam dần dần nới lỏng các quy định trước đây cấm loại “nhạc vàng” thời Việt Nam Cộng Hòa đã làm trỗi dậy phong trào hát “nhạc mùi” và “nhạc sến,” những ca khúc mang tính ủy mị thường được người trong nước gọi chung là “nhạc bolero,” tưng bừng chưa từng thấy, từ các hang cùng, ngõ hẻm tại các thành thị cho tới các vùng quê xa xăm trên khắp các miền đất nước Việt Nam. Nhiều người tự hỏi phải chăng các phong trào rầm rộ đi vui chơi, giải trí, nhậu nhẹt, uống bia xả láng và hát “nhạc bolero” rên rỉ suốt ngày đêm hiện nay là một dấu hiệu cho thấy dân tộc Việt Nam đã chán ngán thế sự nên mới chui vào các cuộc vui đó để tìm quên lãng, y như những cuộc “uống rượu tiêu sầu” của kẻ sĩ thất chí Cao Bá Quát thời Tự Ðức vậy? Nếu sự thật quả là như thế thì dân tộc Việt Nam e sắp mất nước tới nơi rồi. Khi văn, thơ và âm nhạc bắt đầu trở nên bi lụy, ai oán thì đó chính là lúc vận mệnh của quốc gia khởi sự đi xuống, như dân tộc Champa (Chiêm Thành) vào lúc bị nước Ðại Nam thôn tính và miền Nam tự do sau thời Ðệ Nhất Cộng Hòa – khi một ca khúc ủy mị chỉ ở mức trung bình như “Chiều Mưa Biên Giới” của Nguyễn Văn Ðông vẫn bị Bộ Tổng Tham Mưu Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa lúc đó cấm phổ biến – hát nhạc buồn cho tới ngày bị Cộng Sản Bắc Việt xâm chiếm: “Rằng hay thì thật là hay. Nghe ra ngậm đắng, nuốt cay thế nào!” (Nguyễn Du, Truyện Kiều)
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Tài Liệu Lịch Sử Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa Ra Khơi, 1975

$
0
0

From:



Tài Liệu Lịch Sử
Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa Ra Khơi, 1975
      Cho các con Xuân Nguyệt, Hồ Quang Thanh, Xuân Hương, Hồ Quang Liêm, Phạm Thế Vượng và những người trẻ cùng thế hệ để tất cả hiểu được những hải trình khổ nạn mà Ông và Cha đã vượt qua.

Thay Lời Tựa
Là một ngòi bút nữ không chuyên nghiệp, tôi rất say mê viết về Lính và tâm tình của Lính, nhưng không bao giờ tôi có ý định viết quân sử. Đối với tôi, tường thuật là một thể loại tôi không thích; vì thể loại này hơi khô khan, cứng ngắt, không hợp với tâm hồn tôi. Vì vậy, thực hiện cuốn tài liệu Hải-Quân Việt-Nam Cộng Hòa Ra Khơi, 1975 không phải là “cao vọng” (?) hay ý tưởng lập dị của tôi, mà chỉ là một cố gắng vượt bực để giới thiệu đến độc giả một quân chủng thầm lặng nhưng được rất nhiều cảm mến của mọi người.

Trong Hải-Quân không hề thiếu những cây bút thừa khả năng để ghi lại những đoạn đường đầy chông gai mà tập thể ấy đã vượt qua. Nhưng sở dĩ tôi được hân hạnh làm công việc này là vì tấm lòng tha thiết của tôi đối với quân chủng này từ khi tôi trở thành “dâu” của Đại-Gia-Đình Hải-Quân.

Vì yêu thích thiên nhiên và cũng vì muốn thấy tận mắt những khía cạnh gai gốc nhất của quân chủng Hải-Quân để viết bài, tôi xin tháp tùng những đơn vị chiến đấu Hải-Quân.

Sau khi được Tư-Lệnh Hải-Quân Trần Văn Chơn cho phép, tôi gửi các con của tôi vào nội trú tại trường Régina Pacis và Notre Dame des Missions để lênh đênh trên những chiến đỉnh trong Vùng IV Sông Ngòi hoặc ghe Chủ Lực dọc miền Duyên Hải.

Nhờ thời gian dài sống cạnh những đơn vị tác chiến này tôi mới cảm nhận được tất cả nỗi đau thương của Người Lính V.N.C.H. Và cũng nhờ thời gian này tôi mới ý thức được rằng Người Lính Hải-Quân cũng chiến đấu can cường, liều lĩnh và dũng cảm không thua bất cứ một đại đơn vị tác chiến nào của Quân-Lực V.N.C.H.

Tôi vẫn nhớ, những đêm đen, thấy hỏa châu rực sáng một vùng và nhìn đoàn giang đỉnh lầm lủi tiến về một đồn Nghĩa-Quân đang kêu cứu, tôi bỗng nghe nhiều tiếng B40 và B41 từ hai bên bờ sông bắn xối xả ra đoàn tàu. Chiếc Fom dẫn đầu bị mìn. Quanh tôi, lẫn trong tiếng đạn và mìn vang rền là từng cột nước phun cao, đổ ào xuống đoàn giang đỉnh, át cả tiếng kêu cứu từ máy truyền tin của nhân viên chiếc Fom và của đồn Nghĩa-Quân. 

Như đã tiên liệu, đoàn giang đỉnh vừa chống trả mãnh liệt vừa tiếp cứu thủy thủ đoàn của chiếc Fom và vừa trực chỉ đến giải cứu quân bạn. Những lúc đó tôi thầm nhủ là tôi phải ghi lại những sự kiện này và những hình ảnh bi hùng có thật của Người Lính Áo Trắng.

Tâm nguyện của tôi tưởng chỉ quẩn quanh trong những dòng sông nhuộm máu ở U-Minh. Nhưng, đến đầu năm 1975, Người Lính Áo Trắng không những chỉ giải cứu đồn Nghĩa-Quân mà Người Lính Áo Trắng còn đón cả mấy Sư-Đoàn thiện chiến và cả vạn vạn đồng bào từ Vùng I và Vùng II Chiến-Thuật đưa về Saigon và Phú-Quốc thì tâm nguyện của tôi trở nên to lớn hơn và khó khăn hơn.

Tôi muốn ghi lại những đóng góp vĩ đại của quân chủng Hải-Quân như là một tài liệu lịch sử.

Tuy nhiên, việc sưu tầm và đúc kết cuốn tài liệu lịch sử này tỷ như hành động hạ thủy một chiến hạm; sau đó, mọi sự việc xảy ra cho chiến hạm đều tùy thuộc vào mức độ xử dụng, tu bổ và bảo trì của tất cả sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ đoàn.

Trong ý niệm đó, tôi mong sẽ nhận được những ý kiến, những dữ kiện, những hình ảnh, để bổ khuyết cho cuốn tài liệu này thêm phần chính xác.

Và lần tái bản này đã có vài bổ khuyết.

Tôi xin được minh xác, cuốn tài liệu này chỉ ghi lại trung thực những biến động trong Hải-Quân, hoặc có liên quan đến Hải-Quân, vào khoảng thời gian giữa tháng 3 năm 1975 cho đến khi Hạm-Đội Hải-Quân V.N.C.H. đến Subic Bay mà thôi.

Phần phụ lục quan trọng là những bài viết giá trị của chính những sĩ quan Hải-Quân như: Cựu Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Ngọc Quỳnh, cựu Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh, cựu Phó-Đề-Đốc Đặng Cao Thăng, cựu Hải-Quân Trung Úy Trần Trúc Việt và  một sĩ quan thuộc vào thế hệ Hải-Quân thứ hai: Cựu Hải-Quân Đại-Úy Hoàng Quốc Tuấn, xuất thân từ Trường sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ (Officer Candidate School – OCS) tại Newport, Rhode Island.

Tôi nghĩ lịch sử là những sự kiện có thật, hãy để những sự việc đó tự nói lên từng trạng huống của mỗi giai đoạn. Muốn thực hiện được điều đó và cũng để giữ mức độ khách quan và vô tư của ngòi bút, tôi tránh xen vào cuốn tài liệu này những suy luận, những nhận định, những bình phẩm của bất cứ một cá nhân nào – và ngay cả của chính tôi.

Những năm học trung học, học Việt-Sử và Thế-Giới-Sử, nếu tôi nhớ không lầm, người viết sử không bao giờ thóa mạ, lên án gắt gao hay lách vào đời tư của bất cứ một nhân vật lịch sử nào cả. Gần đây, trong khi tra cứu một số tài liệu lịch sử Hải-Quân Hoa-Kỳ, tôi cũng chưa hề thấy một ngòi bút nào “nặng tay” với những nhân vật liên đới trách nhiệm trong cuộc chiến tranh Việt-Nam – dù nhân vật ấy là người Việt hay người Mỹ. Tôi nhận thấy lối viết này thích hợp với cá tính của tôi.

Vì vậy, chỉ vị nào đọc cuốn tài liệu này với ý tưởng tìm hiểu Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa theo tinh thần sử lược thì xin tiếp tục đọc những trang kế tiếp; vì nơi đây, chỉ có những sự kiện lịch sử hiển hiện chứ không hề có sự đả kích hay tâng bốc bất cứ một nhân vật nào cả.

Cuốn tài liệu này là sự đóng góp tích cực và lớn lao của Đại-Gia-Đình Hải-Quân. Tôi có ý nghĩ để tên tác giả là “Nhóm Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa”. Nhưng nghĩ lại, tôi nhận thấy, dù sao đi nữa, cuốn tài liệu này cũng còn nhiều khiếm khuyết; nếu “Nhóm Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa” viết, có thể không có những khiếm khuyết đó. Vậy, tôi là người trực tiếp thực hiện những cuộc phỏng vấn, tham khảo tài liệu và đúc kết mọi chi tiết, xin để cá nhân tôi chịu trách nhiệm.

Trong cuốn sách này, độc giả sẽ thấy có những vị tôi nêu tên, có nhiều vị tôi viết tên tắt hoặc chỉ nêu chức vụ. Xin bạn đọc hiểu cho rằng tôi phải tuyệt đối tôn trọng yêu cầu của những “nhân chứng sống”, và cũng để tránh liên lụy cho những vị còn kẹt lại Việt-Nam.
Trước khi dừng bút, xin độc giả cho phép tôi được đặc biệt cảm ơn hai người.

Một người đã gợi ý và khuyến khích tôi thực hiện tài liệu này. Xin nhớ ơn Cố Trung Tướng Vĩnh Lộc.

Một người đã làm việc rất vất vả để tôi có đủ phương tiện giàn trải ý tưởng của mình trên giấy. Xin biết ơn cựu Hải-Quân Trung-Tá Hồ Quang Minh.

Trân trọng,
Điệp-Mỹ-Linh


__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại Sài Gòn

$
0
0


From:

Thấy thương quá! Muốn khóc...

TẠI SAO CHÚNG NÓ KHỐN NẠN NHƯ VẬY?
 BÁN NƯỚC NGƯỜI TA RỒI  THẢN NHIÊN CƯỜI TRÊN XƯƠNG MÁU CỦA CHÚNG TA , VẬY CHỚ AI CHƯA ĐỤNG VÀO CHÚNG NÓ THÌ CHÚNG NÓ DỰNG ĐỨNG LÊN LA BẢI HOẢI  MUỐN GIẾT NGƯỜI TA ....
 



Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại Sài Gòn
Những chiến sĩ Nhảy Dù vào giờ thứ 25 trên đường phố Sài gòn
Không bao giờ chúng ta có thể ngờ được có ngày 30/04/1975 và không bao giờ, trước đó, chúng ta nghĩ rằng ngày 30/04/1975 chính là ngày vành khăn tang phủ lên đầu Bà Mẹ Việt Nam.

Đơn vị chúng tôi đang đùa giỡn với địch quân tại vùng ngoại ô Sài Gòn, khu xa lộ Đại Hàn nối liền từ ngã tư Quân Vận (Trung tâm Huấn luyện Quang Trung) đến xa cảng Phú Lâm. Được lệnh nguyên Tiểu Đoàn phải về phòng thủ dọc theo Quốc lộ 1 từ ngã tư Quân Vận đến ngã ba Bà Quẹo trong đêm 27/4/1975.


Thưa quý vị độc giả vì vài lý do riêng mà lý do chính vẫn là anh em đồng ngũ của chúng tôi, một số đông vẫn còn trong vòng kềm tỏa của bọn Cộng sản khát máu, vậy những tên tuổi trong cốt truyện này chỉ là tên giả cũng như tên của đơn vị chúng tôi xin được tạm quên, trong câu chuyện đầy đau thương thống khổ, cười ra, mà nước mắt lại là máu huyết của chúng tôi, vì chúng tôi tan hàng trong lúc địch quân đang bạt vía kinh hồn không hiểu chúng tôi đang ở đâu, không hiểu chúng tôi còn hay rã, nên bước chân vào Sài Gòn mà vẫn còn run rẫy. Nếu không được bọn ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản chỉ lối đưa đường thì chúng cũng chưa có hoàn hồn khi bước chân vào Dinh Độc Lập. 

Và sau đó nhân loại đâu có ngờ được những sự dã man, tắm máu khô, khủng khiếp đang bao trùm lên dân tộc tôi, những đơn vị Mũ Đỏ, những đứa con chỉ biết sống chết cho vinh quang của đất nước, chết để bảo vệ Quê hương “Quê Mẹ Việt Nam” đành phải gạt nước mắt tan hàng trong ngỡ ngàng, trong đau đớn tột cùng, trong tiếng cười khan pha lẫn máu bạn bè, đồng đội.


Với 15 Tiểu đoàn tác chiến (chắc có người lấy làm lạ): Vâng đúng như vậy, 15 Tiểu đoàn tác chiến, 4 Tiểu đoàn pháo binh, 4 Đại đội Trinh sát, 15 Đại đội đa năng với kỷ luật cao độ, tác phong đứng đắn, lúc nào cũng hiên ngang đùa giỡn với tử thần, và châm ngôn “Thân dân, bảo vệ dân và giúp đỡ dân” được chúng tôi ghi khắc trong tâm hòa khẩu hiệu “CỐ GẮNG” để hoàn thành mọi vấn đề khó khăn trầm trọng.


Chúng tôi không sao quên được những cánh tay gầy guộc của bà mẹ Trị Thiên đã ôm chúng tôi run run dâng lệ vì sung sướng khi thấy chúng tôi trở lại Trị Thiên năm 1972. Các bà mẹ, các em gái đón chúng tôi tại đầu đường, không do chính quyền tổ chức mà do tình cảm của con người đối với con người: của các bà mẹ, của các em gái đón những đứa con yêu, những người anh can trường mang thân mình để bảo vệ đồng bào, quê hương đọa đầy. Ôi những em bé Huế dưới làn mưa đạn của quân thù đã đem đến cho chúng tôi những nắm cơm sấy trong biến cố Mậu Thân. Những vòng hoa chiến thắng của nữ sinh Quảng Ngãi đã choàng cho chúng tôi trong dịp Xuân 1966 sau Liên Kết 81, miền Trung đậm đà, miền Nam thương yêu, ở bất cứ chiến trường nào chúng tôi cũng tôn trọng kỷ luật của Quân đội và kỷ luật sắt thép của Binh chủng là phải tôn trọng dân được dân mến, dân thương thì chiến thắng quân thù chỉ còn là bước chân nhẹ nhàng để đón nhận vinh quang. Tại những vùng tiền tuyến, đi đâu dân cũng mến, dân cũng thương đoàn quân Mũ Đỏ.


Tại chiến trường cam go Quy Nhơn, Bình Định đoàn quân nào ngoại quốc tới đó cũng khựng lại, nhưng đoàn quân Mũ Đỏ dễ dàng lấn chiếm các mật khu mà chúng tự cho là đời đời bền vững. Tại miền Đông chiến khu D, tam giác sắt trở thành những vùng quang đãng, thanh bình sau khi những cánh Thiên Thần lướt qua. Tại miền Tây Cầu Kè đến U Minh, Đông Tháp, nơi nào ngập lụt, nơi nào khó khăn nhất, chúng tôi ít nhất cũng qua đó một lần trong vinh quang.


Vậy mà năm 1975, chúng tôi phải tan hàng, phải tù tội phải chịu đựng mọi sự trả thù thấp hèn, đón mạt dã man mà loài người không tưởng tượng nổi. Chúng tôi không một oán hờn với những người lầm đường lạc lối, nhưng nay đã thức tỉnh. Chúng tôi không một ngạo mạn với những bạn bè cùng chung chí hướng, những ân tình của dân chúng đã vun đắp chúng tôi thành một ý chí sắt đá nguyện đem tấm thân còn lại trở về quê hương. 

Xin hãy đừng vơ đũa cả nắm, xin hãy dành một ý niệm tốt cho những thanh niên miền Nam Việt Nam, những người đã dâng hiến cả cuộc đời thanh xuân của mình cho Quốc gia Dân tộc, quyết không bao giờ lừa dối, man trá được. Xin hãy dùng tất cả mánh lới thủ đoạn, dù lớn hay nhỏ, dù hời hợt hay sâu xa cho quân thù. Xin linh hồn bạn bè hãy soi sáng cho đường đi lối về của những người con yêu của đất nước, xin hãy bỏ bớt những trò múa may quay cuồng, để gồm thâu tình nghĩa gần lại với quê hương dân tộc, xin hãy lấy tâm gan cộng tác với nhau, xin đừng dèm pha xấu xa, con đường trở về Thiên nan, vạn nan, đầy dẫy những chướng ngại của quân thù. Xin đừng giúp quân thù cài thêm chướng ngại cho chiến hữu, bạn bè.
*
* *

Đúng 10 giờ sáng ngày 30/04/1975, tôi nhận được lệnh rút lui, lúc đó Đại đội của tôi là tuyến đầu của Tiểu đoàn tại vùng ngã tư Quân vận đến cầu Tham Lương cách hãng dệt Vinatexco 300 mét về hướng Hóc Môn. Cùng lúc đó đứa con đầu đàn của tôi báo cáo đoàn xe địch đang di chuyển vào phòng tuyến xin lệnh tôi. Tôi xin lệnh trên, được lệnh vắn tắt (“Tiêu diệt xong rút về Lăng Cha Cả chờ lệnh kế tiếp. Không thu chiến lợi phẩm, bảo toàn lực lượng”). Tôi cũng xin một nói thêm Tiểu đoàn chúng tôi rải quân như sau: Đại đội thứ 4 của tôi từ ngã tư Quân Vận đến cầu Tham Lương, Đại đội thứ 3 khu Bình Thới đến ngã ba Bà Quẹo, Đại đội thứ 2 từ ngã ba Bà Quẹo đến ngã tư Bảy Hiền, Đại đội thứ 1 từ ngã tư Bảy Hiền đến Lăng Cha Cả và Trương Minh Ký.


Tôi cho lệnh chi tiết cho Chuẩn úy Nhiên, Trung đội Trưởng Trung đội 1 của tôi, Nhiên nhanh nhẹn trả lời “Hiểu và thi hành.”


Đoàn xe địch dẫn đầu bằng 3 chiếc PT 76 thư thả tiến vào Sài Gòn không gặp một sức kháng cự nào, qua ngã tư Quân Vận, qua Khu gia binh của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Tôi đưa ống nhòm theo dõi từng vết xích của Chiến xa dẫn đầu đang nghiền nát Quê hương tôi. Hai cột khói nâng bổng hai chiến xa dẫn đầu kèm theo tiếng nổ của mìn chống chiến xa, một loạt hỏa tiễn M72 phóng ra, 3 chiến xa dẫn đầu tan nát, kèm theo 10 xe vận tải chở đầy Bộ đội Bắc việt bị lật nghiêng. Đoàn xe sau đụng nhau dồn cục gây thêm một số thương vong cho chúng. Những Cán Ngố chỉa súng bắn loạn xạ, nhưng chúng không thấy chúng tôi. Chúng tôi rút về tới ngã ba Bà Quẹo, một giờ vất vả và vô sự. Đúng lúc đó địch quân cũng đã hoàn hồn và tiếp tục di chuyển, lần này chúng thận trọng di chuyển thật chậm, vừa đi vừa bắn những chỗ chúng khả nghi. Đơn vị chúng tôi tiếp tục di chuyển về ngã tư Bảy Hiền.


Một số phóng viên ngoại quốc bu lấy tôi hỏi đủ chuyện. Lúc đầu tôi trả lời bằng tiếng của họ “Tôi không biết”, nhưng sau đó một phóng viên ngoại quốc hỏi tôi bằng tiếng Việt:


- Anh thuộc đơn vị nào?

- Nhảy Dù

- Tôi muốn hỏi anh thuộc Tiểu Đoàn nào?

- Anh cứ biết một Tiểu Đoàn Nhảy Dù đủ rồi.


Thấy tôi không muốn trả lời họ không hỏi nữa. Họ thi nhau chụp hình đơn vị đang rút của tôi rồi bỏ đi về hướng tiền quân.


Nhảy Dù! Không hiểu ai đặt ra cái luật khắt khe, “Không được tự ý trả lời phóng viên dù là tên của mình”. Quý vị thấy những đơn vị bạn có những tên thật đẹp như Cọp Vằn, Hắc Báo, Kình Ngư... Nhưng Nhảy Dù có những tên vô cùng đẹp như: Con Gà tử mị, Sư Tử mắc nước, Con Cù lần v.v.. Còn tên các Tiểu Đoàn Trưởng như: Trưởng ấp, Xã trưởng, Bồi bàn, Cao bồi v.v... Đại Đội Trưởng: T.. sốt rét, N. Lai H... ghẻ v.v... Có một Đại Đội Trưởng may mắn hơn có cái tên đẹp Út Bạch Lan. Thường những tên như vậy cấp dưới biết nhưng không ai dám gọi cả.


Mặc dầu địch quân tiến thật chậm, và thận trọng nhưng chúng tôi nhất định không tha, nếu chúng nắm vững tình hình tiến chậm hai giờ nữa để đơn vị chúng tôi rút lui xong, thì chắc chắn chúng sẽ vào Dinh Độc Lập như vào chổ không người. Khi tới gần Vinatexco, 2 Thiết giáp đi đầu bắn xả vào những “Lô cốt” trong phi trường, nhưng các lô cốt này đã bỏ trống, đơn vị phòng thủ phi trường đã bỏ ngõ từ lúc trưa ngày 29/04/75. Các loại súng trên thiết giáp thi nhau nhả đạn vào những chỗ chúng nghi ngờ. Chúng đâu có ngờ một pháo đội ngụy trang kín đáo tại vị trí vãng lai của TĐ 1 PB đang sẵn sàng tiêu diệt chúng, 4 viên đạn chống chiến xa ra khỏi nòng súng 105 ly các pháo thủ đầy kinh nghiệm chiến trường rang muối thêm 2 con Cua sắt và 2 vận tải. Lần này chúng có kinh nghiệm, chúng không bị dồn cục, nên không bị tổn thất thêm, nhưng đau cho chúng là chúng không biết từ đâu để bắn lại trả thù. Xong nhiệm vụ các pháo thủ Mũ Đỏ cũng rút lui sau khi phá hủy súng.


Đối với chúng tôi, đánh giặc phải tiêu diệt chúng xong, chiếm mục tiêu, thu chiến lợi phẩm thì đơn vị mới có tổn thất, còn diễn trò như hôm nay, gây cho chúng tổn thất rồi mình chạy làng, thì không bao giờ anh em chúng tôi phải hy sinh. Nhưng trò đùa này của chúng tôi cũng làm chúng điên đầu nhức óc, mỗi lần như vậy, chúng lại phải điều quân lại, tổ chức lại đội hình thật lâu chúng mới dám dè dặt tiến quân tiếp. Chúng bắn tứ tung, mất tinh thần thấy rõ, chính vì vậy mà những đơn vị của chúng ta trước đây mỗi khi đi hành quân bảo vệ đồng bào, nếu không cẩn thận dễ bị tổn thất, vì địch không đương đầu chống lại, chúng vừa đánh vừa rút, hoặc phải đương đầu với ta là vì chúng không còn ngõ để chạy nữa. Nhất là những vùng rừng núi rộng rãi chỗ cho chúng chạy thì: Kỹ thuật tác chiến yếu, tinh thần suy sụp là đơn vị hành quân rất dễ bị nướng lắm.


Từ ngã 3 Bà Quẹo dân chúng còn lại, hối hả chạy dọc theo đường hướng về phía Sài Gòn, sự sợ hãi, hốt hoảng lộ ra trên nét mặt, không còn một nụ cười trên môi các thiếu nữ, không còn tiếng nô đùa trên miệng các em bé vui tươi. Nhìn những khuôn mặt ngây thơ đầy u uất, lòng tôi se lại trong đớn đau nát da, đứt ruột. Đồng bào tôi đây, đang cần sự che chở của Quân đội, của chúng tôi, nhưng chúng tôi lại “Khiếp nhược” rút lui! Không thể được, việc trước mắt như cứu lửa, phải bảo vệ đồng bào như một phản ứng tự nhiên. Có bao giờ chúng tôi phải rút lui cay đắng như thế này đâu? Có bao giờ đồng bào nhìn chúng tôi xong lặng lẽ chạy tiếp đâu? Bây giờ giặc đã đến ngõ cụt của Thủ Đô. Những giọt mồ hôi quái ác làm mắt tôi cay cứng lấy tay áo quệt mồ hôi; mặc dù chưa rõ tình hình chung, nhưng tôi biết đây là trận chiến cuối cùng để dân tộc này, quê hương này sẽ đi vào con đường u tối miên man, không một ánh sáng cuối đường hầm.


Chúng tôi cố tình trì hoãn rút lui để đồng bào chúng tôi đi được một khoảng cách xa an toàn, tôi cho lệnh rút lui tiếp tục, đứa con đầu của tôi, trước cổng Hoàng Hoa Thám chậm chạp di chuyển về phía sau đồng bào. Tôi đang từ Trung đội 4 trước Hội đồng xã Tân Sơn Hòa lướt qua Trung đội 3, những anh em chiến hữu của tôi đã xả thân tại khắp các chiến trường đất nước, từng làm quân thù bạt vía kính hồn từ trận nhỏ đến trận lớn. Tôi nhìn vào tận mắt của từng người như cầu van tha thứ cho tôi, “Vì đã cho lệnh họ rút lui trước quân thù”; nhưng những ánh mắt nhìn tôi như oán hờn, như trách móc. Tôi cúi mặt tránh những ánh mắt thân thương, lầm lũi bước đi trên đường Lê Văn Duyệt quen thuộc, trước cổng trại Thạch Văn Thịnh (TĐ II Nhảy Dù) con đường rộng thênh thang, không còn bóng người dân di chuyển, chỉ còn lại chúng tôi và một số phóng viên ngoại quốc. Tới cổng Hoàng Hoa Thám tự nhiên chân tôi chùn lại, tưởng như một khối chì nặng nề níu chân lại.


Đứng lại trong thế nghiêm tự nhiên, cay đắng nhìn cổng trại thân yêu, cách đây 10 năm tôi vui mừng rạng rỡ bước qua để chính thức trở thành một Quân nhân Mũ Đỏ, chiếc cổng vô tri này nhưng ma lực của nó đã có sức hút vô cùng mạnh mẽ đối với biết bao thanh niên anh hùng ở lứa tuổi đôi mươi. Hình ảnh chiếc cổng hoang tàn với hàng rào Concertina ngổn ngang như hoang phế lâu ngày, nhìn sâu vào trong trại, tôi thấy thấp thoáng những bạn bè, chiến hữu chúng tôi đang vội vã di chuyển trong đó. Tôi không hiểu tôi đang là một thứ người gì, nhưng tôi đang đứng sững nghiêm chỉnh trước chiếc cổng như đại diện cho đơn vị, đơn vị tôi tôn thờ như thánh thần trong tâm khảm. Những ngày tung hoành ngang dọc nào có mơ ước gì hơn là tiêu diệt kẻ thù để đồng bào được yên ổn làm ăn.


Tôi đưa tay chào chiếc cổng thân yêu, các phóng viên muốn thu hình này nhưng quá muộn, tôi lững thững bước đi như xác không hồn. Nước mắt tôi dàn dụa xen lẫn mồ hôi cay đắng, cơn nấc nghẹn ngào làm tôi nghẹt thở. Giã từ Hoàng Hoa Thám, giã từ đơn vị thân yêu, đơn vị đã được chúng tôi dâng trọn cuộc đời thanh niên cho Hoàng Hoa Thám, dâng trọn cho đoàn quân Mũ Đỏ.


Bây giờ với cái thân tàn tạ, hèn nhát này, dẫn đơn vị rút lui, dù theo lệnh trên, nhưng trước sức tấn công ào ạt của địch quân vào Thủ Đô. Ôi những chiến tích nức lòng dân như: A Châu, A Lưới, Tân Cảnh, Quảng Ngãi, Chương Thiện, Tây Ninh, Kiến Phong, Bình Long, Kom Tum, Quảng Trị v.v... có chăng chỉ còn là một cơn gió thoảng qua trong cơn nóng nung lửa của tâm hồn. Sự dằn vặt tột cùng của sự tháo lui. Ôi cấp Chỉ huy của tôi ơi! Ôi bạn bè của tôi ơi! Ôi những chiến hữu Mũ Đỏ kiêu hùng của tôi ơi! Chúng ta đã chạy thật hay sao đây? Đồng bào của chúng ta kia! Quê hương của chúng ta đó! Doanh trại của chúng ta đây! Hồn thiêng của bạn bè ẩn hiện đâu đây có ai cảm thông nỗi thống khổ này? Những khuôn mặt của Hiền, Được, Khiêm, Nhượng, Tống, Hùng, Hòa và hàng ngàn các Chiến hữu Mũ Đỏ đã ra đi giận dữ nhìn tôi.

Tôi nhắm mắt bước đi theo đoàn quân chậm chạp rút lui như tử tội nặng nề bước chân lên bực thang máy chém.

Tôi cố gắng im lặng để thanh thản bước đi nhưng hình ảnh anh em bạn bè, họ là những Chiến sĩ vô danh cứ soi mói nhìn tôi như oán trách, như căm hờn. Bảy điều tâm niệm khi mới bước chân vào quân ngũ tôi vẫn còn thuộc lòng từng câu từng chữ:
Luôn nêu cao danh dự của Quân Đội
.........

Phải thân dân bảo vệ dân và giúp đỡ dân.

Nhưng giờ đây lúc này không phải một điều nào chúng tôi cũng giữ được, thế hệ sau sẽ nguyền rủa. Chúng tôi không phủ nhận, xin nhận tất cả tội lỗi nhưng phải làm gì khác hơn đây. Từ ngày bước chân vào Quân ngũ là đã sẵn sàng chấp nhận tấm Poncho gói ghém thân mình, hay vinh hạnh hơn nữa là “lá Quốc kỳ phủ lên thân”, sống chết chẳng qua là cuộc đổi đời, quan niệm như vậy nên sự sống, sự chết đối với những người Mũ Đỏ thật cụ thể và nhiệm vụ Quân đội, nhân dân giao phó mới đáng kể, nhưng bây giờ nhiệm vụ của Quân đội giao phó là rút lui hay sao đây? Lằn tên nào cản được bước chân chúng tôi, bom đạn nào làm chùn chân chúng tôi, quân thù nào ngang cấp số với đơn vị dám đương đầu. Thân xác chúng tôi ai mà chẳng có vết tích của chiến tranh để lại trên thân thể. Thương xót cho bạn bè, cho đồng bào, cho dân tộc không biết sẽ phải đi về đâu đây?


- Thưa Đích Thân “Ba” vừa đánh cháy thêm hai Chiến xa nữa. Tiếng của Hòa người mang máy cho tôi. (Hiện nay Hòa đang ở Úc Châu.)

- Ở đâu? Tôi hỏi vắn tắt.

- Ngã ba Bà Quẹo.


Tôi vừa băng qua Đại đội 1 của đơn vị, được lệnh trực chỉ theo đường Trương Minh Giảng về hướng Sài Gòn đến ngã 3 Trương Tấn Bửu chờ lệnh.

Dọc theo bên đường dân chúng ngơ ngác nhìn chúng tôi, người chạy theo lên hướng Sài Gòn, người ngơ ngác đứng nhìn. Tôi vừa dừng chân tại Trương Tấn Bửu, trước bót Cảnh sát.

- “Hai” đánh cháy 1 Chiến xa và 3 xe vận tải tại ngã tư Bảy Hiền, “Ba” đã qua Lăng Cha Cả, cùng Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn. “Một” còn nằm tại chỗ.


Tôi im lặng nghe Hòa báo cáo.

- Thưa Đích Thân, “Hai” đã qua Lăng Cha Cả.

Xác xe tăng T-54 của Việt Cộng bị bắn cháy trên đường Trương Minh Ký (gần Lăng Cha Cả) vào ngày 30-4-1975.

Cùng lúc đó tôi nhận được lệnh kiếm chỗ trống trải để tập họp cả Tiểu Đoàn. Trung đội 4 của Hạnh cho biết có sân trường Đại Học Vạn Hạnh có thể tập họp được. Năm phút sau Hạnh báo cáo có một xe Jeep mang Huy hiệu Biệt Động Quân, nhưng do bọn mang băng đỏ bên tay trái lái. Tôi cho lệnh chận xe đó lại khai thác tin tức.

Trung đội 4 báo cáo xe đó là của một Trung tá BĐQ nhà gần đó bị bọn mang băng đỏ (Sau này đồng bào gọi là bọn 30-4 ) cướp xử dụng, trên xe có 6 tên đa số là Sinh viên của Đại học Vạn Hạnh. Chúng xử dụng súng của Nhân dân tự vệ.

Đồng bào thấy chúng tôi mồ hôi nhễ nhãi, người tiếp tế nước đá lạnh, người mang ra bình trà, có người mang cả đồ ăn. Lúc đó mặc dầu khát dữ dội nhưng cầm ly nước lạnh, không sao tôi có thể nuốt trôi được; Tôi đang căm tức bọn băng đỏ, bọn đê tiện phản bội. Ý tưởng thịt bọn chúng lẩn quẩn trong đầu tôi, nhưng tôi nghĩ sau này có thể bị xuyên tạc và dân chúng sẽ hiểu lầm đơn vị, hiểu lầm Binh chủng. Một điều chúng tôi tối kỵ, làm gì cũng được, nhưng nếu danh dự Binh chủng bị xúc phạm, dù có chiến thắng hay lợi lộc mấy đi chăng nữa, chúng tôi cũng phải suy xét lại. Tôi nhớ Tết Mậu Thân, đơn vị chúng tôi trên đường về giải cứu cố đô Huế, Tiểu Đoàn của tôi bị Tiểu đoàn VC bố trí trên Cổ Thành Huế chận lại; trong khi chúng tôi ở dưới thấp lại còn vướng một dẫy lạch sâu trồng sen chung quanh Cổ Thành này


Thành cao không thể leo lên dễ dàng, khó khăn không thể nào vượt qua, nhưng vị Chỉ huy của chúng tôi cầm chiếc “nón đỏ” và nói: “Đây là lần đầu tiên nón đỏ này bị ô nhục.” Đơn vị nghe thấy máu nóng bừng bừng ai cũng tưởng như mình thêm cánh, thêm sức. Không đầy 30 phút sau sức lực huyền bí dũng mãnh của tinh thần bảo vệ danh dự đơn vị bùng lên, những Thiên Thần sát Sộng đã hiên ngang bay qua từng chốt của địch diệt trọn phòng tuyến chính để vào Thành nội Huế. Chính nhờ vậy chúng tôi tiếp cứu được Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I BB trong trại Mang Cá Huế.


Cùng lúc đó Hòa báo cáo “1 vừa đánh cháy một chiến xa tại Lăng Cha Cả và 2 xe vận tải”. Vào khu Đại học Vạn Hạnh, tôi cho lệnh đứa con thứ tư của tôi đóng chốt giữ an ninh chung quanh khu Đại học và từng đơn vị vào sân Đại học Vạn Hạnh tập họp chờ lệnh. Tôi thấy bọn băng đỏ lố nhố trong khuôn viên ĐHVH, chúng có vũ khí nhưng không một tên nào dám nhố nhăng, vì sau chúng có anh em của tôi kềm súng sẵn sàng hỏi tội chúng. Ý tưởng phải thanh toán hết bọn này lại hiện ra trong trí. Nhưng vị anh cả của chúng tôi im lặng, lầm lì quan sát, tôi thấy môi anh mím chặt, cặp mắt giận dữ nhìn chúng nhưng chưa một phản ứng, thì một tên mặc áo tu hành Phật Giáo tay cầm loa đưa ngang miệng dõng dạc trong câu nói điên rồ: “Đất nước đã Thống nhất, yêu cầu các anh em Nhảy Dù hãy buông súng trở về với Cách mạng, cách mạng sẽ khoan hồng cho anh em”.


Phản ứng tự nhiên, tôi rút súng chĩa về phía hắn, hắn thụt lùi vào trong hành lang, và hàng trăm cây súng sẵn sàng nhả đạn. Nhìn lên những anh em trên cao ốc, tôi thấy anh em đều chĩa súng sẵn sàng chờ lệnh. Tôi biết rằng nếu tôi siết cò súng là súng nổ rền trời ngay lập tức, để đưa bọn Cộng con về với thiên đường Cộng sản. Nhưng thấy chúng cụp đuôi khiếp vía chạy trốn tôi cho súng vào bao, thầm nghĩ may mắn cho chúng gặp tôi, chứ gặp đơn vị khác thì hẳn là ĐHVH này chắc chắn phải trở thành ĐH “Bất Hạnh” ngay lập tức...


Anh cả của chúng tôi im lặng, đứng sững như trời trồng, sau đó anh cho lệnh Đại đội 1 tìm bãi đất trống trải để tập họp Tiểu Đoàn, và cả đơn vị rút ra khỏi khu ĐHVH. Đơn vị tôi là đơn vị sau cùng ra khỏi khu Vô hạnh này. Tôi không thể hiểu nổi ngay tại nơi huấn luyện đào tạo ra lớp người Tổ Quốc mong cho mai sau lại có đuôi chồn đỏ như thế này hay sao? Thua địch quân không đau, buông súng không tủi bằng phải thua ngay những người mình hằng quý mến. Người tình lang mất người yêu chắc cũng chỉ đau đớn thấm thía như chúng tôi lúc này.


Quê Hương ơi! Tổ Quốc ơi! Đồng bào ơi! Lỗi tại ai đây? Tại chúng tôi hèn nhát? Tại chỉ huy tồi? Tại vận nước suy đồi? Hay nó đã ruỗng ra từ bên trong...! Chúng tôi chỉ còn là cái vỏ mỏng bên ngoài làm sao chống đỡ nổi đây? Đại đội tôi đi sau cùng và vừa ra khỏi khu phản bội được 3 Trung đội, Trung đội sau cùng và tôi rút ra khỏi khu Vô Hạnh mà phải đi giật lùi như trong vùng địch, cẩn tắc biết đâu chúng giở trò cắn trộm. Tâm hồn tôi chùng xuống xen lẫn cơn giận vô bờ. Bọn chồn đỏ lại ló đầu ra, tôi định cho đơn vị khai hỏa, vì cơn giận trong tôi lại bừng lên, nhưng cùng lúc đó danh dự của đơn vị trồi lên lấn át, tôi cho súng vào bao cho lệnh đơn vị tiếp tục rút lui ra vùng tập trung mới.


May cho bọn chúng nếu không nghĩ đến danh dự có thể sẽ bị hiểu lầm, bị nguyền rủa thì chắc chắn chúng phải đền tội. Nếu không thì tôi, phải chính tôi, vì căm hận chắc chắn không thù hằn, nhưng vì uất ức trước sự phản bội phũ phàng, một phút không kềm hãm được sự nóng giận, tôi chỉ cần nhẹ nhàng vẫy tay thôi bọn chúng sẽ phải theo Cáo Hồ của chúng. Ôi danh dự của đơn vị sao cao siêu quá, sao dũng mãnh quá, chế ngự được tất cả. Tôi không hiểu bọn chúng có biết rằng chúng vừa thoát chết hay không? Chúng có hiểu rằng nếu danh dự của đơn vị không chế ngự được chúng tôi thì hậu quả sẽ đến với chúng như thế nào?! Những dòng chữ này chắc chắn sẽ được một hay nhiều tên trong bọn chúng tại chốn Vô Hạnh hôm đó đọc được, để chúng hiểu rằng hôm đó không may súng nổ: Chính là vì chúng đã không khôn ngoan, đã phản bội trắng trợn, đã ngoại tình đê tiện hèn hạ trước mặt người yêu thương quý mến mình.


Bước ra khỏi khu đê hèn, hai Trung đội Trưởng của tôi có ý trách móc tại sao tôi không giết bọn chúng. Tôi im lặng, tôi muốn anh em giải bày để vơi đi niềm uẩn ức của những anh em đang bị phản bội trắng trợn đê hèn. Bọn vô lương tâm đó ngày nay không hiểu chúng có còn được như Trịnh Công Sơn hay đang lần mò trong những trại giam cầm cho đáng đời bọn xảo trá gian manh.


Vùng tập họp mới của chúng tôi ngay tại ngã tư Yên Đổ và Trương Minh Giảng. Chúng tôi vừa vào hàng ngũ, đơn vị nghiêm chỉnh trình diện anh cả của đơn vị.

Huynh Trưởng của đơn vị gương mặt thểu não nói trong nghẹn ngào. Tôi có cảm tưởng như tiếng nói của anh bị đứt đoạn nhiều lần vì tiếng nấc đau thương: “Tôi xin chào tạm biệt các anh em. Xin báo cho các anh em biết chúng ta đã nhận được lệnh buông súng đầu hàng từ cấp chỉ huy tối cao của chúng ta. Cấp chỉ huy trực tiếp của chúng ta hoàn toàn mất l/l từ ngày hôm qua. Nhưng chúng ta không thể đầu hàng chúng được, vì danh dự của đơn vị tôi điều động anh em đến đây để bảo với anh em một lệnh cuối cùng: Chúng ta chào tạm biệt nhau tại đây ai về nhà nấy; tất cả Quân trang, Quân dụng tùy anh em định liệu; quyền Chỉ huy của tôi đến đây đã chấm dứt.”

Cả đơn vị im lặng không một tiếng xì xào bàn tán.


Chúng tôi lặng người trong ngỡ ngàng tột độ, những lời lẽ thiếu mạch lạc của vị huynh trưởng phát ra từ xúc động. Tiếng nói của anh chấm dứt sau 5 phút đơn vị vẫn đứng im, từ trên xuống dưới không ai muốn xa nhau, không ai muốn tan hàng. Cái im lặng xa vắng, cái im lặng khủng khiếp. Tôi cũng đã biết giờ phút này phải đến, nhưng không ngờ nó đến trong bẽ bàng thế này! Nhìn hàng quân oai hùng, súng đạn còn đủ dùng, mặt mũi âu sầu. Cặp mắt mọi người đỏ hoe, tất cả đều gục mặt như mặc niệm bạn bè, mặc niệm đơn vị. Cơn đau đớn ê chề xâm chiếm dần dần như làn hơi thổi vào chiếc bong bóng tới độ không chịu được phải phát nổ. Sự phản bội từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài như cơn lốc bạt ngàn tạt vào mặt chúng tôi, cả hàng quân đang im lặng; vị huynh trưởng vẫn còn đứng đó, anh đang cúi mặt chận cơn đau đại nạn.


Tôi biết hàng ngày anh ăn nói rất văn hoa, nhưng hôm nay làm sao lời anh cộc lốc. Anh còn muốn nói nhiều, có lẽ anh còn muốn nói thật to, gào thét thật lớn, để một lần, một lần thôi rồi không bao giờ được tâm sự nữa. Thình lình Trâm một Trung đội Trưởng của tôi, nước mắt dàn dụa nhảy ra ngoài hàng quân. Trâm dơ cao trái lựu đạn quát to: “Xin các vị huynh trưởng kính mến của tôi hãy ra về. Các anh em của tôi hãy tan hàng, để một mình Trâm ở lại thôi. Tôi đã thề không đội trời chung với bọn vô thần, chúng vào đây thì tôi phải đi.” Trâm vừa nói xong khoảng 10 anh em vừa bước tới chỗ Trâm vừa nói: “Để tụi tao (tụi em) chơi chung với. Chúng ta không đầu hàng và cũng không tan hàng. Nhảy Dù chỉ có tiến không có lùi.”


Hoàng Đại đội Trưởng đại đội thứ nhất la lớn:

- Để tao chơi chung với tụi bay.


Vị huynh trưởng cũng chạy lại chỗ Trâm. Tiếng Trâm sang sảng nhưng nghẹn ngào đứt quãng:

- Không được Đích Thân còn nhiều việc phải lo, còn nhiều việc phải làm, nhất là gia đình của Đích Thân.

- Ai cũng có gia đình tao chỉ biết có Gia Đình Mũ Đỏ, Gia Đình của Mũ Đỏ là gia đình của chính tao.


Một số anh em khác từ từ rời bỏ hàng ngũ, súng đạn, Quân phục vứt ngổn ngang. Nhất là những anh em lớn tuổi, từ từ rời bỏ bãi tập họp mỗi người một phương, tôi không biết họ có mang theo vũ khí hay không, hay bỏ lại những gì? Còn lại từng tốp một ôm nhau nói chuyện. Tôi không biết họ đang nói gì nhưng nhìn khuôn mặt ai ai cũng chứa đựng đầy uất hận hiện rõ ràng trên khóe mắt đỏ ngầu rực lửa. Trên bãi súng đạn, ba lô, nón sắt nằm ngỗn ngang và trãi dọc theo bốn hướng ngả tư. Con phố hiền hòa của Đô thành nay lại chứng kiến cảnh tan hàng của một đơn vị. Tôi chắc rằng đây là một đơn vị lớn nhất và là đơn vị sau cùng của Biệt Khu Thủ Đô giã từ vũ khí, đi theo mệnh lệnh của dân tộc. Đơn vị đã tan hàng có trật tự và kỷ luật của đơn vị thực sự bãi bỏ sau tiếng nói nghẹn ngào của một Huynh trưởng đơn vị. Tôi quyết định phải khuyên Trâm và anh em chúng tôi đang bu lại quanh Trâm. Tôi linh cảm thấy, chậm trễ sẽ xảy ra hậu quả không lường được. Tôi chen vào đám đông và la lớn:


- Chúng ta đàng nào cũng chết, nhưng phải chết cho xứng đáng mới được. Chúng ta hãy l/l với nhau trở về Long Khánh. Lâm Đồng rồi cùng chiến đấu. Trâm đưa trái lựu đạn cho anh.


Trâm đưa trái lựu đạn cho tôi sau một hồi giằng co. Chúng tôi cùng thỏa thuận hãy tan hàng rồi kiếm kế sau. Bất chợt hai tiếng lựu đạn nổ chát chúa ở gần bức tường cuối bãi. Chúng tôi chạy vội lại quan sát. Tổng cộng 11 anh em đã ôm nhau từ giã, mắt người nào cũng mở như gửi lại những thông điệp bất khuất, không đội trời chung với Cộng sản. Trong số 11 anh em cấp bậc lớn nhất là Thiếu úy Trung đội Trưởng, người cấp bậc nhỏ nhất là Binh nhì khinh binh. Không có thì giờ cùng địa điểm để chôn cất họ, chúng tôi chỉ còn biết sắp xếp họ nằm ngay ngắn, cùng nhau nghiêm chỉnh chào họ. Anh em đã tự chọn con đường vinh quang cho mình, tôi thầm khấn nguyện trước mặt anh em: “Chúng tôi cần phải sống, vì chắc chắn chúng tôi vẫn còn phải tranh đấu với bọn quỷ hại nước hại dân”.


Sau này tôi được tin Trâm về Bảo Lộc hoạt động nhưng bị nội phản, bị xử tử tại đó. Hoàng về Xuân Lộc hoạt động cũng bị tử thương, còn tôi lưu lạc khắp nơi, nhất quyết không trình diện bọn chúng, tôi vượt biên bằng đường bộ qua Khe Sanh, Lao Bảo, Hạ Lào. Hỡi các bạn trong Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam; Thưa các bạn Quân Nhân QLVNCH; Bạn bè chúng ta đã chết, một số đang bị đầy đọa cực hình, Quê hương chúng ta còn trong tay bọn quỷ đỏ. Xin các bạn đừng vì xe hơi, nhà cao cửa rộng, ham chơi phù phiếm, mà quên đi những người thân yêu, những Vong Hồn bạn bè đã khuất, những cô nhi tử sĩ đang đón chờ từng giờ từng phút, mong mỏi bước chân nhịp nhàng của quý bạn tiến về Quê hương. Hỡi các bạn thanh niên, lịch sử 4.000 năm văn hiến không lúc nào, không thời đại nào dân tộc chúng ta khiếp vía trước móng vuốt tàn ác của quân thù, không khi nào thanh niên Việt Nam lại đê hèn, quên đi gông cùm đỏ dã man đang siết chặt dân tộc ta. Xin hãy cùng nhau bước lên tiến tới và đừng bao giờ quên bọn quỷ đỏ đang lẩn khuất đâu đây đang ra sức ngăn cản bước chân oanh liệt của chúng ta.


Nghiêm ơi, Trâm ơi, Hoàng ơi, linh hồn các bạn có linh thiêng hãy soi sáng bước chân chúng tôi, máu của các bạn đã chảy, thân xác của các bạn đã nằm xuống, nhưng tấm gương can đảm của các bạn sẽ còn mãi mãi. Trận chiến vừa qua chúng ta tạm lùi, tạm thua giặc. Nhưng chúng ta không đầu hàng giặc, đơn vị chúng ta không buông súng để qui hàng giặc. Tinh thần chúng ta còn đó, chúng ta bỏ nước ra đi bằng áp lực của ma quỷ. Xin hãy hứa cùng nhau “Chúng Ta Sẽ Trở Về.”
Chi Lan
“Viết theo Hùng








__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Sự Hối Hận Muộn Màng

$
0
0



From:

 


Kính chuyển.


Mời bạn đọc một bài viết hay để nhìn lại lịch sử giửa Công sản và Tư bản ...


   Sự Hối Hận Muộn Màng 

Duyên-Lãng Hà Tiến Nht


Trước khi Khmer Đỏ vào Phnom Penh, ngày 12-4-1975, ông Đại Sứ Mỹ tại Cambodia, John Gunther Dean, đưa ra đề nghị mời các giới chức hàng đầu trong Chính Phủ Cộng Hòa Khmer đi tỵ nạn tại Mỹ, nhưng các ông Sirik Matak, Long Boret, và Lon Non , cùng với các thành viên trong Nội Các Lon Non từ chối, mặc dù các ông Long Boret và Sirik Matak đã có tên trong danh sách tử hình “7 Kẻ Phản Bội’ của Khmer Đỏ. Ông Sirik Matak viết thư trả lời ông Đại Sứ Mỹ như sau:


Tôi thành thực cám ơn lá thư của ngài cùng với lời đề nghị đưa tôi đi tị nạn. Rất tiếc, tôi không thể ra đi một cách hèn nhát như thế được. Về phần ngài và đặc biệt về phần quốc gia vĩ đại của ngài, tôi không bao giờ mảy may tin rằng quí vị lại có ý bỏ rơi một dân tộc đã chọn lựa tự do. Quí vị đã từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi chẳng làm gì được. Quí vị rời bỏ chúng tôi và tôi xin cầu mong cho ngài và đất nước của ngài tìm được hạnh phúc dưới bầu trời. Xin ngài ghi nhớ điều này là, nếu tôi có chết ngay lập tức tại đây trên quê hương của tôi mà tôi yêu dấu, thì đó là điều quá tồi tệ, bởi vì tất cả chúng ta đều sinh ra và một ngày nào đó phải chết. Tôi chỉ phạm phải một sai lầm là đã tin vào quí ngài, những người Mỹ. Thưa ngài Đại Sứ, người bạn quí mến của tôi, xin ngài nhận nơi đây tình cảm chân thành và tha thiết của tôi.


Hoàng Thân Sirik Matak (*)

Thủ tướng Cam Bốt Sirik Matak và cả chính phủ của ông Lon Non vì tin vào Mỹ nên mất nước và bị Khmer Đỏ phanh thây. Nhiều người VN cho đến bây giờ vẫn còn trông chờ Mỹ giúp họ đánh đuổi VGCS. Nhân mùa Quốc Hận tưởng niệm ngày 30-4-1975, nhắc lại sự kiện Sirik Matak để học hỏi và tìm hiểu xem người Mỹ thực sự chống cộng sản ra sao thiết nghĩ cũng chẳng phải là chuyện vô bổ. Người viết xin mở một dấu ngoặc để lưu ý bạn đọc. Chữ “người Mỹ” chúng tôi dùng trong bài là để chỉ chính quyền và các tập đoàn tư bản Mỹ chứ không nói nhân dân Hoa Kỳ.

Mỹ và Liên Sô

Tháng 5-1943, quân đội Đồng Minh đã đẩy được quân Đức Quốc Xã ra khỏi Phi Châu. Sau đó một tháng, Đồng Minh đổ bộ lên đảo Sicily, và ngày 3-9 các lực lượng Đồng Minh chiếm toàn bộ nước Ý. Nhưng đột nhiên và bất ngờ, quân Đồng Minh bị buộc phải dừng lại chỉ còn cách biên giới phía Nam nước Đức vài trăm dặm. Guồng máy chiến tranh kinh khủng - danh từ đại tướng Mark Clark thường gọi quân Đồng Minh - tiến lên hướng Bắc xuyên qua Ý kéo dài cuộc chiến đấu mấy tháng trời vô lý không thể tan vỡ được. Trong cuốn sách viết năm 1950 “Calculated Risk”, ông tuyên bố: “Một chiến dịch có thể làm thay đổi lịch sử liên hệ giữa Tây Phương và Nga Sô đã bị mờ dần. Đó là những quyết định từ cấp thượng tầng và vì những lý do ngoài thẩm quyền và hiểu biết của tôi. Không phải theo ý kiến của tôi, mà của một số các chuyên gia cận kề với vấn đề, việc giảm cường độ chiến dịch tại Ý, thay vì tiến quân vào Balkan, là một trong các lầm lỗi chính trị nổi bật của cuộc chiến.” Sự trì hoãn được giải thích là để tập trung quân đánh vào miền Bắc nước Pháp 9 tháng sau đó, thực ra đã cho Liên Sô có thì giờ thanh toán quân đội Đức trong chiến dịch Barbarossa đã bị đánh tơi tả để tiến về phía Tây Âu.

Quyết định rút các sư đoàn tác chiến khỏi mặt trận Ý Đại Lợi ngay lúc họ có thể thọc mũi dùi vào chỗ hiểm yếu của quân Đức đã được hoạch định từ Hội Nghị Đồng Minh ở Quebec năm 1943. Ở đó Churchill muốn từ phía Nam tấn công thẳng vào nước Đức, chiếm Trung Âu và vùng Balkan trước khi các vùng này kịp rơi vào chế độ nô lệ đỏ. Nhưng Churchill đã bị Hoa Kỳ gạt đi. Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng, những đơn vị rút khỏi Ý sẽ được sử dụng để đổ bộ Pháp lần thứ hai. Sau cuộc đổ bộ lên Normandy nước Pháp tháng 6-1944, quân Đồng Minh được đặt dưới quyền chỉ huy của Eisenhower, một vị tướng mà hoạn lộ như diều gặp gió và là chuẩn thành viên của Hội Đồng Liên Lạc Ngoại Giao CFR (Council on Foreign Relations). Ông tướng trận này được cố vấn bởi Bernard Baruch, một nhà tài chánh, cố vấn của các TT Wilson và Roosevelt thời Đệ I và Đệ II Thế Chiến. Hiểu rõ được sự liên hệ này, người ta có thể hiểu được cuộc chiến, và lý do tại sao Đông Âu lại được trao cho Liên Sô.

Tướng Wrangel chỉ huy đoàn quân Bạch Nga ở miền Nam đang chiến thắng bọn Bolsheviks thì được lệnh từ phía Đồng Minh buộc phải rút lui về khu vực Biển Đen và bỏ nước Nga. Nếu từ chốị ông sẽ bị cắt đứt tiếp liệu và quân lính sẽ bị nguy hiểm. Những nhân viên tình báo Đồng Minh phá hủy những máy bay mà ông tự sắm lấy. Tướng Wrangel rơi vào tình trạng bó buộc phải từ bỏ việc giải phóng nước Nga.

Thống chế Kolchak cũng ở vào tình trạng tương tự. Ông lãnh đạo lực lượng chống cộng tại mặt trận phía Đông. Ông cũng bị cắt đứt tiếp tế trong khi đang chiến thắng Hồng Quân Liên Sô.

Trên mặt trận miền Đông, quân Liên Sô được tự do. Sự tiến quân của Nga chạy đua với các lực lượng Tây Âu, mặc dù các lực lượng này, dưới quyền chỉ huy của tướng Eisenhower, bị giữ chân ở nhiều điểm như Prague chẳng hạn. Sự thể đã cho phép Liên Sô đoạt được những vùng mà lực lượng Hoa Kỳ có thể chiếm giữ trước một cách dễ dàng. Tướng Patton cũng như tướng Clark của Đồng Minh đều không tưởng tượng được tại sao các miền Đông Âu lại bị nhường cho quân đội Nga.

Nhưng chuyện bí mật vĩ đại này không thể che giấu được dưới ánh sáng mặt trời. Lý do là vì Hội Đồng Liên Lạc Ngoại Giao CFR (Council on Foreign Relations) giữ một vai trò trọng yếu trong nền chính trị Hoa Kỳ. Người ta nói Hội Đồng là người ngồi ghế tài xế của chiếc xe. Mục sư Jim Shaw, một cựu hội viên Hội Tam Điểm bậc 33 sau khi rút lui khỏi hội Tam Điểm, trong một cuộc phỏng vấn năm 1989 đã tiết lộ về bức tranh nổi tiếng Roosevelt, Churchill, và Stalin tại Hội Nghị Yalta. Ông nói, bởi vì cả ba tay tổ này lúc đó đều là hội viên của hội Tam Điểm (Masonry.)

Có một người nào đó, người viết không nhớ tên, khẳng định: Có thể nói không ngoa rằng Liên Bang Sô Viết được dựng lên từ Hoa Kỳ. Thật vậy, có rất nhiều chứng cớ cho thấy, các Cơ Sở (Foundation) Ford, Rockefeller, và Carnegie đã yểm trợ cho cái gọi là cuộc Cách Mạng Vô Sản tại Nga và tài trợ cho CS Liên Sô.

- Tờ New York Journal-American ngày 3-2-1949 tiết lộ, Jacob Schiff đã đổ vào cho chiến thắng cuối cùng của cách mạng Bolshevik 20 triệu dollars. Ngoài ra có nhiều phát giác về các tập đoàn tư bản Hoa Kỳ làm ăn với Liên Bang Sô Viết trong thời chiến cũng như trong thời bình.

- Trong cuộc điều trần năm 1953, khi nghị sĩ Norman Dodd đọc bản báo cáo viết rằng các nhà kỹ nghệ Hoa Kỳ đã thu được khoảng 200 triệu lợi nhuận từ cuộc Thế Chiến II, ông đã muốn té nhào khỏi chiếc ghế. Ông nói: Sau Thế Chiến I, Quĩ Dự Trữ Liên Bang đã cho nền độc tài Sô Viết vay 200 triệu khi chúng mới lên nắm quyền. Và ông tự hỏi, tại sao những nhà giầu trong thế giới tài chánh lại ủng hộ CS là chế độ công khai muốn tiêu diệt thế giới tư bản. Còn tác giả Phyllis Schlafly viết: Tôi càng nghiên cứu càng cảm thấy hồ đồ (confused), không hiểu tại sao những người càng giầu có càng thích làm việc với kẻ thù của chúng ta.

Tổng thống Roosevelt tuyên bố vói Martin Dies, chủ tịch một Ủy Ban Đặc Biệt Hạ Viện Hoa Kỳ, và được ông này tường thuật lại trước Hạ Viện rằng, Tổng Thống không tin vào CS cũng như chúng ta, nhưng theo ông, không có gì sai trái về những người CS trên xứ sở này. Một số bạn thân nhất của tổng thống cũng là CS …. Quả thật về sau, viên cố vấn hàng đầu của TT Roosevelt, Alger Hiss, thành viên CFR, đã bị toà án kết tội làm tình báo cho Liên Sô.

Mỹ và Trung Cộng

Phần đông người ta đã quên những chuyện kỳ lạ xẩy ta dưới thời TT Harry Truman (người kế vị TT Roosevelt). Trước hết, sau khi ông ký Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, bản văn thừa nhận cơ quan quốc tế này là một Chính Phủ Toàn Cầu. Sau đó ông nhường quyền kiểm soát Đông Âu và Trung Hoa cho CS. Khi công luận bắt đầu nêu thắc mắc tại sao ông phản bội hàng trăm triệu con người để làm thân phận nô lệ, thì ông đã đưa đẩy rằng cuộc chiến tại Á Châu không thắng được. Khi đại tướng MacArthur nói với một vị dân biểu rằng ông không được phép chiến thắng trong cuộc chiến Triều Tiên, thì TT Truman cách chức tư lệnh của ông. Tướng Lâm Bưu, tư lệnh quân đội Trung cộng tham chiến tại Bắc Triều Tiên thừa nhận rằng đã có một thỏa thuận bí mật ngăn chận quân lực Mỹ chiến thắng tại Triều Tiên. Lâm Bưu viết: Tôi không bao giờ tấn công để phải hy sinh binh sĩ và danh tiếng của tôi, nếu tôi không được bảo đảm rằng Washington hạn chế những biện pháp trả đũa tương xứng của tướng MacArthur nhắm vào những tuyến đường tiếp liệu và truyền tin của chúng tôi.

Cuối năm 1945, khi tướng Marshall đi Trung Hoa, cán cân quyền lực nghiêng về phía quốc gia, và giữ nguyên cho đến tháng 6-1946. Những sư đoàn của Tưởng Giới Thạch đang dồn CS về phía Bắc và cơ hội chiến thắng của phía quốc gia cao hơn bao giờ hết. Nhưng, khi tướng Marshall tới Trung Hoa, ông có ý định thành lập sự phối hợp chỉ huy. Kế hoạch bị thất bại khi liên minh thất bại. Khi chính quyền Trung Hoa không thực hiện sự liên minh, thì vào mùa hè 1946, Hoa Kỳ chấm dứt viện trợ quân sự cho Trung Hoa. Hoa Kỳ không chỉ ngưng gởi tiếp tế quân dụng cho Trung Hoa, mà còn ra lệnh ngưng các chuyến tầu chở quân dụng do chính phủ Trung Hoa đã mua. Chính phủ Trung Hoa cũng đã mua các quân dụng ở Okinawa và nhiều nơi khác trên Thái Bình Dương. Những hàng hóa này cũng bị đình chỉ, và lệnh cấm vận hoàn toàn có hiệu lực vào mùa hè năm 1946. Lệnh này kéo dài tới tháng 5-1947. Tướng Chennault xác nhận rằng chuyến tầu đầu tiên chỉ đến Thượng Hải tháng 12-1948. Hơn nữa ông tướng này còn quả quyết rằng các chiến cụ đuợc gởi đến Trung Hoa sau lệnh cấm vận đã không được chở tới đúng lúc để giúp quân đội quốc gia ở ngoài chiến trường. Thống chế Cook xác nhận nhiều sư đoàn của Tưởng Giới Thạch đưọc trang bị bằng vũ khí của Hoa Kỳ. Khi nguồn tiếp liệu do Hoa Kỳ bị ngưng, các đơn vị này không còn sức chiến đấu và bị đánh bại. Dù sau khi Quốc Hội Khóa 80 đã chấp thuận viện trợ 125 triệu cho phe quốc gia, các chuyến tầu chở tiếp liệu vẫn bị trễ, và khi vũ khí tới được viên tư lệnh của vùng Bắc Trung Hoa, thì súng ống lại thiếu cơ bẩm và trở thành vô dụng.

Tại sao Bộ Ngoại Giao lại gởi vũ khí không có cơ bẩm cho người Trung Hoa quốc gia? Đó có phải là việc làm vô tình không? Tiến sĩ Stanley Monteith viết trong cuốn Brotherhood of Darkness: người ta không thể đọc hết bản báo cáo của Ủy Ban Điều Tra McCarran mà không đi đến kết luận rằng, Chính quyền Truman đã phản bội người Trung Hoa Quốc Gia để đưa Mao Trạch Đông lên cầm quyền tại Trung Hoa.

Để theo dõi việc cộng sản thống trị toàn Trung Hoa năm 1950, Thượng Viện Mỹ đã chỉ định một Ủy Ban Đặc Biệt do Dân Biểu Carrol Reece cầm đầu để điều tra xem tại sao Bộ Ngoại Giao lại ra lệnh cấm vận vũ khí cho phe Quốc Gia Tầu và đưa Mao Trạch Đông lên cầm quyền tại Trung Hoa. Ủy Ban Điều Tra đã khám phá ra rằng hai tổ chức Rockefeller Foundation và Ford Foundation đã tài trợ cho các chương trình phát thanh tuyên truyền của CS nhiều năm trước khi Trung Hoa sụp đổ. Ủy Ban bèn điều tra các tổ chức được miễn thuế này để xác định người ta tài trợ cho CS bằng cách nào. Có nhiều khía cạnh bị điều tra, nhưng những việc liên quan trực tiếp đến chiến tranh quốc cộng tại Trung Hoa, DB Reece khám phá ra hai sự kiện:
1.        Thứ nhất, có nhiều tổ chức lớn (large foundation)đã thực sự cổ võ chủ nghĩa cộng sản và Xã Hội Chủ Nghĩa.
2.        Thứ hai, các tổ chức (foundations)đã gây ảnh hưởng đến chính sách của Bộ Ngoại Giao, và do đó phải chịu trách nhiệm phần lớn việc đưa CS lên nắm chính quyền tại Trung Hoa.

Một nhóm các nhà đại tư bản lập kế hoạch ngăn chận cuộc điều tra của Ủy Ban Reece. Reece khám phá ra rằng nhũng tổ chức được miễn thuế này đã hoạt động sát cánh với tập đoàn (trust) Rhodes. Các học giả của tập đoàn này được điều phối vào các vị trí chiến lược trong chính quyền Hoa Kỳ. Nhiều người có thế lực đem hết cố gắng chống lại cuộc điều tra của DB Reece. Họ áp lực lên các nhà lãnh đạo Quốc Hội phải chấm dứt cuộc điều trần. Kết quả như ông René Wormser, cố vấn của Ủy Ban Reece viết: Tôi cảm thấy công việc còn để lại nhiều vấn đề chưa được trả lời, trong đó điều quan trọng nhất là, với ý đồ gì, nếu có, các tổ chức lớn lại đem tiền bạc giúp và tiếp tay cho các khuynh hướng Marxist tại Mỹ và làm tàn lụi đi sự yêu mến lối sống của họ mà người dân Mỹ nên có?

Mỹ và Việt Nam

Còn câu hỏi Hoa Kỳ có thực tâm giúp người VN chống VGCS không thì người viết khỏi cần phải dài dòng. Mỗi người VN dù lớn hay nhỏ đều đã có đủ hiểu biết và tài liệu để tự trả lời cho chính mình.

Thời Đệ I Cộng Hòa, khi người Mỹ ngỏ ý muốn trực tiếp can thiệp bằng vũ lực trước vấn đề CS miền Bắc xâm lăng VNCH. Họ muốn đổ quân đội Mỹ vào VN để đánh CS. TT Ngô Đình Diệm yêu cầu giữa Hoa Kỳ và Việt Nam cần phải ký kết một bản Hiệp Ước An Ninh hỗ tương thì vấn đề đó mới danh chánh ngôn thuận, và CSVN không xuyên tạc được, nhưng Mỹ từ chối. Sự thể cho thấy ngay từ đầu cái dã tâm đen tối của người Mỹ, nên TT Ngô Đình Diệm từ chối. Từ đó người Mỹ quyết tâm diệt trừ TT Diệm để thực hiện âm mưu của mình. Khi loại trừ được TT Ngô Đình Diệm rồi, Mỹ ngang nhiên đổ quân vào VN mà không cần có một chính quyền VNCH nào cho phép. Người Mỹ tự ý vào, rồi tự ý nắm quyền chủ động cuộc chiến, cũng như sau này việc thương thuyết hòa bình. Trong cuộc chiến, nước Mỹ đã mất 58 ngàn quân sĩ tử trận, nhưng điều bỉ ổi nhất mà nhiều người không biết là 80% đồ tiếp tế của Liên Sô cho VGCS trong thời gian chiến tranh là do các hãng Hoa Kỳ đầu tư và sản xuất tại Nga. Như thế có phải là chính người Mỹ đã gián tiếp giết người Mỹ không?

Khi người Mỹ đã hoàn tất mục tiêu thầm kín của mình rồi thì họ tìm cách rút chân ra khỏi VN. Bằng nhiều cách và nhiều thủ đoạn, người Mỹ đã thực hiện ý định nhiều khi khá lộ liễu. Cuộc hành quân Lam Sơn 79 Quân Lực VNCH đánh sang Nam Lào, người Mỹ đã bí mật thông báo kế hoạch và phóng đồ hành quân cho Hànội. Mục đích của hành động tồi bại nàyđể làm suy yếu khả năng chiến đấu của các đại đơn vị tinh nhuệ và thiện chiến nhất của QLVNCH. 
Ý đồ phản bội miền Nam rõ rệt nhất của Mỹ là năm 1972, khi Kissinger sang thăm Bắc Kinh, y đã nói với Mao Trạch Đông rằng nước Mỹ sẵn sàng chấp nhận một nước VN thống nhất dưới quyền cai trị của CS miền Bắc. Mao ngu gì mà không chịu?Để thực hiện ý đồ nàỵ, chính quyền Mỹ đã giàn dựng cả một chiến dịch ta thưòng gọi là“phong trào phản chiến” bôi nhọ và vu cáo miền Nam, làm cho dư luân Mỹ chán ghét chiến tranh để lấy cớ rút lui. Biện pháp cuối cùng là cắt viện trợ và “embargo” quân dụng và vũ khí đạn dược cho QLVNCH. Biện pháp xẩy ra giống y chang như Mỹ đã làm đối với quân đội của Tưởng Giới Thạch.Để che mắt thế giới, và để đánh lừa cái lương tâm bất chính của mình, người Mỹ đã muối mặt chở đến Saigon 6 chuyến máy bay vận tải toàn đồ quân trang như bi đông đựng nước, giầy trận, áo mưa v.v. Vào những giờ phút sinh tử của cuộc chiến, người Mỹ chở súng không có cơ bẩm cho người Trung Hoa. Nay người Mỹ chở poncho, bidong v.v. cho VN thay vì vũ khí đạn dược. Trên thế giới này có lẽ chỉ có người Mỹ mới có cái tính khôi hài qua việc làm bôi bác như thế mà thôi.

Nước láng giềng Cambodia của chúng ta cũng giống như chúng ta:bị người Mỹ bịp, và vì thế ông Sirik Matak mới có lá thư gởi cho ông đại sứ Mỹ như chúng tôi ghi lại trên trang đầu của bài viết.Phần đông chúng ta vẫn tưởng nước Mỹ thay đổi chính sách mỗi khi có một tổng thống mới lên cầm quyền. Vì thế mới bị lầm, và bị lầm rồi mà vẫn cứ hy vọng. Nghị sĩ Barry Goldwatercho biết: khi một tổng thống lên nắm quyền, đó chỉ là vấn đề thay đổi nhân sự, nhưng chính sách không thay đổi. Ông đưa ra thí dụ, thời TT Nixon Cộng Hòa, Henry Kissinger là thành viên CFR, người được Nelson Rockefeller đỡ đầu, nắm chính sách ngoại giao. Khi Jimmy Carter Dân Chủ đắc cử, Kissinger được thay thế bởi Brzezinski. Brzezinski cũng là thành viên CFR và được David Rockefeller che chở.

Với những dẫn chứng lịch sử trên, và với kinh nghiệm bản thân của mỗi người VN, chúng ta có thể khẳng định rằng chính sách của nước Mỹ đối với cộng sản không thay đổi. Chính sách đó như Ts Stanley Montieth cho biết là: Cộng sản và tư bản luôn luôncộng tác với nhau, bởi vì cả hai cùng được thúc đẩy bởi một đông lực tinh thần, và cả hai cùng tìm kiếm một mục tiêu (communists and capitalists have always worked together because they are motivated by the same spiritual force, and they seek the same goal.) Người viết xin thêm vào một ý kiến riêng để câu nói được trọn nghĩa: 
mục tiêu đó là khống chế toàn bộ đời sống con người và xã hội.


Kết luận

Không biết dân tộc Khmer có được mấy trăm, mấy ngàn năm văn hiến mà sản sinh ra được cả một nội các chính phủ đáng kính và đáng khâm phục như thế. Họ thà chết chứ không chạy theo những kẻ đã lừa bịp họ. Thế mà trước đó báo chí Mỹ la rùm beng chính quyền Lon Non tham nhũng số một trên thế gian này. Nếu quả như báo chí dòng chính Mỹ tố cáo, các ông Lon Non, Sirik Matak v.v. đem tiền bạc tham nhũng sang Mỹ hưởng vinh hoa phú quí không sướng hơn ở lại để mất đầu hay sao! Biết chắc chắn mình sẽ không thọ khi rơi vào tay Khmer Đỏ, trước khi chết thủ tướng Sirik Matak đã bầy tỏ sự hối tiếc vì tin vào người Mỹ.

Inline image 1 

Thực ra, không phải chỉ có ông Matak tin vào người Mỹ, mà cả nước Việt Nam (VNCH) chúng tôi tin vào người Mỹ. Nhưng khi ông mở mắt bừng tỉnh thì đã quá muộn rồi. Ông Sirik Matakphạm sai sầm, nhưng cuối cùng khi nhận ra mình sai lầm, ông đã thành khẩn nhận sai lầm và tỏ ra hối hận. Chỉ có người VN, chưa thấy ai nhận ra sự sai lầm của mình và tỏ ra hối hận như ông Sirik Matak. Tệ hại hơn nữa là cho đến bây giờ vẫn còn có rất nhiều người u mê tin rằng người Mỹ chống cộng, và trông đợi hão huyền rằng người Mỹ sẽ giúp người VN chống Trung Cộng, đòi đất, đòi biển.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nht

*****************

(*) I thank you very sincerely for your letter and for your offer to transport me towards freedom I cannot, alas, leave in such a cowardly fashion. As for you and in particular for your great country, I never believed for a moment that you would have this sentiment of abandoning a people which has chosen liberty. You have refused us your protection and we can do nothing about it. You leave us and it is my wish that you and your country will find happiness under the sky. But mark it well that, if I shall die here on the spot and in my country that I love, it is too bad because we are all born and must die one day. I have only committed the mistake of believing in you, the Americans. Please accept, Excellency, my dear friend, my faithful and friendly sentiments.

Prince Sirik Matak















__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

Cái chết của Ông Long 30-04-75 là một cái chết bất tử !

$
0
0




Cái chết của Ông Long 30-04-75
là một cái chết bất tử !

Dưới chân tượng đài của Thủy quân Lục chiến, xác một người Cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra tươi rói. Người Sĩ quan Cảnh sát đeo lon Trung tá. Ông mặc đồng phục màu xanh. Nắp túi ngực in chữ Long. Trung tá Cảnh sát Long đã tự sát ở đây, Cộng sản để mặc ông ta nằm gối đầu trên vũng máu. Phóng viên truyền hình Pháp quay rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14 giờ 30. Dân chúng đứng mặc niệm Trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người không khóc thì mắt đỏ hoe, chớp nhanh.

Trung tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết.

Tiểu sử Trung Tá Nguyễn văn Long.

Qua nhiều bài viết về Trung Tá Nguyễn Văn Long mà chúng tôi có dịp đọc trước đây, chúng tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó còn thiếu sót, nếu không muốn nói là chưa thỏa mãn được những gì mà chúng ta muốn biết về Trung Tá Long. Người mà chúng tôi nghĩ đến có thể bổ túc cho những thiếu sót đó không ai khác hơn là cựu Trung Tá Nguyễn An Vinh, nguyên Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia Đà Nẳng, người đã có thời gian dài được gần gũi với Trung Tá Long, trong phạm vi Bộ Chỉ Huy Khu I, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Kính mời quý vị xem bài của cựu Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Nguyễn An Vinh.

Sau chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ nhất Cộng Hòa, Quốc Gia trải qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên Huế, hoạt động ngành An ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm mà đã thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An. Có ông chỉ tại chức 32 ngày. Hai Trưởng Ty Công An Thừa Thiên và Cảnh Sát Huế đều là cơ sở nòng cốt Cộng Sản, một vài tay chân của nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu ly khai xuống đường phá rối. An ninh trật tự hoàn toàn suy sụp.

Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng I, tháng 6 năm 1966 Trung Ương quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, ông cho chấn chỉnh lại những hoạt động của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại địa phương đầy biến động này, đồng thời bổ nhiệm Quận Trưởng Cảnh-Sát Võ Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh Sát Quốc-Gia Vùng. Quận Trưởng Cảnh Sát Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm 1963 và là người đầu tiên giữ vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian hỗn loạn quá dài. Ðể mau chóng ổn định nhân-sự cũng như hoạt động, Ông cho lệnh di chuyển Nha CSQG từ Huế vào Ðà-Nẳng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng trong một tháng để thu xếp gia-đình.

Trong vòng một tháng đó, phần đông nhân-viên đã có đủ thì giờ để ổn định việc nhà cửa và chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung Tá Long, lúc ấy vừa được bổ nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm Thanh Tra, là còn loay hoay chưa kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình. Hết hạn 1 tháng, Ông không thèm xoay sở nữa mà đã sáng kiến thực hiện một việc cổ kim không giống ai :

Thấy có một khoảng đất công trống trên đường Duy Tân, giữa lòng Thành Phố Đà Nẵng, Ông dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường thành của một Công Sở. Ðó là nơi gia đình ông đang cư trú, không điện không nước.

Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm thấy cả nhà ban đêm thắp hai ngọn đèn dầu lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua đến cho ông một cái đèn Manchon. Ông từ chối nhất định không lấy, nói thế nào ông cũng không chịu, bắt họ đem đi trả lại.

Câu chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều người kể đi kể lại ở sở. Một hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên họp Quân Ðoàn, tôi kể Ông nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc lắc đầu nói :

“…tính của Long là vậy, tôi biết chả từ lâu, từ hồi còn làm bên Công An Liên Bang. Ðó là một người rất tốt, thanh liêm và cương trực, đông con nhà nghèo…”. Từ lúc đó cho đến khi vào họp Ông không nói thêm lời nào. Ông lặng lẽ, dường như có điều tính toán suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài đường. Tuần lễ sau, tôi ghé nhà Long thăm đã thấy có điện nước. Hỏi ra thì biết trong lúc Ông Long đi làm, có 2 người tới bắt cho 2 bóng đèn và 2 lỗ cắm điện, một vòi nước. Họ không lấy tiền cũng không cho biết ai sai tới. Tôi biết ngay là do sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc. Biết Ông không ra mặt tôi cũng làm thinh luôn.

Liền sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông Giám Ðốc hỏi nhỏ tôi, nhà Long có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa. Ông gật đầu, mỉn cười nhìn về phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung. Ông vui vì đã giúp được thuộc cấp một việc tuy nhỏ nhưng rất cấp bách cần thiết. Tính Ông quảng đại, kín đáo và chi-tiết. Nhiều khi làm ơn từ việc nhỏ đến việc lớn, không cần cho ai biết.

Dạo ấy, vì cơ sở mới dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa đủ, Ông Giám-đốc cũng không có tư dinh phải ở tạm một phòng trong khách sạn Grand Hotel trên đường Bạch Ðằng. Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông thường dùng bữa vớí nhiều viên chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn công việc. Những lúc không mời ai, Ông gọi tôi tới ăn cơm chung. Nhờ có chút khả năng giao-thiệp, quen biết nhiều người và luôn sẵn những chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều giờ với tôi, bàn về đủ mọi thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới đất, không dính dấp gì tới công vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi nhắc lại chuyện Trung Tá Long và hỏi Ông lý do không cho Long biết việc Ông can thiệp bắt điện nước vào nhà. Ông cườì rồi từ từ kể. Sau đây là những gì Ông Giám đốc Võ Lương nói về Trung Tá Nguyễn Văn Long:

“…Tôi biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả (tiếng thông dụng miền Trung có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy) mới gia-nhập Ngành An ninh thời Tây. Giả nổi tiếng1à siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong sạch. Lương bổng không đến nỗi tệ nhưng gia-đình đông con lại suốt đời không tơ hào những bổng lộc phi nghĩa nên thời nào cũng nghèo. Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước năm 1963 Giả cũng có một căn nhà tương đối được, ở đường Phạm Hồng Thái, Thành Phố Huế. Nhà này có từ nhiều năm trước, có thể do cha mẹ để lạị. Trước đảo chánh Ông Diệm, Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung do Phan Quang Ðông điều tra khai thác. Trong thời gian bị ngưng chức không lương tiền hàng tháng, bà vợ đã phải bán căn nhà này để đong gạo cho gia đình…

…Giả sống rất chừng mực, lương thiện, không có khả năng xoay xở, lại càng không muốn xoay xở bậy bạ. Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn răng chịu đựng, không hề muốn nhờ vả ai. Giả rất khó chịu khi phải chịu ơn người khác. Ðiều này giải thích được tại sao tôi không trực tiếp cho biết đã nhờ người bắt điện nước cho gia đình Giả. Chuyện nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn…

… Là viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ngành đã hơn 20 năm, Long có khá nhiều cơ hội để khá hơn, nhưng cơ hội nào Giả cũng bỏ qua, có khi còn quyết liệt từ chối thẳng tay, nên đến bây giờ vẫn sống chật hẹp với đồng lương của một công chức.

… Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung năm 1962 nên sau khi Chính Phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Long được cử ngay làm Trưởng Ban Công Tác Ðặc nhiệm điều tra tội ác và tài sản chế độ cũ cũng như của nhóm Cần Lao. Nhiều người cứ tưởng dịp này Long tha hồ ân oán giang hồ Nhưng trái với mọi suy đoán, Long hành xử trách nhiệm hoàn toàn vô tư, không nghe lời xúc xiểm, không thành kiến, cũng như không bới lông tìm vết Ðể tránh mấy tay môi giới chạy chọt xin xỏ đút lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật khuya mớí lạch cạch đạp xe về nhà. Dạo ấy cả gia-đình theo đạo Công Giáo, nhà thuê ngay kế bên Dòng Chúa Cứu Thế Huế. Nhà Long cửa đóng then cài. Long không tiếp bất cứ ai.

…Năm 1965, Long đưọc bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công an Ðặc Biệt Bến Hải, đóng dọc theo Nam Vĩ Tuyến 17 thuộc Quận Trung Lương, Tỉnh Quảng Trị. Nhận việc chưa bao lâu thì Phòng Lương Bổng, Vật Liệu , Kế Toán đưa cho Giả một phong bì đầy tiền. Long hỏi cái gì thì họ cho biết, như thông lệ từ trước, đây là số tiền bán bớt xăng nhớt và văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm mật phí giao tế. Giả đỏ mặt, trợn mắt đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám léng phéng chuyện tiền nong lem nhem với Long…”

Kể đến đây Ông Giám Ðốc cười thành tiếng và nói đùa : “…Nếu Long chịu nhận vàì ba mớ phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ phải cắm dùi đường Duy Tân. Nên nhớ Long đang là chức Trưởng Ty khi được lệnh di chuyển từ Quảng Trị vào Ðà-Nẵng. Một Ông Tưởng Ty mà ngày trước ngày sau phải ở bụi ở đường thì thế gian chỉ có một Nguyễn văn Long mà thôi, không có người thứ hai. Bổ nhiệm Long vào chức An Ninh Nội Bộ và Thanh Tra, tôi yên tâm nhưng cũng có nhiều anh khó chịu không vui đấy…”

Khi tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung, Ông cho biết vụ ấy không hẳn là có thật mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối. Công việc của Phan Quang Ðông là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo gián điệp ra Bắc hoạt động vùng Thanh Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không dính líu gì đến vấn đề nội chính và an ninh quốc nội. Ðông bị xử tử hình để bịt miệng, do áp lực từ Cộng Sản trong nhóm tranh đấu, gây rối Mìền Trung. Không có vụ gián điệp thì Ðông cũng bị giết.

Hình như Long biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn Phan Quang Ðông tại Sân Vận Ðộng Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi coi, Long từ chối. Long nói:

“…chuyện Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử vội vàng và có quá nhiều áp lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi, không nên buộc… Ông Giám Ðốc kết luận :…Long khắt khe sắt thép với chính mình nhưng khoan dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng với kẻ khác, cả với kẻ vừa mới giam giữ mình…”

Năm 1970, tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu Tá Trần Hàng để ra Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu một cơn bão lụt Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm năm. Mưa như trút nước. Sóng biển gầm thét dữ dội. Một phần đường trong thành phố ngập nước quá đầu gối. Giáp ranh phía Bắc Thành Phố là Bãi Thanh Bình thành một vùng nước mênh mông. Nhưng ngặt nghèo và nguy hiểm nhất là khu tạm cư Ngọc Quang. Khu này là một giải cát bồi thoai thoảỉ nằm dài giửa Bãi Thanh Bình và biển cả, không một bóng cây. Từ tầm xa nhìn tới, toàn khu hoàn toàn biến mất, chỉ còn thấy lác đác ít nóc nhà nhấp nhô theo sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật từng cơn. Bộ Chỉ Huy Cành Sát Quốc Gia huy động toàn bộ lực lượng cơ hữu như Giang Ðoàn và trưng dụng thêm một số ghe thuyền tư nhân trong nỗ lực di tản dân chúng vào khu an toàn, lúc ấy là sân Trường Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng và chung quanh 2 Thánh Ðường Họ Giáo Ngọc Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức.

Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết gia-đình Trung Tá Long ở vào một khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra biển bất cứ lúc nào. Cả gia-đình đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang ngồi trên một cái chõng tre, tay cầm chai rượu thuốc, nói là để ở lại giữ nhà, không chịu đi đâu hết. Tôi nghe mà lạnh người. Cũng lại cái “Ông Trời sợ” này nữa. Tôi không thể quên vụ Ông cắm dùi ở đường Duy Tân năm nào và việc Ông Giám Ðốc Võ Lương kín đáo giúp đỡ bắt điện nước cho Long.

Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho tôi nói chuyện với Long. Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng, tôi không sao đâu. Sau một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải viện dẫn lý do an ninh cũng như xin Ông hợp tác để làm gương cho đồng bào. Cuối cùng Ông mới chịu vào bờ.

Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những thứ đỗ nát. Tôi điện thoại cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời tỉnh bơ: Nhà chỉ có mấy tấm ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư hại. Tuần này tôi xin nghỉ mấy ngày phép và mất một mớ đinh là xong ngay.Tôi bái phục cái thái độ bình tâm giản dị gần như bất cần của Ông, nhưng quyết định phải ra tận nơi coi cho biết. Tôi mặc thường phục cùng với mấy tay bài trừ du đãng đi Honda, luồn lách ra Ngọc Quang. Tới nhà Ông Long, tôi hết hồn.

Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội vàng và lỏng lẻo gồm mọi thứ tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Nhà nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các gia đình đổ về từ những vùng quê Quảng Nam mất an ninh. Giây điện và giây phơi áo quần chằng chịt. Rất mau, tôi vụt nhớ đến một bản báo cáo của Cảnh Sát Ðặc Biệt về việc Cộng Sản cài người vào dân tị nạn và vụ xe ông Trưởng Phòng Ðặc Biệt Nha tên Diệp đi mua vật liệu bên Quận Ba bị đặt Plastic chết banh xác trên gần Chợ Cồn năm nào. Thương Ông, tôi nhất định phải đưa Ông vào thành phố.

Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm một miếng đất cho Ông Long cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn ra 4 chỗ. Tôi lái xe đưa Ông đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần ngại không quyết định, viện dẫn nhiều lý do nghe cũng được. Chuyện không thể chậm trễ, tôi nói ngay: hay là Ông vô ở chung với tôi. Ông cười khẩy, tưởng tôi bực mình nói lời mỉa mai. Sự thực khi nói câu đó, tôi nghĩ đến khu đất trống sau tư dinh dành cho gia đình Chỉ Huy Trưởng số 37 Nguyễn Thị Giang, ngay trung tâm thành phố, sát tường rào Trường Nam Tiểu Học, có thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho Ông. Ông chịu liền nhưng còn bán tín bán nghi. Ðể xác nhận không phải chuyện bông đùa, tôi đưa Ông tới một trại cây đường Phan đình Phùng, nói với bà chủ chọn cho Ông một số cây ván thứ tốt, hoá đơn gởi cho tôi. Tới đây Ông mới tin là chuyện thật và bắt tay tôi vui vẻ, nói lời cám ơn.

Không chờ đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc Quang, cha con chồng vợ cả gần chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong vòng chừng 2 tuần là xong, điện nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui vẻ đã đành, phần tôi cũng vui không ít.

Những ngày tiếp theo, tôi chờ hoài không thấy trại gỗ đưa hóa đơn tới, hỏi ra mới biết : thấy tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy một ít ván gắn vào mặt tiền coi cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ tạp nhạp từ một bãi phế thải ở đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác về, đóng phía trong phía ngoài khá tươm tất. Một lần nữa tôi cảm phục tính lương thiện và sòng phẳng của Ông. Dọn vào nhà mới xong, ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ nhiệm Chánh Sở Tư Pháp, tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông yên tâm ở bên cạnh nhà tôi và tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát :

Nhà Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần, nuôi 13 đứa, có cả cặp sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang thêm một đứa cháu mồ côi, anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho Ông giữ. Chưa hết. Nhà còn có thêm một con heo con. Bà Long nói phải nuôi thêm con heo làm lợi, cho đứa cháu mồ côi thêm tiền ăn học. Chuyện nhà Ông Long nuôi heo nhiều người không tin, đòi đến coi. Làm gì giữa thành phố, ngay cạnh tư dinh Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát mà lai có người dám nuôi heo. Ai nói gì thì nói, hiểu rõ hoàn cảnh gia-đình, cùng cái lý do chân thật và tội nghiệp đối với Bà Long, tôi không phản đối. Mấy đứa con nhỏ của tôi cũng rất ưa thích con heo. Ði học về, tụi nhỏ chạy sang xem, cho heo ăn, trầm trồ khen heo sạch sẽ và mau lớn. Thấy các con ưa thích, tôi cũng vui. Bà Long lại càng vui hơn.

Ông Long dạy con rất nghiêm nhưng không hề ồn ào to tiếng. Ông ưa nói chuyện gương trung liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của các con làm trọng. Ông thường dặn con : dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm cho được ba mớ chữ. Câu Ông thường nhắc đi nhắc lại với các con là: Khi nào cái đầu cũng ở trên. Cái đầu phải có kiến-thức để điều khiển toàn thân làm những việc khá hơn là việc tay chân lao động.

Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy cháu học giỏi và thường dấm dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp sách, khi thì mua bộ áo quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi thương nhất. Ông Long có mấy con đã trưởng thành. Hai anh đi Không quân, một Thiết giáp, ba Cảnh Sát. Đứa đầu lòng tên Phụng, Sĩ Quan Biệt Ðộng Quân, tử trận. Thỉnh thoảng các cháu về phép, nhà tôi thường dặn dò phải cận thận giữ mình, đôi khi còn có chút ít tiền cho các cháu cà phê. Những cử chỉ thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như thế chỉ có các con và Bà Long biết, Ông Long thì không. Qua tôi, nhà tôi đã hiểu tính Ông Long rất tự ái và không ưa nhờ vả ai, dù là từ những người thân.

Trong năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang nhà tôi có một lần, đi chung với Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy tôi vừa cho thêm một người bạn khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An Quảng Tín làm căn nhà đằng sau , phía bên phải. Nhà Ông Long bên trái. Ông Võ Hoàng là một nhà phong thủy cho biết hai căn nhà phía sau Tư dinh là một phối trí phong thủy tuyệt hảo, che chắn hết mọi bất trắc, rủi ro, không sợ đao kiếm cùng kẻ xấu chém lén sau lưng. Ông Chỉ Huy Trưởng sẽ yên vị tại chức lâu dài Tôi không biết nhiều về phong thủy, cũng không hẳn tin. Tôi chỉ muốn làm một việc tử tế khi có cơ hội để giúp cho hai người bạn mà tôi rất thương yêu và mến phục.

Sống bên nhà tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long không bao giờ xin "ân huệ" cho mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng lẽ, âm thầm gần như cam chịu. Bà Long thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ trước đến nay và ao ước được ở đây mãi mãi... Niềm ao ước bình thường giản dị ấy không được bao lâu thì Ðà-Nẵng thất thủ, cuối tháng Ba 75. Tai trời ách nước đổ sập xuống, chúng tôi tan tác mỗi người một nơi.

Tôi thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ vào Cam Ranh. Tại đây dùng tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại biển khơi, tôi gặp Ông Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi đổi tàu cùng Ông xuôi Nam. Về đến Saì-Gòn chia tay mỗi người một ngã. Tôi tìm cách cùng gia đình thoát thân lần nữa. Qua tới Guam được mấy ngày thì được tin Long tự sát. Tôi bàng hoàng xúc động, thương Ông suốt một đời lận đận và kết thúc tức tưởi thế kia Từ đó tôi bị thúc bách và tự cho như có bổn phận phải tìm thêm tin tức của Long:

Ở Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ Sở Quốc Hội, sắc phục và cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng, nhưng không có báo nào nói xác Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi thể vô thừa nhận đã bị vùi dập ở một xó xỉnh nào.

Nhưng không. Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận đươc giấy báo vào nhà thương Grall nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong túi áo Long có thẻ căn cước địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà thương cứ theo địa chỉ đó mà báo tin. Tôi nhớ là cái căn cước bọc nhựa ấy tôi đổi lại cho Long khi vừa mới dọn vào ở chung, đặc biệt có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không phải chữ ký của Thiếu Tá Chỉ Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên tôi có chút suy nghĩ sao mà cái việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn cước bọc nhựa năm xưa lại đưa đến một sự việc quá quan trọng như thế. Cái căn cước có chữ ký của tôi đó không phải vì nhu-cầu mà chỉ vì chút cảm tình, nhưng lại chính nhờ nó mà gia-đình nhận đươc xác của Long. Ðây có phải chỉ là một diễn tiến tình cờ hay là một tính toán cẩn thận của Long. Giả thuyết thứ hai hợp lý hơn.

Ðà-nẵng mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương tháng ba nên nhà không có tiền vào Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba vào nhận xác. Tới Sài Gòn ngày 17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ hai tên Ðào và người em gái tên Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới nhà thương Grall. Tại dây nhân viên Bệnh Viện, như có được lệnh của Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ dàng, chỉ vẽ tận tâm chu đáo và tỏ ra có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ tắm rửa, thoa thuốc, uốn nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử tế đến độ làm các con cảm-động và ngạc nhiên. Ngày chôn cất có ban hậu sự Nhà Thương sắc phục và xe tang đàng hoàng, khoan thai đưa tiễn tới Nghĩa Trang. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí. Thi hài được mai táng tại Nghĩa Trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo với đầy đủ lễ nghi tôn giáo. Có Linh-Mục đến làm phép xác. Rõ ràng là cái chết công khai và lẩm liệt của một Anh Hùng vị Quốc vong thân, ngay lập tức đã có người trân trọng. Ít năm sau gia đình cải táng. Lần này thì khăn tang trắng một vùng, đầy đủ vợ và các con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro ký thác tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng.

Ngày mất nước 30 tháng 4 năm 75, khi biết mọi sự đã hỏng hết, nhiều Tướng Lãnh, Sĩ Quan, Binh Lính, Cảnh Sát và cả nhân viên Dân Chính đã tự sát tại nhiều nơi và bằng nhiều cách, cách nào cũng nói lên chí khí bất khuất không đầu hàng, không để cho thân rơi vào tay giặc. Nhưng cái chết của Trung Tá Nguyễn văn Long mới được cả thế giới biết đến mau nhất, gây xúc động mạnh nhất. Long đã chọn cách thế, giờ giấc cho cái chết có mục đích tại một địa điểm không thể có nơi nào thích hợp hơn. Trước Tòa Nhà Quốc Hội, dưới chân Tượng Ðài Chiến Sĩ là nơi biểu tương Trái Tim đang thoi thóp của Miền Nam. Ông đã nằm xuống đó để chấm dứt nhịp đập trái tim Ông. Ông dâng hiến máu tươi và mạch sống cho Tổ Quốc. Khỏi cần phải luận bàn dông dài, cả thế giới cùng công nhận Long đã bình tĩnh sửa soạn cho cái chết từng chi-tiết. Long mặc sắc phục, cấp bậc chỉnh tề, thẻ căn cước cài trong túi áo. Trước lúc bắn vào đầu, Long đứng nghiêm, chào kính Tượng Ðài rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ một phát súng dứt khoát và chính xác, Long anh dũng đền ơn nước.

Ðã một thời sống gần và làm việc chung, tôi thương mến Long lúc sinh thời, kính phục Long khi đã chết và sẽ mãi mãi nhớ Long. Cái chết của Long là một cái chết bất tử !

25/03/2017.
Nguyễn An Vinh





--
 


__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Phu Nhân Trong Áo Lụa

$
0
0

From:'Be Nguyen' via DiendanTuoiHac <>
Sent: Wednesday, April 26, 2017 2:11 AM
To:xomnhala
Subject: Phu Nhân Trong Áo Lụa

 Phu Nhân Trong Áo Lụa

“Cái đám đàn ông học ở đâu cái thói “nói xấu đàn bà là thú vui thần thánh” cóc biết gì hùa nhau viết về bà Nhu cứ như hàng xóm. Không ai nhớ một

 điều vô cùng đẹp từ cô tiểu thư xuân thì 15 tuổi trở thành phu nhân quí phái: Bà Nhu mặc hàng nội hóa nhiều hơn là hàng lụa nhập cảng từ Ý, Thái,

Ấn Độ, Ba Tư”.


Đệ Nhất Phu Nhân Trần Lệ Xuân (1924-2011) - Ảnh tư liệu

Đệ Nhất Phu Nhân Trần Lệ Xuân (1924-2011) - Ảnh tư liệu
Triều đại nào lỡ lọt vào tay các sử gia cũng sẽ thành chuyện kể nhiều kỳ dằng dặc. Lịch sử không phải lúc nào cũng cung đao bom đạn hay tướng tá mặt sắt đen sì gươm giáo leẻng keẻng làm nhân gian quên rằng trang sử đôi lúc rất êm rất tình. Thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa (1954-1963) tình êm nhất là tình ủ trong áo lụa.

Một cuốn sách về Bà Nhu vừa xuất bản ở Sài Gòn với tựa đề dịch không sát nhưng rất ngang xương là “Madam Nhu Trần Lệ Xuân - Quyền lực Bà Rồng” (nguyên tác “Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam's Madame Nhu”, tác giả Monique B Demery do Nhà xuất bản Public Affairs phát hành tháng 5-2013). Theo một bạn nhà báo người Sài Gòn xưa, Vũ Ngọc Nhạ nói ông Diệm là Bạch Long - ông Nhu là Thanh Long - nếu đúng vậy thì bà Nhu phải là Thanh Long Đại Công Nương ... Cho có mùi kiếm hiệp. Đã vậy, không phải Long thường mà là “Hỏa Long Đại Công Nương”.

Tôi vừa đặt mua qua
amazon.com xem Demery viết gì. Nếu dịch, tôi sẽ dịch ý “Đì tìm Bà Nhu, Phu Nhân Bão Tố Việt Nam” hơn là sát xà bông là “Bà Rồng”. Biết dịch giả ở đâu tôi sẽ hẹn so gươm hay đấu súng sau một chầu cà phê Liégeois ai thua phải trả tiền. 
 
01

Hay bao giờ rảnh sẽ viết “Từ Ỷ Lan Phu Nhân tới Trần Lệ Xuân Áo Lụa” để nhớ hai khuôn mặt cách nhau gần một ngàn năm, một người hái dâu tằm một người mặc áo lụa, cả hai đều để lại trang sử vô cùng độc đáo.

Bài viết ngắn này như lời chào gương mặt hoa trong áo lụa không chỉ xinh đẹp mà còn rất giỏi, một cái giỏi định mệnh như cụ Nguyễn Du tiên tri: “Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Đó là bà Ngô Đình Nhu tên tiểu thơ là Trần Lệ Xuân, 15 tuổi 
thay áo xanh theo chồng sang sông quên mái tranh quên con đò xưa.

Gia đình tôi vào Nam năm 1954. Mẹ tôi mới đầu may áo dài hàng phin nõn của Pháp. Khi có hàng “Vân nội hóa” thì mừng lắm nhớ khi 
Em là con gái trong khung cửi mà thời tao loạn ở ngoài Bắc đi tới đâu Mẹ cho hai chị học nghề tới đó, nhỡ lạc bầy có nghề mà sống khỏi đi ăn mày. Tôi chưa sinh ra nên không may mắn như hai chị, không biết làm hàng vàng chẳng biết nuôi tằm dệt tơ. Khi trong chợ Bến Thành tha thướt những miếng vải nội hóa đủ mầu, Mẹ và các chị mỗi tuần lượn vòng trong vòng ngoài ngắm lên ngắm xuống tôi đi theo mỏi cả chân phụng phịu đòi uống nước dừa. Vào học trường Trưng Vương mới hay gia đình bạn có xưởng dệt ở đường Chi Lăng Phú Nhuận. Hóa ra người Bắc di cư giấu trong tay nải may quàng cả tình yêu Hà Nội lẫn nghề dệt của tổ tiên. Xưởng mua tơ sống Tân Châu dệt thành hàng Vân nội hóa pha mầu hoa cúc hoa lan đẹp nõn đẹp nường gọi là Lụa Nội Hóa. Làng Tân Châu (tỉnh An Giang) sản xuất lụa Mỹ A đen tuyền và láng bóng như satin tuyết nhung Pháp nhưng bền hơn satin hợp cho phụ nữ miền Nam đi ghe đi xuồng. Trước 1975, một buổi sáng tơ vàng ở Tân Châu tôi mê mải lạc giữa vườn dâu ràn rụa nhớ nữ sĩ Đoàn Thị Điểm “Ngàn dâu xanh ngắt một màu. Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”.

Nguời mở đầu trang sử áo dài Lụa chính là bà Ngô Đình Nhu vào thời miền Nam hớn hở đón thế hệ học sinh sinh viên vừa lớn sau những năm dài chinh chiến. Lụa Hà Đông, cơn sốt mát rượi cháy bỏng thân hình xử nữ thanh tân nữ sinh Sài Gòn. Đúng ra phải gọi là Lụa Sài Gòn hay Lụa Tân Châu vì sau 1954 hai miền Nam-Bắc tuyệt đối không hề liên lạc ngoại trừ vài tấm card thăm hỏi gia đình một năm một lần do Ủy Hội Quốc Tế chuyển. Ông ngoại mất ở Hưng Yên năm sau mới nhận được tin, Mẹ tôi mắt đỏ cay xé vội đôi vành khăn trắng muộn màng vọng về Bắc. Sông Bến Hải chia đôi nhưng Lụa nối không gian hai miền Nam Bắc. Từ tơ tằm, Hà Đông dệt nhiều loại lượt, là, lĩnh, lụa, xuyến, lương, đoạn, vân, gấm, vóc, sa... Chị Cả Hà Đông không ngờ cô Út Sài Gòn nhớ mình dệt Lụa Hà Đông.

Trần Bích Lan tức thi sĩ Nguyên Sa học Triết ở Đại học Sorbonne bên Pháp về Sài Gòn năm 1955. Với ông mục tiêu của triết học là thông cảm là tìm ra ý nghĩa cuộc đời hơn là reo hò “giết giết nữa đi” nên thơ có nắng Sài Gòn mát anh mát ả có sông Seine bỡ ngỡ vui ả vui anh. Năm 1957 Nguyên Sa Trần Bích Lan làm bài thơ “Áo Lụa Hà Đông”:
 


Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.

Thơ Nguyên Sa như cô tiên Giáng Kiều ở ngõ Bích Câu Hà Nội từ trong tranh bước ra say mê nhân gian không trở vào tranh nữa. “Bích Câu kỳ ngộ”, tiểu thuyết chữ Hán trong tập “Truyền Kỳ Tân Phả” của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Hà Nội hiện nay có còn phố Bích Câu không?

Nữ sinh Sài Gòn sợ thơ Nguyên Sa bay mất nên rủ nhau may áo Lụa Sài Gòn nhưng nhất định gọi là Lụa Hà Đông. Nam sinh níu áo nàng thơ giữa sân trường dúi vào tay câu thơ Nguyên Sa:
 
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở xung quanh.

Từ 1963 tới nay, cái đám đàn ông học ở đâu cái thói “nói xấu đàn bà là thú vui thần thánh” cóc biết gì hùa nhau viết về bà Nhu cứ như hàng xóm. Không ai nhớ một điều vô cùng đẹp từ cô tiểu thư xuân thì 15 tuổi trở thành phu nhân quí phái: Bà Nhu mặc hàng nội hóa nhiều hơn là hàng lụa nhập cảng từ Ý, Thái, Ấn Độ, Ba Tư. Ngay bây giờ lụa Hermès, Mossul, Thượng Hải cũng không dệt loại Vân này. Bà Nhu có một tội lớn lắm, tội quá đẹp lại còn quá giỏi giữa một dòng sông lúc nhúc đàn ông ganh tị hơn Tấm Cám. Bà dám ăn dám nói dám vẽ ra chiếc áo khoét cổ “lăng loàn”. Bàn tay đẹp đủ mê từng ngón nhưng thời đó đố ai dám mê. Bà mang địa vị Đệ Nhất Phu Nhân vì ông anh tổng thống Ngô Đình Diệm không lập gia đình.
 
02

Trên ít nhất ba photo trên tờ “Life”, bà Nhu đều đeo chiếc broche gài trên áo đỏ đủ hiểu bà không nhiều nữ trang như địa vị bà có thể. Chọn lọc từng màu áo, từ áo lụa Vàng hoàng hậu với nữ trang nhận turquoise xanh Ba Tư...
 
03

... tới áo Trắng in hoa Cúc nên chị dẫn đi mua vải ở tiệm Hồng Hoa đường Phan Bội Châu bên hông chợ Sài Gòn tôi cũng chọn hoa cúc cho áo đồng phục trắng Trưng Vương.
 
04

Lần đầu tôi mặc áo dài không dám thở sợ rách. Bà nội dặn rách cũng phải giữ lấy lề, phải tập giữ gìn áo dài giặt bằng nước chanh không giặt xà bông, không phơi ngoài nắng lót khăn ướt mà ủi áo lụa mới bóng hoài.

Hàng Vân hoa to như áo Hồng Vỏ Đỗ này rất hiếm, hai chị tôi bắt chước nhịn ăn sáng có tiền may áo mặc rón rén chỉ sợ áo nhàu đi đứng khoan thai điều điệu cứ tưởng mình là Giáng Kiều trong tranh tố nữ.
 
05

Ngô Đình Lệ Thủy ăn mặc đơn giản chọn màu nhã nhặn rõ là con nhà sang từ trong trứng. Mặt dây chuyền hạt trai cũng theo bà Nhu xuất hiện ít nhất trong ba lần khác nhau. Thời đó chuỗi hạt trai mắc lắm nên chỉ đeo một hạt. Lời đồn đoán về gia tài đồ sộ của bà Nhu có thể không phản ảnh trên nữ trang có vẻ khiêm nhường.
 
06

Trăm quan mua lấy miệng cười. Hai miệng cười không thắm được lâu. Lệ Thủy mất trong một tai nạn xe hơi ở Pháp khi mới 22 tuổi. Tôi không tin đó là tai nạn. Một thế lực bắt bà Nhu phải im miệng suốt đời để giữ bí mật nào đó? Bao giờ rảnh tôi sẽ tuốt kiếm tìm cho ra manh mối có phải loài người ác tới theo đuổi một gia đình cô độc mẹ góa con côi quá nhiều cái chết thảm khốc. Tôi cũng tuốt kiếm hầm hầm nếu ai dám chê bai đàn bà con gái chúng tôi ăn nhiều nói lắm không chịu thương ít chịu khó hiếm nhịn nhục kém hy sinh, thỉnh thoảng còn xúi nhau: “Ái chà chà! Con vợ mày đoảng! Mày tát nó một cái vỡ mặt cho tao”...

Nói vậy cho ngon chứ kiếm đâu mà tuốt! Tuốt làm gì cho phí cho hoài! Nếu ngộ ra trong thơ Nguyên Sa rằng:
 

Cuộc đời dẫu có phù vân.
Ở trong mây nổi có phần thiên thu.

Cả thi sĩ lẫn bao người Áo Lụa đều đã qua đời. Phần thiên thu để lại, phải chăng là mùa thu tóc ngắn nhờ nhân gian giữ hộ mầu áo lụa Hà Đông? Có ai cùng tôi vẫn yêu màu áo ấy vô cùng? Hay chỉ đi qua mà không bảo gì nhau?
 

Viết cho linh hồn chị, thích Áo Lụa và thơ Nguyên Sa

Trần Thị Vĩnh-Tường, từ California - 
--
You received this message because you are subscribed to the Google Groups "DiendanTuoiHac" group.

For more options, visit https://groups.google.com/d/optout.
__._,_.___

Posted by: Bich Huyen 

Đã đến lúc rồi đấy!

$
0
0

...Bất cứ cá nhân nào, đoàn thể nào mà vô tình quên hoặc hững hờ đối với nỗi quốc hận nhân ngày “30 tháng Tư Đen” đều mang tội đối với Tổ Quốc, vong ân bội nghĩa đối với Tổ Tiên và các chiến sĩ.
  


...vì sao người Việt thờ ơ? Xin thưa, sự thờ ơ hôm nay của đại bộ phận người Việt là nhờ hoàn toàn nhờ vào công lao của đảng Cộng Sản Việt Nam!...
Sâu xa hơn, bản chất cai trị của nhà nước Cộng Sản đã đẩy đất nước đến chỗ thờ ơ tập thể....
...Và chắc chắn, việc một dân tộc lớn nuốt chửng một dân tộc nhỏ để tìm đất sống không phải là chuyện phim kinh dị mà là nhu cầu tiềm ẩn của những quốc gia có dân số đông, còn man rợ và đói nghèo. Nếu Việt Nam tiếp tục thờ ơ thì cái chết càng mau đến với dân tộc này, chắc chắn là vậy!
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Đã đến lúc rồi đấy!

HOÀI MỸImage result for Tháng Tư năm 1975

Tháng Tư năm 1975, người Việt chúng ta vẫn gọi là “Tháng Tư Đen” để biểu lộ nỗi Quốc Hận. Đen là màu/sắc tối mù, buồn bã, tang tóc, chết chóc. Hận, thứ tình cảm bất bình, căm giận, oán thù. Tình cảnh này không của một cá nhân, một đơn vị mà cả một nước. Nước Việt Nam! Cảm xúc ấy không chỉ hiện hữu nơi một người, nhưng cả một dân tộc. Đồng bào Việt Nam!

Tội nhân gây nên tình cảnh và niềm đau đớn vô bờ và bất biến ấy, hẳn có nhiều, nhưng thủ phạm chủ yếu chính là đảng Cộng Sản Việt Nam.

Xét mà xem!
Chẳng cần nói nhiều, tổng quát chỉ cần nhìn về miền Bắc trước năm 1975 và cả nước Việt Nam sau 1975, ắt biết ngay cả một bức thảm họa, bởi toàn dân cả nam lẫn nữ, già lẫn trẻ... đều giống nhau, cùng chịu chung số phận khốn cực dưới chế độ cộng sản do bọn Việt Cộng vô nhân đạo thống trị. Khởi đầu chúng dụ dỗ bằng chiêu bài “Xã Hội Chủ Nghĩa” (XHCH), lập tức mọi người, không phân biệt giới tính, giai cấp... thảy đều “Xuống Hàng Chó Ngựa”; tới giai đoạn chúng chính thức áp dụng Chủ Nghĩa Cộng Sản, thì như thi sĩ Nguyễn Chí Thiện quả quyết: “Từ người xuống vượn mất có... ba năm,” nhưng khi “đảng ta” quyết tâm “thừa thắng xông lên” thì như câu ca của Phạm Duy: “Từ người xuống vượn mất có... ba hôm.”

Trong khi đó, miền NamViệt Nam Cộng Hòa (VNCH) trước “Tháng Tư Đen” 1975, ngay từ dưới thời đệ nhất Cộng Hòa, mặc dù vẫn phải triền miên lâm vào một cuộc chiến tàn khốc do miền Bắc chủ động theo lệnh của khối Cộng Sản Quốc Tế... nhưng cũng đã trở thành một quốc gia dân chủ, độc lập với nền văn hóa nhân bản, nền giáo dục học đường nặng tính dân tộc, nhân bản và phóng khoáng, với sự tiến bộ về hầu hết lãnh vực như kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học... thảy đều khả quan, vững vàng trên trường quốc tế. Chẳng thế mà Thủ Tướng Lý Quang Diệu của Singapore đã phải công khai “ngả mũ” bái phục - và VNCH đã ngang nhiên trở thành một trong bốn con Rồng Á Châu.

Ừ thì cứ... tạm cho rằng, dù sao cũng đã... lỡ xảy ra “Tháng Tư Đen” mà nếu đảng Việt Cộng (VC) “yêu nước thương dân” thật sự như bọn chúng thường to họng rêu rao thì dịp này chúng đã phải biết “đấm ngực ăn năn tội,” biết chụp cơ hội mà tìm cách thoát ra khỏi gông cùng của Tàu Cộng và bọn Sô Viết... rồi thành thật xóa bỏ chủ nghĩa Cộng Sản Mác-Lê lỗi thời, lạc hậu... để xin “hòa giải hòa hợp” với miền Nam VNCH thì hay biết mấy. Miền Nam vốn đã có sẵn “thượng tầng kiến trúc” hiện đại lẫn “hạ tầng cơ sở” tân tiến; lại có sẵn cả một rừng nhân tài... thì chỉ còn có một hướng tiến lên mà thôi: Tiếp tục phát triển miền Nam - tái thiết miền Bắc. Chẳng bao lâu Việt Nam sẽ trở thành một cường quốc chẳng cứ ở Á Châu mà dư sức để chen chân với thế giới.

Ý tưởng trên không phải của kẻ hèn này đâu mà là quan điểm khách quan của đại đa số chính khách có máu mặt trên thế giới và của hầu hết chuyên gia quốc tế vốn được chứng minh bằng trường hợp của Tây Đức và Đông Đức, của Nhật và Nam Hàn thời hậu chiến.

Thế nhưng, phải thành thật mà phán xét rằng đảng VC, nếu nói toàn lũ ngu si “dốt đặc cán mai” thì cũng chính xác nhưng phải xác quyết mạnh mẽ thêm rằng bọn chúng không còn là người Việt Nam thuần túy nữa, nhưng là những tên phản quốc, phản đồng bào. Bởi thế ngay từ “thuở ban đầu ấy,” chúng đã thực thi văn tự Bán Nước cho ngoại bang và cũng bởi thế đảng VC đã nhẫn tâm nhốt tù cho chết dần chết mòn trên một triệu cựu sĩ quan và công chức cao cấp của chế độ VNCH.Đúng như “câu thơ” sắt máu “Giết! Giết nữa! Bàn tay không ngơi nghỉ...” của Tố Hữu, một thành viên trung kiên trong Trung Uơng Đảng, một kẻ vô cùng trơ trẽn khi lăn lộn gào khóc tiếc thương “Sta-lin! Stalin!” rồi bản thân y đã vô liêm sỉ lại còn dạy con hắn “mất dạy” theo: “Yêu biết mấy nghe con tập nói / Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin...”. Thêm nữa, những lời ca truyền khẩu - như một thứ văn học dân gian thời đại - cũng đã chứng minh trung thực “sự thật phũ phàng,” điển hình như:

- Nam Kỳ Khởi Nghĩa, tiêu Công Lý
- Đồng Khởi vùng lên, mất Tự Do
- Dép râu dẫm nát đời son trẻ / Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai!
- Một năm hai thước vải thô / Nếu đem may áo cụ Hồ ló ra / May quần thì hở lá đa / Chị em thiếu vải hóa ra lõa lồ.
Đồng thời hàng triệu người Việt khác cũng đã phải chấp nhận “chín chết, một sống” trên đường vượt biên, vượt biển để đi tìm Tự Do, bởi không thể sống dưới một chế độ sắt máu, độc tài, độc đảng, phi nhân, phi dân tộc, không thể chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản vô thần, vô nhân đạo...

Đảng VC tiếp tục chơi trò cờ gian bạc lận

Từ sau 1975, cứ tới ngày “30 tháng Tư đen,” nhằm “đánh lận con đen,” đảng VC lại vẫn nỗ lực tổ chức “hoành tráng” ngày này bằng những bài văn thơ chỉ đạo, những thống kê thành tích giả tạo... trên các trang mạng và báo chí quốc doanh và bằng những cuộc “diễu hành” của bộ đội, cán bộ và của thành đoàn sinh viên, học sinh. Dân chúng bị bắt buộc trưng cờ đỏ sao vàng trước cửa nhà. VC lòe bịp thế giới về “sự cố” bằng cách bịa tên là “giải phóng.”

Tuy nhiên đối với người dân trong nước, tuyệt đại đa số bà con cũng đã từng mạnh bạo phát biểu huỵch tọet rằng đúng ra vào ngày này phải là miền Nam tiến ra giải thoát miền Bắc, nào ngờ sự thể xảy ra ngược lại ý muốn nên họ cũng đảo lộn khẩu hiệu “giải phóng” thành tiếng la hoảng: ”Phỏng dái”!

Ngày ấy, khi đồng bào miền Bắc được vào “tham quan” miền Nam, họ đã ngã bật ngửa, nhận chân ra mình bao chục năm qua đã bị “bác và đảng” lường gạt tận tình bởi nay họ đã chứng kiến tận mắt một miền Nam sung túc; dân tình thanh thoải. Trong khi đó các “đồng chí” thứ thiệt cũng tỉnh mộng, giác ngộ, bèn mồm miệng thì văng tục theo thói quen trong “văn hóa XHCN,” đôi tay thì nhanh như chớp thực hiện bốn đại tự V: “Vào - Vơ - Vét - Về.”

Cố nhạc sĩ Nhật Ngân đã ghi lại những cảnh dở khóc dở cười ấy một cách tổng quát nhưng trung thực trong một nhạc phẩm với những câu cụ thể như: “Tôi sẽ đưa anh đi thăm Sài Gòn - Từ lầu cao, từ phố đông cho tới nơi hang cùng ngõ hẹp bùn lầy đọng một chút tối tăm... Tôi sẽ đưa anh hỏi thăm từng nhà; họ sung sướng không, họ có mong anh, mong các anh về giải phóng không anh?” để rồi cuối cùng đặt câu chất vấn; vậy thì “anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh?” Từ “Anh” trong trường hợp này đương nhiên phải là người từ miền Bắc, có thể là một anh bộ độ, anh cán bộ, một anh đảng viên, anh nhân công hay nông dân... Nói đúng hơn, từ “anh” ở đây ngầm ý không chỉ trường hợp cá biệt nhưng đại diện cho đám đông, cho tập thể miền Bắc, bất phân biệt.

Tóm lại, một “anh” đã có công “chống Mỹ cứu nước” hay cả miền Bắc đã từng bị ru ngủ bằng chiêu bài “cách mạng” và “giải phóng,” bằng bùa lú thuốc mê “thống nhất”; nhưng sau ngày “30 tháng Tư Đen” họ đã được “bác và đảng” tưởng thưởng những gì, đền bù gì? Hãy nghe toàn thể dân, quân, cán, chính miền Bắc đồng thanh lớn tiếng trả lời: “Ngày xưa chống Mỹ, chống Tây; Ngày nay chống gậy ăn mày áo cơm”...

Hãy để ý, mỗi năm đảng và nhà nước mỗi ép buộc tổ chức một cách gọi là “hoành tráng” hơn. Dễ hiểu! Lấy thí dụ để giải thích: Một phụ nữ mỗi thời gian mỗi “make up” kỹ hơn, lâu hơn, cầu kỳ hơn. Lý do? Vì “nàng” cần phải dùng son phấn để phủ lấp các nếp nhăn vốn mỗi ngày một lộ rõ hơn.

Việt Cộng cũng nhận ra tình cảm “hồ hởi phấn khởi” nơi toàn thể “nhân dân ta” đã nhạt nhòa rồi bởi đã thức tỉnh trước cái gọi là “giải phóng miền Nam” nên chẳng thèm “liên hoan ăn mừng” nữa. Việt Cộng lo sợ dân chúng từ ý thức ấy mà nhân “ngày 30 tháng 4 đen” để “thừa thắng xông lên” chống đảng, đòi được giải phóng thật sự khỏi chế độ cộng sản độc tài, đòi tự do, dân chủ và nhân quyền. Nên một mặt, Việt Cộng ép buộc các đoàn thể thuộc đảng phải “diễu hành” đông đảo hơn, mặt khác chúng cho tổ chức nhiều hơn những cuộc liên hoan, vui chơi để hy vọng dân chúng... nguôi ngoai nỗi quốc hận.

Đã tới thời điểm!

Thế nhưng mối căm thù của người dân Việt đối đảng VC đã dâng tới tột đỉnh rồi. Người dân đã vạch được bộ mặt thật của bọn lãnh tụ VC: Hèn với giặc - Ác với dân!

Chúng hèn đến độ không dám gọi đúng tên của giặc ngoại xâm: Trung Cộng. Chúng sợ húy, sợ quan thày giận! Bắc Kinh cho quân tiến chiếm các hải đảo của Việt Nam như Hoàng Sa, Trường Sa... vậy mà bọn lãnh tụ VC vẫn nín khe. Tàu Trung Cộng các loại ngang nhiên di chuyển và kiếm ăn trong hải phận Việt Nam, đâm vào tàu bè ngư dân Việt Nam cho chìm... Vậy mà VC vẫn bắt dân gọi là “tàu lạ” chứ không được nêu đích danh Tàu Cộng. Đấy, mới đây bọn Tàu Cộng không cần giấy phép vẫn ngang nhiên xây những dãy phố chệt ở Đà Nẵng, vậy mà chính quyền VC cũng chỉ nhỏ nhẹ nói là “người lạ.” Hèn “hết ý”!

Những người trẻ Việt Nam như Việt Khang, Vũ Anh Bình bày tỏ lòng yêu nước và chống ngoại xâm bằng những bài ca, lập tức đã bị chế độ VC kết án tù bốn năm. Rất nhiều tác giả biết “blog” chỉ để diễn tả một cách ôn hòa những ý kiến xây dựng cũng bị vu khống là “âm mưu lật đổ chế độ, chống phá nhà nước” để rồi bị đánh đập, tù tội có người 5 năm, người cả hơn chục năm. Trong khi đó, từ quan trên xuống hạ cấp thi đua mà cướp đất của dân, bóc lột của cải của người nghèo. Tham nhũng tràn lan. Chúng trấn lột người dân từ trong bệnh viện ra tới vỉa hè. Ai cưỡng lại, chính quyền sai du đãng xông vào “hỏi tội,” cho “xã hội đen” kéo đến “xin tí huyết.” Bạo lực diễn ra ở khắp nơi, kể cả trong trường học và các công tư sở.

Nói tóm lại, xã hội Việt Nam dưới chế độ VC đã và đang tiếp tục “xuống dốc không phanh” về mọi mặt đến độ “hết thuốc chữa”!

Đã 42 năm! Đối với dòng thời gian, quả thật còn ngắn, chưa nhằm nhò gì; nhưng với những nỗi khổ đau, quằn quại của một dân tộc thì kể ra cũng đã dài rồi đó. Người ta nói con giun bị xéo lắm cũng quằn. Người hiền như bụt mà bị đè nén quá cũng chống lại. Chẳng thế mà người dân Việt Nam ở trong nước đã quá uất nghẹn, nay đã dám coi chế độ như “pha,” coi nhà nước chẳng còn ra cái thớ gì nữa. Người dân đã ngang nhiên biểu tình, xuống đường đòi công lý, đòi nhân quyền.

Chủ Nhật, ngày 5 tháng 3 vừa qua là một bằng chứng hùng hồn. Sài Gòn, Huế, Hà Nội, khắp nơi, nầm nập những cuộc biểu tình với mục đích: Chống ngọai xâm Trung Cộng! Đả đảo đang Việt Cộng hèn nhát nhưng lại tàn ác với dân lành, đòi trả lại cho dân đất, biển, ruộng, vườn, trả lại cho Tổ Quốc, cho Dân Tộc độc lập, tự do, dân chủ! Đồng bào ở bốn tỉnh miền Trung, nạn nhân trực tiếp của công ty Tàu Đài Loan Formosa, bất chấp các lực lượng CSCĐ (cảnh sát cơ động) can đảm một lòng đuổi “Formosa, cút khỏi Việt Nam!”, yêu cầu chính quyền trả lại biển sạch, cá sạch cho dân.

Gần và “nóng” nhất là vụ Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Nông dân ở đây đã cương quyết, đúng hơn là đã “liều mạng sa trường” bắt giữ hàng chục tên cảnh sát cơ động khi họ đến thi hành cái gọi là “kế hoạch của nhà nước” nhưng thực tế là nhằm chiếm đất và cướp tài sản của dân! Ở nhiều nơi, dân chúng đã lớn tiếng hát vang “Trả lại cho Dân những gì Dân muốn”... và cờ đỏ sao vàng đã bị xé, bị đạp xuống đất., chân dung Hồ Chí Minh trước “lộng kiếng” nay bị “liệng cống”!

Vâng, với cái đà “thừa thắng xông lên” này, thiết tưởng một cuộc Nổi Dậy của toàn dân Việt Nam sớm muộn gì cũng bộc phát. Chế độ VC đã tới ngày tàn. Và chính bọn đầu xỏ VC cũng đã cảm thấy vậy, thành thử trên 60% trong toàn thể những tên “tai to mặt bự” của đảng và nhà nước đã “mua” sẵn hai quốc tịch để nếu có “biến” thì có nơi mà chạy thoát thân. Vấn đề chỉ còn là thời gian!

Đồng bào hải ngoại...

Mỗi năm đến ngày “30 tháng Tư Đen,” người Việt định cư ở các quốc gia dân chủ trên khắp thế giới cũng đều tổ chức những buổi tưởng niệm tấm tang chung của đất nước, tưởng niệm các vị tiền nhân anh hùng liệt nữ đã có công xây dựng, phát triển và gìn giữ đất nước, các chiến sĩ VNCH đã “vị quốc vong thân” và đồng bào đã bỏ mình vì lý tưởng Tự Do. Cũng nhân mỗi dịp này, người Việt hải ngoại lại một lần nữa lột mặt nạ đểu cáng và gian xảo của các lãnh tụ VC đã chết và còn sống, tố cáo với dư luận quốc tế các tội ác đến độ “trời không dung, đất không tha,” nhất là tội bán nước cho quan thày Trung Cộng... của đảng VC.

Bất cứ cá nhân nào, đoàn thể nào mà vô tình quên hoặc hững hờ đối với nỗi quốc hận nhân ngày “30 tháng Tư Đen” đều mang tội đối với Tổ Quốc, vong ân bội nghĩa đối với Tổ Tiên và các chiến sĩ.

Nay hơn bất cứ lúc nào, đồng bào hải ngoại cần hành động gấp và thật cụ thể trong việc tiếp tay hỗ trợ về mọi mặt - tinh thần lẫn vật chất - cho những cuộc đấu tranh ở trong nước. Phải quan niệm đó chính là một chiến dịch Tiếp Lửa cho quốc nội. Đừng để bất cứ một trường hợp phản kháng nào, nổi dậy nào - dù là của một cá nhân hay một nhóm nhỏ - bị bỏ quên... cho tới một cuộc vùng lên của cả nước thì lúc đó sự Thành Công mặc nhiên đã nằm trong tay của dân tộc Việt Nam. Ngày đó, như trên đã quả quyết không còn xa nữa. Đảng và chế độ cộng sản ở Việt Nam đã như một ngôi nhà mục nát - “thượng tầng cơ sở” thì chia rẽ; kẻ bỏ đảng, người phản tỉnh, xét lại chủ nghĩa - “trung tầng cơ sở” đã bị mối mọt tham ô, tham nhũng ăn dần mòn, bị vi khuẩn đố kỵ, vô trách nhiệm... đục khóet - “hạ tầng cơ sở” ngu dốt, vô ý thức, chỉ biết “sai đâu đánh đó” nhưng lại giỏi nhanh chân tẩu thoát.

Thử hỏi, một căn nhà như thế chỉ cần một luồng gió tương đối mạnh là sập tan tành ngay. Trong khi đó chung quanh căn nhà đã đứng sẵn biết bao người dân với bó lửa trong tay chỉ để, nếu cần kết thúc mớ tàn dư, thứ cặn bã của căn nhà cộng sản đó. Ngày đó không còn xa nữa! Rất mong lắm thay! (hm)

__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

Kịch bản 75'

$
0
0

Thư mời đặc biệt
Xin lấy câu ca để dùng làm lời mời. Có đến chơi với tôi thì đến ngay bây giờ. Đừng để ngày mai, khi tôi đi xa rồi thì làm sao mà hàn huyên hay bắt tay nhau. Xin mời bằng hữu đến gặp nhau vào những dịp hết sức đặc biệt như sau.
1)Lễ giỗ các anh hùng tại Viet Museum. Trên đường Pheland góc Senter. Bảo tàng vừa tân trang với nhiều mới lạ. 11 giờ trưa thứ bẩy 29 tháng 4-2017 do đoàn Lam Sơn Hoàng Mộng Thu tổ chức. Thắp hương các vị tuẫn tiết. Gặp các gia đình . Văn nghệ đấu tranh. Ăn giỗ với 5 con heo quay. Vào cửa tự do. Không phải mua vé.
2) Nguyễn Ngọc Hạnh. 3 giờ chiều thứ bẩy 29 tháng 4-2017 là giờ phủ cờ và tưởng niệm trung tá Nguyễn Ngọc Hạnh tại nhà quàn Oak Hill. Nhiếp ảnh gia danh tiếng của QLVNCH. Xin đến tham dự. Không thể bỏ qua.
3) Võ đại Tôn Thứ bẩy kế tiếp 6 giờ chiều ngày 6 tháng 5-2017 xin mời đến trung tâm sinh hoạt cộng đồng Việt Mỹ, San Jose gặp ông Võ đại Tôn từ Úc Châu qua. Dự trù có thực đơn nhẹ và thảo luận nặng.
4) Museum tiếp tân 11 giờ trưa chủ nhật 7 tháng 5-2017 Viet Museum tiếp tân toàn khách phương xa từ Úc Châu, Âu Châu và các tiểu bang Hoa Kỳ về đi đại hội Nghĩa Trạng Biên Hòa
5) Nghĩa Trang Biên Hòa 1 giờ chiều chủ nhật hội thảo về diễn tiến việc trùng tu Nghĩa Trang Biên Hòa tại trường YB, San Jose
6) Diễn hành 2017 tại Nữu Ước  6 giờ chiều, các quan khác phương xa cùng chúng tôi tham dự tiệc gây quỹ diễn hành 2017 tại Nữu Ước. Tiệc tổ chức tại nhà hàng Phú Lâm.Xin mời và nhắc nhở bằng hữu tham dự tất cả các chương trình kể trên.                      ****Hiện nay tai hải ngoại có các công trình   ý nghĩa, thành công và liên tục. Đó là Cảm ơn anh người thương binh. Chương trình diễn hành tại NY, chương trình tái thiết Nghĩa trang, chiến dịch cờ vàng, dạy Việt Ngữ v v là các nỗ lực đáng quan tâm tham dự. Xin loan báo và nhắc nhở bằng hữu. Sau cùng nhân dịp 30 tháng tư năm 2017, xin gửi anh chị em một bài tham luận về giá thuyết làm sao ngày 30 tháng tư đã không xảy ra. Đó là Kịch bản 75. Như sau...

Kịch bản 75'
Lời nói đầu:                                             
Gần nửa thập niên qua, chỉ một câu hỏi. Chuyện tháng tư 1975 có thể khác được không. Câu trả lời là Kịch bản 75. Từ cuối năm 74, anh em Tổng tham mưu chúng tôi cũng đã có bàn đến một cuộc cách mạng toàn dân Miền Nam để tồn tại. Đã soạn tài liệu tương tự như Kịch bản này. Cá nhân tôi đã suy nghĩ cùng các bạn và dự trù nhờ đại tá Đỗ Đức Tâm đưa cho tổng thống Thiệu. Anh Tâm làm bên võ phòng phủ tổng thống. Nếu phải theo hệ thống quân giai thì vô phương. Nhưng ý kiến này trở thành vô vọng để rồi cuối tháng tư 75 trở thành tuyệt vọng. Năm 1995, sau 20 năm miền Nam dưới chế độ cộng sản, câu hỏi cũ lại sống lại. Tôi ngồi viết Kịch Bản 75, tưởng tượng ra hoàn cảnh của một cuộc cách mạng vào giờ thử 25. Kịch bản phổ biến ra nhưng độc giả tri kỷ không có được mấy người. Mỗi năm tôi đem ra đọc lại vào tháng tư.
Tôi cương quyết nghĩ rằng vào những ngày tháng cuối cùng đó, không thể nào có người Trời xuống cứu được . Chỉ còn ông Thiệu, với đầy đủ uy quyền và còn giữ vững hệ thống chỉ huy. Ông phải trở thành một người khác thì Kịch bản 75 mới thực hiện được Bài báo phố biến cho bằng hữu, ai cũng cho là chuyện tưởng tượng điên khùng. Chỉ có duy nhất một độc giả tri kỷ vẫn gọi điện thoại đóng góp ý kiến vào mỗi tháng tư. Người đó là ông Phan Lạc Phúc từ Úc Châu. Ông Phúc rất thương yêu giải pháp Đánh bằng cùi trỏ... Bây giờ ông Phúc ra đi từ lâu rồi. Tôi vẫn gửi đến các bạn Kịch bản 75 xưa cũ. Để tưởng nhớ niềm đau quốc hận, để tưởng nhớ bạn hiền. Trời đất mang mang, ai người tri kỷ...                                                Giao Chỉ, San Jose
Đêm không ngủ:
Khi tiếng kêu tuyệt vọng của đại tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn 23 yêu cầu không quân dội bom trên đầu, thị xã Ban mê Thuột đang ở những giờ phút cuối.
Đó là đêm 13 tháng 3 năm 1975.
Sau khi đánh thăm dò lấy được Phước Long, tiếp theo trận chính thức mở màn hạ xong Ban Mê Thuột, từ cao nguyên Văn Tiến Dũng báo tin chiến thắng về Hà Nội. Lê Duẩn cho lệnh phát động chiến dịch Hồ chí Minh. Bắc quân mở 3 mặt trận tổng tấn công miền Nam. Từ Phước Long đánh xuống Sài Gòn. Từ Cao nguyên cắt ngang duyên hải và từ Hỏa tuyến đánh thẳng vào Thừa thiên.
Đó là đêm 13 tháng 3 năm 1975.
Tổng Thống Thiệu vẫn còn ngồi trên bàn viết ở cánh phải dinh Độc lập. Ông xem lại xấp hồ sơ của bộ tổng tham mưu trình bày về khả năng giữ đất theo mức quân viện do trung tướng Đồng Văn Khuyên trình lên đầu tháng 2. Tài liệu này ban tham mưu Mỹ và Việt ước tính với tình trạng viện trợ cắt giảm hiện nay thì sẽ phải bỏ gần hết lãnh thổ vùng I và II
Hồ sơ màu đỏ của tướng Ted Serong đề nghị các cuộc triệt thoái chiến lược khẩn cấp. Tuy nhiên viên tướng Úc chuyên về nghiên cứu chiến trường ghi rõ kế hoạch của ông phải thi hành từ cuối năm 1974. Qua đến 1975 thì vô phương vì quá muộn. Trên bàn viết có những hàng chữ gạch xóa. Bỏ Pleiku, tái chiếm Ban Mê Thuột ? Bỏ Huế, giữ Huế? Đem Dù về Sài Gòn. Bọn Mỹ phản bội. Từ chức hay ở lại?
Vị tổng thống miền Nam viết xuống những suy tư trong hoàn cảnh hết sức bối rối cô đơn. Đó là đêm 13 tháng 3 năm 1975
Quay qua xấp hồ sơ mầu xanh của bộ tổng tham mưu mới được đại tá Đỗ Đức Tâm trình hồi chiều. Tổng Thống Thiệu hờ hững cầm lên đọc đoạn mở đầu :
Kế Hoạch Diên Hồng 75                                      “Giải pháp sau cùng cho miền Nam ”.
Lấy chiến tranh nhân dân chống chiến tranh nhân dân. Đi vào chỗ chết để tìm đường sống.
Ông Thiệu sững sờ đọc đi đọc lại các tựa đề. Đây là loại văn tài liệu viết báo chứ đâu phải văn thư trình tổng thống. Không có gì chứng tỏ đại tướng Cao Văn Viên đã duyệt qua báo cáo này.
Ông bắt đầu giở từng trang. Toàn bộ kế hoạch do 5 đại tá của bộ Tổng tham mưu soạn thảo với các giải pháp hết sức quyết liệt để cứu miền Nam vào những giờ phút tuyệt vọng.
Ông Thiệu ngả người xuống ghế salon, và mở từng trang ra đọc. Đêm hôm đó ông hoàn toàn không ngủ.
Đó là đêm 13 tháng 3 năm 1975

Bình minh của tổng thống.

Sáng sớm ngày 14/3/75, vị tổng thống miền Nam mới chợp mắt trên ghế salon ngay trong văn phòng. Bà Thiệu từ trên lầu 3 phía hậu dinh đi xuống hai lần nhưng không dám làm ông thức giấc.
Khi những tia nắng sáng soi vào hành lang, tổng thống Thiệu tỉnh giấc, lập tức ra lệnh cho đại tá Võ Văn Cầm, chánh văn phòng hủy bỏ chuyến bay dự trù cho buổi họp tại Cam Ranh. Đại tá Cầm nhận lệnh tất tả về lại văn phòng kêu điện thoại. Buổi họp Cam Ranh dự trù có tướng Phú quân đoàn II, tướng Quang cố vấn an ninh, đại tướng Viên và thủ tướng Khiêm sẽ không thực hiện như đã dự trù.
Tổng thống quyết định chủ tọa một buổi họp khác tại bộ tổng tham mưu tổ chức cấp thời lúc 11 giờ trưa.

Hội nghị Diên Hồng của quân lực VNCH.

Ông điện thoại liên lạc thẳng cho tướng Trần Văn Hai, tư lệnh sư đoàn 7 tại căn cứ Đồng Tâm Đại tá Trần Thanh Điền đứng bên nghe được những lời sau cùng tổng thống Thiệu nói với vị tướng sư đoàn 7 bộ binh.
“Tôi nhờ anh Điền đem bà xã và gia đình xuống Đồng Tâm.  Anh lo hộ cho gia đình tôi trú ngụ dưới đó. Sau cuộc chiến này tôi sẽ gặp lại”.
Đại tá Vũ Quang Chiêm, chánh võ phòng và đại tá Điền, trưởng khối cận vệ cùng nhìn nhau. Tiếng nói của tổng thống Thiệu nghe hơi lạ. Qua một đêm, ông Thiệu hình như trở thành người khác.
Ban hành thêm một số chỉ thị, ông cầm xấp hồ sơ bìa xanh của bộ tổng tham mưu đi lên lầu. Đại tá Võ văn Cầm bước theo, tay cầm giấy bút ghi lại các khẩu lệnh.
Tổng thống vừa đi vừa nói.
”Việc bàn giao giữa nội các của ông Khiêm và ông Cẩn cho làm gấp. Anh phụ nhà tôi kiếm một bộ quân phục với cấp bậc thời kỳ lãnh đạo quốc gia cho tôi. Xem chừng chật rồi.
Mời phó tổng thống, thủ tướng Khiêm và ông Nguyễn Bá Cẩn chiều nay họp với tôi trong bộ tổng tham mưu.
Tôi muốn tất cả các sĩ quan từ cấp đại tá trở lên họp mặt tại trại Trần Hưng Đạo trưa nay. Trình với đại tướng Viên thu xếp cho mọi người ăn trưa. Cơm tay cầm được rồi. Nói Trung tướng Đồng Văn Khuyên chuẩn bị cho tôi tài liệu đầy đủ về tiếp vận. Nói với các tướng lãnh từ nay tuyệt đối không thông báo công việc và tin tức cho Hoa Kỳ.”
Đại tá Cầm bèn hỏi lại:
Như vậy sẽ phải tin cho đại tướng tổng tham mưu trưởng…
Dừng lại ở cửa phòng, ông Thiệu nói chậm rãi:
Không, từ nay tôi sẽ kiêm tổng tham mưu trưởng, đại tướng Viên sẽ là cố vấn cho tôi. Tôi sẽ làm việc bên bộ tổng tham mưu.
Tôi giao cho các anh giữ dinh Độc Lập với cụ Hương. Đánh xong trận này tôi sẽ trở lại.”
Quả thực cũng như ông Điền và ông Chiêm, đại tá Cầm sững sờ khi thấy ông Thiệu trở thành một người khác

Phiên họp lịch sử.
Lần đầu tiên cờ 3 sao của trung tướng Nguyễn văn Thiệu bay trở lại trên tòa lầu chính. Từ nhiều năm qua cờ 4 sao của đại tướng Viên đã không được treo theo lệnh của chính vị tổng tham mưu trưởng.
Câu lạc bộ sĩ quan trở thành nơi họp đại hội đồng quân lực gồm tất cả các đại tá và tướng lãnh tại bộ tổng tham mưu. Hơn một trung đội quân cảnh được huy động gác vòng trong vòng ngoài.
Một trăm ổ bánh mì Bưu điện đặt trên bàn nhưng dường như không ai đụng đến.
Ngồi sau một bàn nhỏ đơn độc từ phía trên ngó xuống, trung tướng Thiệu mặc quân phục 3 sao bắt đầu bằng giọng bình dân cố hữu nhưng có phần xúc động.
“Cố vấn Mỹ bảo tôi bỏ đất Cố vấn Úc cũng bảo tôi bỏ đất. Pháp bảo tôi hòa giải với cộng sản. Hoa Kỳ bảo tôi phải ra đi. Chính khách Saigon đề nghị lập chính phủ liên hiệp. Cộng sản bảo rằng không nói chuyện với Thiệu. Cũng không liên hiệp với cụ Hương.
Nixon không còn nữa, Ford không phải là tổng thống do dân bầu nên không quyết định. Hoa Kỳ đã dứt khoát quay lưng lại Việt Nam.
Tất cả đều nói là Thiệu cản trở hòa bình. Thiệu phải ra đi.
Đêm hôm qua tôi đã chuẩn bị đi Cam Ranh để ban hành lệnh tái phối trí rất quan trọng. Nhưng nay tôi quyết định ở lại.
Không phải chỉ là không đi Cam Ranh. Tôi sẽ không đi đâu cả. Tôi quyết định ở lại và sống chết với anh em."
Vừa nói đến đây, ông Thiệu nghẹn lời và cả hội trường bừng lên tiếng vỗ tay vang dậy.
Chờ cho cơn xúc động chấm dứt. ông Thiệu nói tiếp.
-“Tôi sẽ không từ chức. Từ nay, tôi sẽ là tổng tư lệnh kiêm tổng tham mưu trưởng bộ tổng tham mưu. Khi tôi nói chuyện với các anh ở đây thì nhà tôi và các cháu đã về quê Mỹ Tho. Với tính bông đùa cố hữu, ông Thiệu nói. Mỹ Tho chứ không phải là Mỹ quốc.”
Ông cao giọng:.
Sẽ không có thằng Tây thằng Mỹ nào đuổi tôi đi đâu được. Bởi vì sau tôi sẽ không còn gì cả. Sau tôi chỉ còn cộng sản.”
Tiếng vỗ tay lại một lần nữa nổi lên cùng với sự hân hoan hiện trên mặt các sĩ quan của bộ tổng tham mưu hiện diện.
Tổng thống nói tiếp:
Người ta nói với tôi là quân viện không có, lòng người không có, bây giờ tiếp tục đánh thì đánh bằng cái gì. Tôi trả lời ngay cho các anh hôm nay. Lòng người không có thì làm cho có. Cháo nguội thì hâm lên cho nóng. Còn phương tiện không có thì, ...
Nói đến đây ông nhấn mạnh từng chữ một:
“Đánh bằng cùi chỏ.”
Vừa nói ông vừa đưa khuỷu tay lên.
Lại một lần nữa, chữ nghĩa và hành động của ông tạo xúc động lớn lao cho cử tọa.
Tiếng vỗ tay cuồng nhiệt kéo dài…
Khi mọi người dịu xuống, ông nói vào vấn đề:
-“Như các anh đã biết, chúng ta đã xây dựng miền Nam qua 20 năm, có trật tự thanh bình và tự do dân chủ. Suốt cuộc đời binh nghiệp tôi không hại ai. Suốt cuộc đời chính trị tôi không giết ai. Anh em sĩ quan cao cấp chúng ta, ai cũng đã có thời trách nhiệm lãnh đạo chỉ huy, bây giờ là lúc sống chết. Bây giờ không phải là lúc tham quyền cố vị mà ở lại. Muốn có hòa bình, muốn có thương thuyết, muốn có hòa giải phải ở vào thế mạnh. Đêm hôm qua tôi đã đọc hết tài liệu đề nghị của các anh em đại tá tại bộ tổng tham mưu. Các anh đưa cho đại tá Đỗ ĐứcTâm trình tôi. Sáng nay tôi hỏi lại thì đại tướng tổng tham mưu trưởng cũng không biết. Nhưng không hề chi. Tôi chấp thuận kế hoạch này. Tôi đồng ý đây là giải pháp cuối cùng. Lấy chiến tranh nhân dân để chống lại chiến tranh nhân dân. Kể từ giờ phút này anh em chiến hữu ngồi với tôi hôm nay là thành viên của hội nghị Diên Hồng. Các anh cũng là thành viên của hội đồng an ninh quốc gia mở rộng.
Tôi quyết định ban hành lệnh tổng động viên toàn miền Nam theo kế hoạch Diên Hồng 75. Từ nay không phải chỉ có thanh niên đi lính mà là toàn dân đánh giặc.
Không cắt đất, không bỏ dân, không rút quân, không tái phối trí. Ở đâu ở đó. Sức yếu thì co cụm lại. Còn sức thì bung ra. Địch pháo thì đào hầm mà chui xuống. Hết pháo thì chui lên mà đánh.
Nội chiều nay, tôi sẽ họp nội các chiến tranh với cụ Hương và các tướng lãnh. Sẽ công bố việc bổ nhiệm nhân sự cho các quân khu, các quân đoàn, các sư đoàn, các tiểu khu và các đô thị.
Với chủ trương toàn dân đánh giặc thì các trường trung học và đại học sẽ trở thành các trại binh. Sẽ không học hành gì từ nay cho đến hết năm 1975. Hai mươi năm qua chúng ta vừa chiến đấu vừa xây dựng. Chiến tranh có hậu phương có tiền tuyến. Có dân sự có quân sự. Nhưng bây giờ sẽ chỉ có chiến đấu mà tạm gác phần xây dựng. Sẽ chỉ có tiền tuyến mà không có hậu phương. Sẽ chỉ có quân sự mà không còn dân sự.
Ông kết luận:
“Tôi nghĩ rằng các anh đã hiểu được ý của tôi cũng như tôi đã hiểu được đề nghị của các anh gởi đến cho tôi đọc đêm hôm qua. Xin nói thêm rằng, sau trận này, tương lai đất nước nằm trong tay các anh, những sĩ quan trẻ của quân đội.
Bây giờ các anh về suy nghĩ xem mỗi người phải làm gì. Phải làm ngay lập tức. Cộng sản đã giữ thế chủ động từ 1968 qua 1972 cho đến nay trên chiến trường và trên bàn hội nghị. Bây giờ chủ động phải là phần của chúng ta. Dù phải chết, chúng ta cũng sẽ chủ động chọn cho mình cái chết xứng đáng Tôi cho ban hành ngay toàn bộ kế hoạch Diên Hồng 75 từ giờ phút này…
Hội nghị giải tán, rải rác đó đây trên mặt bàn còn lại những khúc bánh mỳ Bưu điện. Ông Thiệu cầm phần bánh mỳ nói với sĩ quan tùy viên cho vào cặp sách. “Lát nữa ăn”
Nội các chiến tranh:
Buổi họp của nội các chiến tranh 75 bao gồm cả 2 vị thủ tướng cũ và mới. Đại tướng Trần thiện Khiêm và ông chủ tịch hạ viện Nguyễn Bá Cẩn. Các vị tân bộ trưởng gồm đủ mặt, các bộ trưởng cũ hiện diện được hơn phân nửa. Ông Thiệu lại nhắc qua về nội dung hội nghị Diên Hồng buổi trưa và vận động mọi thành viên tích cực trong giai đoạn cam go nhất của đất nước. Như đã chuẩn bị trước, ông trao tặng cho các vị bộ trưởng dân sự mỗi người một nón sắt nhà binh và một xẻng gấp cá nhân. Ông nói mỉa mai rằng đây là món quà cuối cùng của Mỹ giúp Việt Nam chiến đấu.
Sau đó các vị bộ trưởng và chuyên viên ra về, thành phần chính phủ thu hẹp được ngồi lại nghe tổng thống Thiệu ban hành các chỉ thị cụ thể. Trong các bộ trưởng, ông mời riêng luật sư Vương Văn Bắc ngồi lại.
Với tình thế biến chuyển và nhận thấy tổng thống Thiệu dường như trở thành con người khác với một quyết tâm hết sức mãnh liệt, các vị trong nội các và tướng lãnh hết sức ngạc nhiên. Tuy nhiên gần như không ai đóng góp ý kiến hay đặt câu hỏi, trừ phó tổng thống Trần Văn Hương. Ông Thiệu cho biết, từ nay ông sẽ đặt văn phòng tại bộ tổng tham mưu làm việc trực tiếp với các tư lệnh quân khu. Ông đặt 2 vị tướng cao cấp trong chức vụ cố vấn. Đại tướng Viên cố vấn quân sự và đại tướng Khiêm cố vấn nội vụ.
Ông cho biết là ngay buổi chiều, sau hội nghị Diên Hồng tại câu lạc bộ tổng tham mưu, ông đã điện thoại ra lệnh bổ nhiệm các chức vụ tư lệnh quân đoàn kể từ ngày 15-3-1975. Tổ chức miền Nam thành các quân khu độc lập trong cuộc chiến phòng thủ diện địa. Vùng 4 chia làm 2 quân khu. Tiền Giang và Hậu Giang.
Tướng Lê Văn Hưng phó của ông Nam lên làm tư lệnh quân khu Hậu Giang. Chủ lực là sư đoàn 21, trang bị để thành lập thêm một sư đoàn biệt động quân và một sư đoàn Bảo An Hòa Hảo.
Tướng Trần văn Hai, tư lệnh quân khu Tiền Giang với sư đoàn 7 bộ binh và thêm một sư đoàn biệt động quân tân lập.
Tướng Nguyễn Khoa Nam ra thay tướng Ngô Quang Trưởng tại quân khu I. Tổng thống nói thêm: “Anh Thọ phòng 3 TTM nghiên cứu ngay cho tôi xem có cần chia miền Trung ra 2 khu vực phòng thủ Bắc và Nam Hải Vân? Ngay bây giờ thì ông Nam vẫn trách nhiệm toàn thể miền Trung. Vùng II cũng chia làm đôi. Tướng Nguyễn Văn Toàn hiện từ Biên Hòa trở lên thay thế tướng Phú trên quân khu Cao nguyên. Phần đất của quân khu Duyên hải có vị tư lệnh mới là tướng Hoàng cơ Minh. Còn vùng III giao cho tư lệnh phó là tướng Nguyễn Văn Hiếu. Phó tổng thống Trần Văn Hương hết sức hài lòng với việc bổ nhiệm vị tướng lãnh thân thiết của ông vào chức vụ tư lệnh quân khu miền Đông. Nhưng cụ vẫn thắc mắc về việc tiếp tục xử dụng tướng Toàn. Ông Thiệu cho biết ông Toàn là người đã từng ở Pleiku và bây giờ tình nguyện trở lại.
Tình thế hiện nay gần như không có vị tướng nào có khả năng mà lại tình nguyện lên cao nguyên. Qua điện thoại tướng Toàn có hỏi ông Thiệu là được đem theo những ai, sẽ được yểm trợ gì khi lên vùng II. Tổng thống trả lời là anh đem theo một cỗ quan tài và anh sẽ chết ở Pleiku. Tướng Toàn hiểu ý và đáp ngay bằng tiếng Pháp:
A vos ordres Monsieur le President,                  Xin tuân lệnh ngài tổng thống.
Với tướng Nguyễn Khoa Nam, tổng thống Thiệu nói riêng: “Anh sẽ thường trực tại Huế và trấn giữ đèo Hải Vân”.
Tướng Nam thưa rằng: Tôi hiểu ý tổng thống. Huế là quê hương của tôi.
Ông Thiệu tiếp lời, Tôi sẽ rút toàn bộ nhẩy dù về Saigon. Anh phải dùng tất cả 3 sư đoàn 1,2 và 3 cho mặt trận Quảng Trị. Tái tổ chức địa phương quân, nghĩa quân cho các tỉnh duyên hải. Thành lập một sư đoàn biệt động quân phòng thủ Đà Nẵng.Với tổng kho Đà Nẵng, toàn thể quân dân miền Trung sẽ trở thành một quốc gia biệt lập. Anh sẽ không trông cậy gì ở Saigon. Nam hiểu không? Sẽ không có chuyện di tản. Có thể hy sinh một vài thị trấn phía nam Đà Nẵng nhưng phải giữ Huế bằng mọi giá. Lập một danh sách những người lần lượt thay thế khi Nam nằm xuống. Tôi sẽ chỉ thị cho tư lệnh hải quân tăng cường tối đa cho đề đốc Hồ Văn kỳ Thoại hải pháo bờ biển Quảng Bình rồi dùng toàn thể sư đoàn thủy quân lục chiến tấn công cửa Việt để giải tỏa áp lực phía Bắc.
Tướng Nguyễn Khoa Nam vô cùng xúc động trả lời: Em xin hết sức, thưa đại ca. Đây là ngôn ngữ ông Nam thường dùng để nói với Tổng thống.
Nghe xong chuyện điện thoại do ông Thiệu kể lại, cụ Hương hỏi thêm về chức vụ tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tổng thống cho biết tướng Lê nguyên Vỹ tân tư lệnh từ Lai Khê bay về đang đi thanh sát vòng đai phòng thủ Sài Gòn. Sư đoàn 5 bộ binh giao cho đại tá Hồ ngọc Cẩn cùng với sư đoàn biệt đông quân mới thành lập sẽ chuẩn bị đánh Lộc Ninh. Quận lỵ này đang được coi là thủ đô của Việt cộng miền Nam.
Tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn cho biết nội các của ông còn thiếu nhiều nhân sự. Với hoàn cảnh hiện nay nhiều chuyên gia và nhân sĩ ngần ngại tham chính.
Tổng thống Thiệu nói rằng: “Hiện có nhiều trung tướng và thiếu tướng rất có khả năng nhưng chưa có chức vụ. Sau khi đưa một loạt tướng trẻ ra cầm quân, các tướng lãnh thâm niên có thể tạm thời qua làm việc với tân nội các, ít nhất là trong năm nay”.
Quay sang ông Cẩn, tổng thống nói tiếp: “Anh về thuyết trình cho quốc hội vận động tất cả nghị sĩ và dân biểu đưa vợ con về đơn vị gốc để cùng sống chết với cử tri. Sau đó anh cho các vị bộ trưởng và chuyên viên nghiên cứu để làm sao cho toàn thể xã hội có cuôc sống thích ứng với hoàn cảnh chiến tranh. Kể từ ngày 15/3/1975 lệnh giới nghiêm ban hành trên toàn thể miền Nam. Các trường học tráng niên đóng cửa. Quân sự hóa toàn quốc. Các xe tư nhân cấm lưu thông, các xe hàng trưng dụng để chở quân và dành cho các chương trình huấn luyện. Bộ tổng tham mưu tăng cường cho TQLC và nhẩy dù mỗi sư đoàn thêm một lữ đoàn tân lập. Thành lập 6 sư đoàn Biệt động quân cho các quân khu và Biệt khu Thủ đô. Dùng các tiểu đoàn và liên đoàn biệt động quân làm nòng cốt. Trang bị lại cho 1 sư đoàn Hòa Hảo và một sư đoàn Cao Đài bằng tất cả vũ khí hiện có”.
Tướng Nguyễn Khắc Bình được lệnh thành lập tại mỗi tỉnh một lữ đoàn cảnh sát và cũng như vậy tại các quận đô thành. Ông Bình báo cáo là toàn quốc hiện có 130,000 cảnh sát sẵn sàng chiếu đấu. Tổng thống nói tiếp. Luật sư Bắc cho lệnh các tòa đại sứ vận động toàn thế giới tự do lên tiếng và yểm trợ cho Việt Nam. Vận động nhận lính tình nguyện, nhận viện trợ dầu xăng. Yêu cầu thế giới tự do áp lực Trung Cộng. Riêng ông bộ trưởng, tôi muốn ông công khai loan báo tìm đường để Việt Nam Cộng Hòa mật đàm với Anh, Pháp, Trung Cộng và Nga Sô. Thu xếp họp song phương. Nói chuyện riêng với từng nước.
Danh sách cộng sản nằm vùng tại Saigon đã có sẵn. Tổng giám đốc công an Saigon sẽ hành quân cảnh sát trong đêm 15/3/75 đem nhốt chung vào khu phái đoàn cộng sản trong Tân sơn nhất cùng với ủy hội quốc tế.
Tổng thống ra lệnh rõ ràng cho tướng Nguyễn Khắc Bình: Anh nói với tòa đại sứ Mỹ trong một tuẩn lễ phải đưa cộng sản, thân cộng và ủy hội quốc tế ra khỏi miền Nam. Muốn đem đi đâu thì đem.
Tướng Bình dè dặt hỏi lại: Nếu Mỹ không làm được thì sao. Còn dư luận quốc tế.
Ông Thiệu đáp ngay: Cho công binh gài mìn chung quanh. Đúng một tuần không chở đi thì cho nổ luôn. Chắc chắn nó sẽ chở đi. Anh muốn không phải nổ mìn thì ngày mai anh cắt điện, cắt nước, không tiếp tế thực phẩm. Ba ngày là Mỹ phải đem C130 chở đi hết.
Còn quốc tế không cần lo. Mình chết quốc tế có quan tâm không. Mình đánh quyết tử còn cần gì dư luận quốc tế.
Quay lại phía các vị đại tá của phủ tổng thống Võ văn Cầm, Vũ Quang Chiêm, Trần Thanh Điền, Đỗ đức Tâm, tổng thống nói thêm. Từ nay tôi tuyệt đối không tiếp xúc, không liên lạc với Hoa Kỳ. Về ngoại giao tòa đại sứ gặp ngoại trưởng Vương văn Bắc, về tiếp vận quân sự gặp trung tướng Đồng Văn Khuyên. Các chính khách, các vị lãnh đạo tôn giáo nếu cần thì gặp thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn.
Khi thấy tướng Khuyên đứng lên nhận chỉ thị, Tổng thống Thiệu nói tiếp, ông tuớng Khuyên,  tiếp vận lấy hết sáng kiến để giúp cho đất nước tiếp tục đánh giặc bằng cùi chỏ. Bảo vệ tổng kho Long Bình, kho đạn Thành Tuy Hạ, kho xăng Nhà bè. Ông làm sao tất cả xe phải chạy được, thiết giáp phải lăn bánh, tàu bay phải bay. Cho hoạt động công khai dự án công binh xưởng lâu nay vẫn dấu Mỹ. Ưu tiên đạn M16, lựu đạn, xẻng cuốc và dao đánh cận chiến. Tập trung tất cả thợ máy dân sự, thợ hàn, thợ tiện để chắp vá cho mọi thứ chạy việc. Ông có toàn thể khối chuyên viên dân sự đưa vào làm việc Chỉ cần đào hầm chạy pháo, khi nó đến gần thì chui lên dùng dao bếp mà chiến đấu.
****

Sau đó trong 45 ngày liên tiếp từ 15 tháng 3 đến 30 tháng 4-75, cuộc chiến khốc liệt đã xẩy ra trên toàn thể miền Nam.
Với 3 sư đoàn cơ hữu, sư đoàn 1, 2 và sư đoàn 3 tướng Nguyễn khoa Nam chặn địch tại phòng tuyến sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Tổn thất hết sức cao.
Sư đoàn thủy quân lục chiến đổ bộ vào cửa Việt đánh bọc hậu 2 sư đoàn cộng sản gây bất ngờ cho Hà Nội, nhưng bên ta bị tổn thất nặng nề. Chỉ một nửa quân số lính mũ xanh mở đường máu, trở về được bên này phòng tuyến. Hà Nội phải mở chiến dịch phòng vệ toàn bộ duyên hải miền Bắc và đồng thời hết sức lo lắng vì Trung Cộng đề nghị đem chí nguyện quân vào tiếp tay. Tàu vào được sẽ trở thành chủ động trong chiến tranh Việt Nam. Cho đến cuối tháng 4, hồng quân Trung Hoa vẫn còn trấn đóng 2 quân đoàn ở biên giới.
Trong suốt một tháng rưỡi làm tư lệnh quân đoàn 1, tướng Nguyễn Khoa Nam chưa bước chân vào Đà Nẳng. Ông ở lại với bộ tư lệnh tiền phương tại Huế và luôn luôn có mặt tại tuyến đầu Quảng Trị. Đà Nẵng và các thành phố xứ Quảng toàn thể quân dân được lệnh tử thủ, ở đâu ở đó, sống chết tại chỗ.
Tại quân đoàn II mặt trận cao nguyên bị nhiều tổn thất. Kon Tum bị tràn ngập. Quảng Đức hoàn toàn thất thủ sau những trận đẫm máu.Tất cả các tiểu khu và các đơn vị đều hy sinh từ tỉnh trưởng đến các binh sĩ. Tướng Toàn nằm dưới căn hầm hết sức kiên cố trong suốt tháng tư đã làm cho Pleiku trở thành một An Lộc của năm 75. Chịu đựng có khi lên đến 5000 quả pháo một ngày, nhưng đến 30 tháng 4 vẫn còn liên lạc được với Saigon. Tướng Hoàng Cơ Minh tân tư lệnh ngày đêm hoạt động trên mặt trận duyên hải. Đón quân tại đây rồi lại đổ quân tại chỗ khác. Tưởng mất Quy Nhơn rồi lại lấy lại được. Nha Trang cũng cùng chung số phận. Lúc mất lúc còn.
Trên cao nguyên sau hai tuần lễ chưa dứt điểm Pleiku, cộng sản quyết định tiếp tục bao vây quân đoàn II nhưng đem đại quân đánh thẳng xuống duyên hải. Saigon đưa toàn bộ sư đoàn Dù mở mặt trận Khánh Dương chặn đứng địch quân. Toàn bộ không quân chiến thuật miền Nam tập trung tại Cam Ranh giúp cho nhẩy dù phá tan 2 sư đoàn của địch tại đây.
Tại miền Nam, Tướng Lê văn Hưng tân tư lệnh quân khu Hậu Giang tuyên bố dùng toàn dân quân giữ vững miền Tây. Ông sẽ chỉ giữ lại sư đoàn 21 trải dài từ Cần Thơ đến Cà Mâu. Tướng Hưng rất vui mừng có được sư đoàn Hòa Hảo và sư đoàn Biệt động quân tân lập. Nếu Hậu Giang ổn định, sẽ chuẩn bị để đưa sư đoàn 21 lên tăng cường cho miền Đông.
Lệnh xuất quân tại Mỹ Tho tiễn đưa sư đoàn 9 lên đường đánh giặc tại miền Đông. Để trắc nghiệm khả năng cho cuộc chiến mới, mỗi trung đoàn có một tiểu đoàn trang bị nhẹ hoàn toàn đi bộ. Phần còn lại đi bằng xe đò dân sự. Dân Sài Gòn đứng hai bên đường đón đoàn quân của tướng Hoàng văn Lạc.
Tại Tiền Giang tướng Trần văn Hai, tân tư lệnh quân khu đang cố gắng tấn công khu Mỏ Vẹt trên đất Miên đã bị chiếm đóng bởi Việt cộng từ nhiều năm. Với lực lượng sư đoàn 7 và sư đoàn biệt động quân tân lập, trận đánh vô cùng khốc liệt đã kéo dài 2 tuần lễ.
Tại mặt trận miền Đông lần đầu tiên tướng Nguyễn Văn Hiếu chỉ huy một lượt 6 sư đoàn bộ binh bao gồm sư đoàn 5, sư đoàn 18 và 25, tăng cường sư đoàn 9, Có thêm sư đoàn biệt động quân và sư đoàn Cao Đài. Với lực lượng của 2 quân đoàn, vị tư lệnh trẻ trung và mới mẻ của quân đội đã đẩy lui địch tại phòng tuyến Long Khánh. Tân tư lệnh sư đoàn 5, đại tá Hồ Ngọc Cẩn đã bao vây Lộc Ninh nhưng chưa dứt điểm. Quân số miền đông tổn thất hết sức cao. Từ 15 ngàn ngôi mộ chiếm 1/3 diện tích nghĩa trang quân đội Biên Hòa vào cuối tháng 4-75, con số tử sĩ chôn tại đây đã lên đến trên 30,000 người. Đó là chưa kể đến tử sĩ tại miền Trung và cao nguyên mai táng tại chỗ.
Phía cộng sản chết trên 3 mặt trận lên đến trên 100,000 chiến binh. Vì bị chặn đứng từ xa nên pháo binh cộng sản không tiến được về gần thủ đô như đã chuẩn bị. Tuy nhiên suốt 45 ngày sau cùng, Saigon đã đào xong hơn 100 ngàn hầm trú ẩn và đã nhận hơn 10,000 trái hỏa tiễn. Mặc dù cộng quân không thực hiện được toàn bộ trận địa pháo như đã dự trù, nhưng hơn 10,000 dân thủ đô đã tử nạn và hàng chục ngàn người bị thương. Giữa tháng tư Cộng quân cũng cố gắng đưa vào thủ đô 2 trung đoàn đặc công phân tán trong vùng Chợ Lớn và tây bắc Sài Gòn. Các đơn vị cảnh sát và nhân dân tự vệ lần lượt thanh toán chiến trường mà không cần nhờ đến bộ binh và phi pháo. Vì được lệnh không di tản, hai triệu dân Sài Gòn chiến đấu ngay tại nhà nên phần lớn lính cộng sản lạc đường đều bị bà con thanh toán hay bắt sống. Đoàn quân báo chí toàn thế giới tràn ngập Saigon kể từ khi cầu không phận Hoa Kỳ thành lập vào ngày 20 tháng 3-75 để đưa phái đoàn cộng sản, thân cộng, uỷ hội quốc tế sang Thái Lan. Mặc dù có lệnh chỉ dành ra một thời gian để di tản nhưng không hề có tòa lãnh sự nào, không hề có một công ty hay tổ chức ngoại quốc nào tìm cách chạy khỏi Saigon. Trong 45 ngày miền Nam chống Bắc quân, đã có hơn 5,000 cựu chiến binh khắp thế giới tình nguyện đến Việt Nam chiến đấu. Đa số là cựu cố vấn Hoa Kỳ. Đài Loan và Nam Hàn cuối tháng tư mới xin gửi đến mỗi nơi một tiểu đoàn danh dự tham chiến. Cũng như đa số tòa đại sứ tây phương, đại sứ Mỹ quyết định ở lại mặc dù bộ trưởng ngoại giao Kissinger ra lệnh di tản. Đã có nhiều cuộc biểu tình chống Mỹ tại Sài Gòn nhưng chính phủ sớm dập tắt. Đệ thất hạm đội Hoa Kỳ được lệnh trở lại biển Đông. Báo chí loan tin tức về các cuộc mật đàm song phương giữa VNCH và Nga sô, giữa VNCH và Trung Cộng. Lại thêm các lần gặp gỡ với Anh và Pháp đã làm cho Việt Cộng vô cùng bối rối. Dư luận thế giới vốn mang nặng ảnh hưởng của phe phản chiến dần dần nhìn ra cuộc chiến chống xâm lược cộng sản của miền Nam trong hoàn cảnh tuyệt vọng.

Gió đã có vẻ đổi chiều.
Đại sứ Mỹ cho biết hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ đang họp để duyệt lại vấn đề Việt Nam. Sau những hy sinh lớn lao của Hoa Kỳ suốt 10 năm, cuối cùng dù Mỹ quyết định bỏ rơi nhưng miền Nam đứng vững được trong tuyệt vọng. Tình thế sẽ trở thành thảm kịch cho danh dự Mỹ quốc
Ngày 30 tháng 4-1975 tại Hà Nội, sau khi trung ương đảng họp hai ngày tổng kết tình hình, tổng bí thư Lê Duẩn tuyên bố: Chiến dịch Hồ chí Minh tạm thời chấm dứt giai đoạn I với thành quả ghi nhận giai đoạn đầu. Sẽ chuyển qua giai đoạn II trong một tương lai rất gần. Họ Lê tuyên bố Hà Nội sẽ thống nhất đất nước vào năm 1976.
Sau đó các lực lượng cộng sản lặng lẽ rút lui khỏi mặt trận cũng bất ngờ như khi khởi sự tấn công.
Trong bữa tiệc khao quân tại dinh Độc Lập ngày 30 tháng 4-75 ông Thiệu khoe rằng Việt Nam Cộng Hòa đã đánh giặc bằng cùi chỏ, nhưng chỉ mới dùng một bên cùi chỏ. Báo chí Hoa Kỳ yêu cầu được phỏng vấn, tổng thống và các tư lệnh vùng đều từ chối và nói rằng: “Rất tiếc, chúng tôi không nói được tiếng Anh”.
 Giao Chỉ, San Jose.  
Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393
 Image removed by sender.Image removed by sender. Image removed by sender. Image removed by sender. Image removed by sender. Image removed by sender. Image removed by sender.
Giao Chỉ, SanJose City, VietMuseum, Book 1, 2 đã phổ biến, sẽ in 3, 4, 5 đến 12.
Một cuốn $10 Mua sách ghi IRCC 3017 Oakbridge Dr. San Jose CA 95121
Lịch sử ngàn người viết, tác giả ghi chép lại, giữ sách là giữ lửa cho mai sau.

Virus-free. www.avastcom
__._,_.___

Posted by: "Nhat Lung

CỌP CHẾT ĐỂ DA... NGƯỜI CHẾT ĐỂ TIẾNG.

$
0
0

CỌP CHẾT ĐỂ DA...
NGƯỜI CHẾT ĐỂ TIẾNG.
 

Tướng Nguyễn Ngọc Loan dẹp loạn Phật Giáo Miền Trung và các tướng tá ly khai .
Bắt tên đầu sỏ Thích Trí Quang .
Bắt đầu sỏ ly khai Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi , Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận . dụ các sĩ quan binh sĩ phản loạn qui hàng không phạt ai ...
Tướng Nguyễn Ngọc Loan mặc dầu thân sinh là người Bắc, nhưng ông ta lại được sinh ra tại Huế, lớn lên tại Huế, rời khỏi Huế từ độ quê hương chìm đắm trong binh lửa. Nhưng mỗi khi Huế gặp nạn, dân Huế gặp nạn, ông lại trở về Huế với tấm chân tình và lòng thiết tha cứu Huế và giúp đồng bào Huế.
Sáng hôm nay ngồì viết những dòng chữ về ông mà lòng không nén nổi xúc động Tưởng nhớ đến ông, một người anh cả trong lực lựợng CSQG, mà không những tôi, còn một số lớn anh em đồng đội trong lực lượng CSQG muôn đời thương tiếc và kính trọng ông.
Hùm chết để da, người ta chết để tiếng. Bây giờ ông đã đi khuất, không còn trong cuộc đời phiền muộn này nữa, nhưng Ông đã để lại tiếng tốt muôn đời, để lại sự kính trọng, và lòng biết ơn của rất nhiều người dân Huế.
Ông chính là Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lệnh Lực Lượng CSQG (1966- tháng 5/1968).
Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan sinh ngày 1-2-1930 tại Huế. Tốt nghiệp khóa 1 trường Võ bị Thủ Đức.
1953 Thiếu Tướng Loan thụ huấn khóa phi công tại trường Không quân Salon de Provencce tại Pháp, tốt nghiệp với bằng Kỹ Sư Hàng Không. Ông là một trong những phi công lái khu trục cơ đầu tiên của VNCH.
1960 ông giữ chức vụ CHT Phi đoàn 2 Quan sát tại Nha Trang.
1964, vinh thăng Đại Tá, Tư Lệnh Phó Không Quân VNCH.
Ngày 11-2-1965, Đại tá Nguyễn Ngọc Loan đã dẫn đầu những phi đoàn A1 Skyraider vượt vỹ tuyến 17 oanh tạc miền Bắc Việt Nam trong chiến dịch Mũi Tên Lửa (Flamming Dart).
Chưa bao giờ trong cuộc chiến đầy bi thảm của quê hương mà lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu chống Cộng sản của dân quân Trị Thiên lại lên cao như vậy. Dân chúng, học sinh, sinh viên Huế đã tổ chức biểu tình lớn để hoan hô, vinh danh những nguởi hùng Không Lực VNCH, những Kinh Kha của thời đại, đã vượt sông Gianh xông vào đất địch. Những tên tuổi Nguyễn cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Phạm Phú quốc, đã được đồng bào trân trọng vinh danh. Tôi bấy giờ chỉ là viên sĩ quan trẻ, cấp Thiếu úy, tôi được biết tên ông từ dạo đó.
Sau cuộc hành quân Mũi Tên Lửa 11-2-65, Đại tá Nguyễn Ngọc Loan được bổ nhiệm về làm Tổng Giám Đốc CSQG, Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội, Giám đốc Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo.
Tháng 3/1966 miền Trung Huế dậy sóng. Biến động lớn xẩy ra vì tham vọng, điên cuồng, bất chấp vận mệnh quốc gia, dân tộc, say mê quyền lực của Thích Trí Quang, một kẻ khao khát làm "Quốc Trưởng", "Quốc Phụ". Sau khi phá đổ được chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, qua phong trào Phật Giáo Tranh Đấu biểu tình làm tê liệt chính quyền, dẫn đến cuộc đảo chánh 1-11- 1963. Say men chiến thắng, ngỡ mình là "anh hùng cái thế", Trí Quang liên tiếp khống chế, gây bất ổn chính trị cho đất nước.
Với sự nhượng bộ của Mỹ, Trí Quang liên tục thay đổi điều hành các "triều đại" theo ý hắn ta, qua quyền lực đen của các cuộc biểu tình, xuống đường của các Phật Tử tranh đấu. Từ triều đại Dương Văn Minh, đến Nguyễn Khánh, qua triều đại Khánh-Minh-Khiêm, đến triều đại Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, cho đến thời gian đầu của chính quyền Tướng Thiệu-Kỳ, tất cả đêu bị Trí Quang thao túng, sắp đặt nhân sự. Đến khi hành động của y vượt quá sự chịu đựng của chính quyền Johnson, và đất nước trên bờ vực thẳm để cho Cs thôn tính, các Tướng lãnh phẫn nộ thì Henry Cabot Logde không thể nào nghe lời và chiều chuộng Trí Quang được nữa. Bị phía Mỹ từ chối không ủng hộ, từ Saigòn, Thích Trí Quang bay ra Huế cùng đám cán bộ cộng sản nằm vùng quá lâu trong Phật giáo như: Đôn Hậu, Chánh Trực, Thiện Siêu, Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Phan duy Nhân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, v..v..., và được sự hổ trợ mạnh mẽ của Bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam qua tên Trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan, bọn chúng mưu đồ muốn biến miền Trung thành một vùng trái độn, và âm mưu biến Kinh đô Huế ngày xưa sẽ là thủ đô của đám MTGP Miền Nam.
Cuộc biến động xẩy ra từ tháng 3/1966 kéo dài trong 100 ngày. T ình hình rối lọan từng giờ, từng ngày, công sở của chính quyền bị đám phản loạn chiếm giữ. Cơ sở Ngoại giao đoàn bị đốt pha. Quân đội, Công chức, Cảnh sát, ngã theo đám tranh đấu. Thành phố không còn Chính quyền, không còn luật pháp quốc gia, đám tranh đấu muốn vu khống, muốn đánh đập, muốn bắt bớ ai tùy thích. Dân chúng Huế kinh hoàng hỗn loạn, đời sống mỗi ngày mỗi cơ cực, họ sống trong niềm tuyệt vọng, buồn thảm nhìn tương lai vô định...
Chính phủ Trung Ương đã liên tục cử ra miền Trung bốn vị tướng lãnh với chức Tư Lệnh Quân Đoàn để ổn định tình hình miền Trung, nhưng tình hình vẫn mỗi ngày mỗi rối loạn thêm, họ bất lực bó tay. Từ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi phải ngã theo ông Thích Trí Quang chống lại chính phủ Trung ương, đến Thiếu tướng Nguyễn văn Chuân, rồi đến Trung Tướng Tôn Thất Đính, Ông này hoảng sợ ông Trí Quang và phong trào tranh đấu phải chạy trốn vào BTL/Sư đoàn TQLC Hoa Kỳ tại Đà Nẵng xin tỵ nạn, rồi đến Thiếu tướng Huỳnh văn Cao. Thiếu Tướng Cao đã bị Viên Trung úy Sư Đoàn I BB ly khai Nguyễn Đại Thức bắn, cũng may ông không bị trúng đạn. Cuối cùng Thiếu Tướng Cao cũng vào xin tỵ nạn tại BTL/TQLC Hoa Kỳ tại Đà Nẵng.
Tướng Walt Với một tình hình rối loạn và hầu như tuyệt vọng tại miền Trung như vậy, bốn Tướng đã bỏ chạy, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc CSQG được Chính phủ giao trọng trách ổn định và tái lập an ninh trật tự tại miền Trung, đặc biệt là Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế.

Theo Đại tá Trần Minh Công, Viện Trưởng Học Viện CSQG/ VNCH, (vào thời điểm đó Đại Tá Công là một Sĩ quan trẻ của LL/CSQG cùng đi với Đại tá Loan ra Đà Nẵng) thì lực lượng của BCH/hành quân dẹp loạn của Đại Tá Loan gồm có Chiến Đoàn TQLC/VNCH, được tăng phái thêm một tiểu đoàn Nhảy Dù/VNCH. Lực lượng hành quân được không vận ra Đà Nẵng đã phải ở trong phi trường mất hai ngày mà không thể tung quân ra được vì Đại tá Loan muốn tránh một cuộc đổ máu xẩy ra, bởi lẽ Trung đoàn 51 BB/VNCH ly khai đang bố trí và sẵn sàng tấn công lực lượng của Đại Tá Loan. Đấy là chưa nói đến bên cạnh Trung Đoàn 51 BB ly khai còn có tiểu đoàn 11/BĐQ của Đại úy Nguyễn Thừa Dzu cũng đã hợp tác với lực lượng tranh đấu tại Đà Nẵng.

Thiếu Tướng KQ Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương đã bay ra Đà Nẵng họp cùng Đại Tá Loan. Thiếu Tướng Kỳ có ý định cho chiến đấu cơ của Không Quân VNCH cất cánh nhắm vào BCH của Trung đoàn 51 BB ly khai, chỉ mục đích cảnh cáo, nhưng gặp ngay phản ứng về phía Chính Phủ Hoa Kỳ. Tư lệnh lực lượng TQLC/Hoa Kỳ tại Đà Nẵng, Trung Tướng Waltz đã gởi một thông điệp cho Thiếu Tướng Kỳ:
- Nếu chiến đấu cơ của Không quân VNCH cất cánh, ông ta sẽ cho chiến đấu cơ Hoa Kỳ cất cánh ngăn chận, bắn hạ ngay.
Được hỏi lý do tại sao? Theo ông Trần Minh Công thì Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan cho rằng có lẽ Hoa Kỳ đã buộc Chính phủ VNCH phải chấp nhận một số điều kiện nào đó của họ thì họ mới chịu để yên cho Chính phủ VNCH ra tay dẹp đám phản loạn Thích Trí Quang, và câu kết luận chua xót của ông Trần Minh Công: "Thật tình không hiểu nổi, đây là loại Đồng Minh kiểu gì"

Cũng theo ông Trần Minh Công, lúc bấy giờ tình hình tại Đà Nẵng rất căng thẳng, nguy hiểm, và đầy bất trắc. Có thể đánh nhau lớn trong thành phố Đà Nẵng giữa lực lượng hành quân dẹp loạn của Đại Tá Loan gồm TQLC, Nhảy Dù VNCH, và quân đội ly khai gồm có: Trung Đoàn 51 BB, Tiểu Đoàn 11/BĐQ của Đại úy Nguyễn Thừa Dzu, cùng với đám tranh đấu ô hợp, nhưng sắt máu, cuồng tín, mà đại đa số là cơ sở Việt Cộng thuộc 2 Đại Đội SV Phật Tử Quyết Tử do chính SV Nguyễn Đắc Xuân chỉ huy, từ Huế vào Đà Nẵng tăng cuờng cho lực lượng tranh đấu tại chùa Tỉnh hội Đà Nẵng, bọn chúng đã được trang bị vũ khí.

Để tránh đổ máu giữa phe mình đánh phe ta, Đại Tá Loan đã dùng những người bạn thân của Đại úy Nguyễn Thừa Dzu bí mật tiếp xúc và chiêu dụ đại úy Dzu trở về với chính phủ. BĐQ là một trong những binh chủng thiện chiến nhất của QLVNCH. Tiểu đoàn BĐQ của Đại úy Dzu lại đang chiếm giữ thành phố Đà Nẵng, không chiêu dụ được tiểu đoàn này thì đại họa sẽ xẩy ra. Người phụ trách công tác chiêu dụ Đại úy Nguyễn Thừa Du là Đại Úy Nguyễn Tự Cường.

Đại úy Nguyễn Tự Cường xuất thân Khóa 7 Võ bị Đà Lạt. Ông là chuyên viên tình báo phụ trách tình báo hải ngọai vùng Bắc Lào. Sau đảo chánh 1963, ông bị bắt giữ và giam tại Cục An Ninh Quân Đội. Theo lời ông kể lại với tôi:
- Sau đảo chánh 1963, anh bị bắt vì là người của Cậu Cẩn. Tù một năm được thả ra, đói quá, mấy thằng Mỹ trả tiền và xúi dại anh tham gia đảo chánh, chỉnh lý lung tung, lại bị An Ninh Quân đội bắt lại, lần này bị giam gần 2 năm.

Đang ở tù thì bỗng cửa tù mở ra, được dẫn đi trình diện ông "Sáu Lèo". Anh đâu biết Sáu Lèo là ai, hỏi viên Sĩ quan đi theo thì mới biết là Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan Cục Trưởng Cục ANQĐ, và cuộc gặp mặt với anh Sáu Lèo xẩy ra như sau:
- Đ... Cụ anh. Làm cái gì mà tham gia đảo chánh lung tung để phải ngồi tù?
- Thưa Đại tá, em làm gì đâu. Sau đảo chánh 1963 em bị bắt vì tội người của Ông Cậu. Một năm sau được thả ra, đói quá tham gia chỉnh lý kiếm tí tiền còm.
- Mày quen Nguyễn Thừa Dzu không?
- Bạn thân.
- Nó theo đám tranh đấu. Tiểu đoàn 11/BĐQ của nó đang chiếm thị xã Đà Nẵng. Mày ra Đà Nẵng dụ nó trở về được không?
- Em làm được.
- Làm được, cho làm lớn. Còn không thì về lại Cục ở tù tiếp.
- Trình Đại tá, làm được nhưng phải có điều kiện.
- Điều kiện gì?
- Trước khi đi Đà Nẵng, Đại tá phải cho em truy lãnh 3 năm lương. "Có thực mới vực được đạo". Bạch hóa hồ sơ, không ghi vào quân bạ. Đại tá làm được hai chuyện đó thì em đi Đà Nẵng dụ thằng Dzu. Còn không em vào tù tiếp, không đi.
- Được.
Tỵ nạm Cộng Sản tại Quảng Trị, 1968 Đại úy Cường đã gặp Đại úy Nguyễn Thừa Dzu. Kết quả là Đại úy Dzu rút Tiểu Đoàn 11/BĐQ ra khỏi thành phố Đà Nẵng, tránh được cuộc đổ máu không cần thiết.

Đại úy Nguyễn Tự Cường ngay sau đó đã được Đại tá Loan bổ nhiệm làm Trưởng ty An Ninh Quân đội thị xã Đà Nẵng (1966-1975). Ông và Đại tá Loan tính tình có nhiều điểm hợp nhau. Trung Tá Nguyễn Tự Cường cũng đã theo Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đi vào miền vĩnh cửu vào tháng 12/2007 tại Nam Cali. Phần Đại úy Nguyễn Thừa Dzu, ông theo Đại Tá Loan dẹp xong vụ biến động miền Trung, về Sàigòn và được Đại tá Loan bổ nhiệm đi làm Trưởng Ty CSQG một trong những quận tại Chợ Lớn.

Tuy vậy, súng đã nổ và đã có người chết. Khi ông Trần Minh Công tiến quân vào Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng, ông đã phát giác có mười mấy xác chết đã sình thối trong nhà kho của chùa, và chính ông cùng nhân viên thuộc quyền đã vác những thi hài sinh thối này ra xe đem chôn.

Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đã ổn định được tình hình tại Thị xã Đà Nẵng. Ông rời Đà nẵng ra Huế tiếp tục nhiệm vụ nặng nề đầy hiểm nguy là dẹp lọan tại Huế mà chính phủ đã giao trọng trách này cho ông. Người tiếp tục ổn định tình hình an ninh trật tự tại Đà Nẵng là Quận Trưởng Cảnh sát Trần minh Công, tân Trưởng Ty CSQG thị xã Đà Nẵng, người mà Đại Tá Loan tin cậy vào tài năng, và lòng dũng cảm. Quận Trưởng Cảnh Sát Trần Minh Công không phụ lòng của Đại tá Loan, ông ta đã hoàn tất nhiệm vụ mà Đại tá Loan giao phó cho ông. 

Đó là một nhiệm vụ nặng nề, tiếp tục ổn định tình hình rối loạn. Chỉ một năm sau, tình hình Đà Nẵng đã hoàn toàn ổn định. Đại Tá Loan lại thuyên chuyển ông vào SàiGòn giữ chức vụ Trưởng Ty CSQG Quận II Thủ đô Sàigòn. Để rồi Mậu Thân 1968, trong 2 đợt tổng công kích của VC vào Sàigòn, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và Quận Trưởng Trần minh Công lại sát cánh cùng nhau tung lực lượng CSQG phản công ngăn chận 2 đợt tấn công của VC vào Sàigòn ngay những giờ phút đầu tiên.
***
Tôi trở lại vụ Tướng Loan dẹp lọan miền Trung:
Ngày 8/6/1966 Biệt Đoàn 222 Cảnh sát Dã chiến thuộc BTL/CSQG do Trung tá Phan Huy Sảnh chỉ huy đổ quân chiếm ty CSQG Thị xã Huế.

Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan và bộ tham mưu hành quân dẹp lọan đến Huế vào ngày 9/6/1966. Lực lượng hành quân chiếm lại Tòa Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế. Đại Tá Loan đặt BCH hành quân tại đó. Tôi trình diện Đại tá Loan nhận công tác. Đó là lần đầu tiên tôi gặp ông. Huế lúc bấy giờ hoàn toàn nằm trong tay Thích Trí Quang và Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam qua tên Trung Tá điệp viên Hoàng Kim Loan, Thành ủy viên Thành ủy Huế. Bọn này định biến Huế thành vùng trái độn. Chiến trường Huế đã mở. Mặt trận Tri-Thiên-Huế vừa chính trị, vừa quân sự ,sẽ cam go, nguy hiểm và đầy bất trắc đang chờ đợi Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan nhảy vào thử lửa. Dọc dãy Trường Sơn, cạnh sườn Thừa Thiên-Huế, lực lượng quân sự của Hà Nội, Sư Đoàn 324B thuộc Quân Khu Trị Thiên đang ém quân chờ đợi biến cố lớn xẩy ra tại thành phố Huế là xua đại quân bôn tập tấn công và chiếm Huế. 

Nếu Đại tá Nguyễn Ngọc Loan không kịp thời cứu Huế, có lẽ Huế đã mất vào tay Cộng sản mà không cần phải đợi đến Mậu Thân 1968. Tại thành phố Huế, Sư Đoàn I/BB là một trong những đơn vị tinh nhuệ nhất của QLVNCH và dưới sự chỉ huy của Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, có thể nói một số lớn các đơn vị của Sư Đoàn này cùng với Tư Lệnh. Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận đã ly khai với chính phủ trung ương, phục vụ cho mưu đồ đen tối và mộng tranh bá đồ vương của Thích Trí Quang đang chờ đợi Đại Tá Loan.

 Thích Trí Quang và lực lượng tranh đấu của hắn ta còn có 4 đại đội Sinh viên Quyết Tử do tên Nguyễn Đắc Xuân SV Sư phạm Hán Việt chỉ huy. Bốn đại đội này đã được Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận đưa vào TTHL Văn Thánh của Sư Đoàn I/BB huấn luyện quân sự, và trang bị vũ khí. Bọn chúng phối hợp chặt chẽ với các đơn vị quân đội ly khai cũng đang chờ đợi Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan. Và các liên đoàn Công chức Phật Tử, giáo chức Phật Tử, Tiểu thương Phật Tử của các chợ Đông Ba, Bến Ngự, An Cựu cũng đang chờ đợi Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, lực lượng này khoảng vài chục ngàn nguời.

Hai phong trào quần chúng đấu tranh do tên Trung tá Điệp viên Hoàng Kim Loan thành lập cũng đang chờ đợi Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đó là:
- Phong trào Sinh Viên Tranh Thủ Hòa Bình do sinh viên Y Khoa Đại học Huế Tôn Thất Kỳ Chỉ huy.
- Phong trào SV Tranh thủ Dân Chủ do sinh Luật Khoa Nguyễn Hữu Giao Chỉ huy.
Đau lòng và nghiệt ngã nhất là những thằng con bất hiếu của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan cũng đã nghe lời quyến rũ của Thích Trí Quang, Hoàng Kim Loan quay lại chống ông, đó là Lực Lượng CSQG Phật Tử thuộc Ty Cảnh Sát quốc Gia Thừa Thiên và Thị xã Huế. Lực lượng này gồm khoảng trên 5 ngàn Sĩ quan và Cảnh Sát viên. Con phản lại cha, theo giặc, làm lọan, thật bất hạnh cho Đại Tá Loan và lực lượng CSQG/VNCH. Và cuối cùng hai viên Tư Lệnh của Phong trào tranh đấu đang chờ đợi Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan trong trận thư hùng một còn một mất này là Thích Trí Quang và Điệp viên của Hà Nội Trung Tá Hoàng Kim Loan.

Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, một anh hùng hào kiệt của binh chủng Không quân VNCH, một hiệp sĩ Kinh Kha của thời đại, đã vượt sông Gianh Bắc phạt, trong chiến dịch "Mũi Tên Lửa". Giờ đây tháng 6/1966, Kinh Kha đang trực diện với chiến trường cay nghiệt. 

Ông sẽ nhảy vào chiến trường này, chỉ huy trận đánh này, trận đánh sẽ còn cam go hơn khi dẫn đầu Phi Đoàn Không Quân VNCH lao mình vào đất giặc.
Thích trí Quang và Hoàng Kim Loan đã dùng niềm tin tôn giáo của 80% dân chúng Huế để gài Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan vào chiếc bẫy sập này. Nỗi khó khăn của ông là một số lớn dân chúng Huế lúc bay giờ đã vì cuồng tín nghe theo lời Thích trí Quang, không phân biệt được lý lẽ đúng sai. Đau lòng thay, Đấng từ bi cũng đã bị hai tên này lợi dụng làm bẫy sập ngăn chận Đại Tá Loan:
Bàn thờ Phật đã xuống đường.

Thắng trận đánh này chưa hẳn là một vinh quang, nhưng bại trận đánh này là một báo hiệu đầu hàng sớm hơn ngày 30/4/75 của dân chúng miền Nam Việt Nam, của Chính phủ VNCH trước sự xâm lăng của Cộng Sản Hà Nội. Chính ngay bản thân ông, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, đời binh nghiệp của ông, sẽ giống như số phận của 5 tướng Thi, Nhuận, Chuân, Đính, Cao.
Thế nhưng, thật không hổ danh anh "Sáu Lèo". Đại tá Loan đến Huế trực diện với một lực lượng phản loạn to l
ớn và hùng hậu như vậy.
Ông thật can đảm, bình tĩnh nhảy vào chiến trường khắc nghiệt và cam go này, tung những đòn phản công lúc hư, lúc thực, y như Lệnh Hồ Xung trong Tiếu ngạo Giang Hồ của Kim Dung, nghiêng ngã thân người tung Tửu quyền chế ngự địch thủ.

Và ông đã chế ngự được và dẹp tan đám phản lọan:

Không có đổ máu xảy ra.
Thu hồi Sư Đoàn I/BB lại cho quân lực. Giao Sư Đoàn I/BB cho Đại Tá Ngô Quang Trưởng Tham Mưu trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù VNCH chỉ huy và chỉnh đốn lại.
Thâu hồi lại Huế cho chính Phủ Trung Ương từ tay Thích Trí Quang, và Trung tá Điệp viên Hà Nội Hoàng Kim Loan.
Bắt giữ Thích Trí Quang
Bắt giữ Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận
Bắt giữ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi
Và khoảng trên một ngàn các thành phần tranh đấu chủ chốt, vừa dân sự và quân sự bị bắt đem vào Cục ANQĐ và BTL/CSQG xét sử.

Thanh lý môn hộ và tái tổ chức gia đình CSQG tại BCH/CSQG Thừa Thiên Huế. Điều quan trọng nhất là đem lại bình yên và ổn định cho đời sống đồng bào Thừa Thiên-Huế.

Bốn vị tướng lãnh đã chào thua với tình hình rối lọan, bỏ mặc dân chúng Huế sống trong cảnh kinh hoàng, lo sợ trong sự áp bức, khủng bố của đám Vệ binh đỏ Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ ngọc Tường, Hoàng Phủ ngọc Phan, những phần tử thân cận của Thích Trí Quang, những cơ sở nội thành nòng cốt của Thành ủy viên Việt Cộng Hoàng Kim Loan. Huế vô chính phủ, không còn luật pháp quốc gia, mà chỉ có luật rừng của đám giặc cỏ này. Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh CSQG, đã giải thoát đồng bào Huế khỏi cơn tai ương của đám giặc cỏ, tái lập lại luật pháp quốc gia, trật tự an ninh công cộng.

Ngày tôi đưa ông và BTM/Hành quân của ông xuống phi trường Phú Bài về lại Sàigòn, tôi còn nhớ ông dặn tôi:
- Mày cẩn thận lo giữ mình, bọn nó không tha mày đâu.
- Dạ.
- Bọn họ nói Đại tá và em là hai tên "Phản đạo" lật đổ bàn thờ Phật. Mày có buồn vì câu nói đó không? Ông nói tiếp.
- Không Đại Tá.
- Mình làm đúng, vì đó là bổn phận và trách nhiệm của minh Ai muốn nói gì thì nói, để ý làm gì.

Sau này, trong chín năm chịu trách nhiệm an ninh, tình báo, bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào, mỗi khi có biến động lớn xẩy ra tại Huế, buộc phải có những quyết định và hành động cứng rắn với những thành phần, những phong trào phá rối, tạo nguy cơ cho Huế và cho đồng bào Huế, tôi vẫn thường nhớ đến câu nói của Đại Tá Loan, như một lời nhắn nhủ của ông đối với tôi:
"Mình phải hành động vì đó là bổn phận và trách nhiệm của mình. Ai muốn nói gì thì nói, để ý làm gì".


Sưu tầm : Liên Thành




hích hích
__._,_.___


Posted by: Quang Nguyen <

CHÍNH NGHĨA NÀO CHO NGÀY 30/4 ?

$
0
0

 
CHÍNH NGHĨA NÀO CHO NGÀY 30/4 ?
Để trả lời đúng câu hỏi “Chính Nghĩa Nào Cho Ngày 30/4”, cần phải xét đến cuộc chiến đã dẫn đến ngày 30/4/1975. Đó là cuộc chiến được người Mỹ gọi là “Chiến Tranh Việt Nam” (Vietnam War)
Ngay cái tên gọi “Chiến Tranh Việt Nam”, nó đã xác định đó là cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam. Suy luận thêm, đó là cuộc chiến mà quân đội Mỹ đánh nhau ở Việt Nam với người Việt Nam !
Có người sẽ hỏi : Vậy thì quân Nam Việt Nam đánh nhau với quân Bắc Việt Nam trong “Chiến Tranh Việt Nam” thì sao ?
Với câu hỏi đó, đúng là có một số người cố gán ghép để nói “Chiến Tranh Việt Nam” là cuộc nội chiến giữa những người Việt Nam khác nhau ý thức hệ. Nhưng, thực tế và những tài liệu mật đã bạch hóa đã cho thấy “Ý Thức hệ chống Cộng bảo vệ tự do dân chủ” chỉ là chiêu bài mị dân, thực chất không có chống Cộng bành trướng, không có bảo vệ dân chủ tự do gì cả![1]. “Chiến Tranh Việt Nam” hoàn toàn không thể là một cuộc nội chiến giữa những người Việt, bởi lẽ những sự thật sau đây:
  • Người Mỹ hoàn toàn chủ động cuộc chiến : Tự động đổ quân vào Việt Nam (Đà Nẵng 1965) nhưng không cần xin phép “chính quyền” Nam Việt Nam (chính phủ Phan Huy Quát).
  • Mỹ đã đem một đạo quân lớn đến 500 ngàn người, đóng thường trực ở Việt Nam, để đánh nhau với người Việt Nam và chỉ đánh nhau với người Việt Nam mà thôi thì không thể gọi đó là nội chiến giữa ngoại bang Mỹ và Việt Nam.(Trong khi đó, quân Nhà Nguyên chỉ là “mượn đường” để đánh Chiêm Thành mà dân Việt đã coi là hành động ngoại xâm và đã đánh trả).
  • Nhịp độ chiến tranh cũng như chủng loại và sức mạnh của vũ khí trong “Chiến Tranh Việt Nam” đều là do Mỹ quyết định. Điều này chứng tỏ quân đội Nam Việt Nam coi như chỉ là được thuê để làm theo những nhu cầu của Mỹ theo từng giai đoạn. Do đó, không thể nào gọi “Chiến Tranh Việt Nam” là nội chiến giữa những người Việt Nam với nhau.
  • Đã có kế hoạch của Mỹ để “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” thì không thể nào gọi cuộc “Chiến Tranh Việt Nam” là nội chiến.
  • Chủ yếu chỉ có lính ngoại quốc Mỹ chết ở “Chiến Tranh Việt Nam” với con số rất lớn, chết tới gần 60 ngàn người. Không có một người lính Cộng Sản Nga hay Tầu nào chết trong cuộc chiến này. Như vậy, không thể nào gọi “Chiến Tranh Việt Nam” là nội chiến.
Căn cứ vào những sự thật này, những người tôn trọng sự thật và các thế hệ con cháu Việt Nam mai sau nhất định sẽ nói “Chiến tranh Việt Nam” là một cuộc chiến chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.[3]
Chính là cuộc chiến chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam với quân ngoại bang Mỹ đã dẫn đến ngày 30/4/1975.
Như vậy, ngày 30/4/1975 phải là ngày thống nhất đất nước, ngày giành lại độc lập và chủ quyền trên toàn cõi Việt Nam.
Chính nghĩa (hay nghĩa chính) của ngày 30/4 phải là những sự thật trên đây.

Khach Quan.
[1]. Tự ý thương lượng với Cộng Sản, bàn giao lãnh thổ và chiến thắng cho Cộng Sản thì không thể gọi là chống Cộng! Đạo diễn để giết Tổng Thống (Diệm) do dân bầu ra, tự ý đổ quân vào Việt Nam không cần ý kiến của Chính Quyền VN, … thì không thể nào gọi là bảo vệ dân chủ tự do.
[2]. Lính Úc, Anh, Đại Hàn, Thái Lan,v.v… chỉ là màu mè làm thuê cho Mỹ, coi như không đáng kể. Những trò lừa bịp này khiến chúng ta phải chú ý đến đặc tính của bang giao quốc tế: “quyền lợi là trên hết, đạo đức và công lý là thứ yếu”. “Cây gậy và củ cà rốt” là một thứ vũ khí ngoại giao hết sức bá đạo nhưng vẫn thường được sử dụng.
[3]. Thật đáng buồn và xấu hổ cho dân tộc Việt Nam, vẫn còn những kẻ không tôn trọng sự thật, hoặc không dám chấp nhận sự thật, hoặc không có đủ trình độ để nhận ra sự thật của ngày 30/4?
Tại sao? –Vì chức quyền, danh, lợi của tinh thần nô lệ? –Vì ngu dốt?
__._,_.___

Posted by: Khach-Quan Tran 

TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4

$
0
0


                           Ngô Kỷ tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, 
      thủ đô người Việt tỵ nạn Little Saigon, Westminster, Nam California


TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4


Little Saigon ngày 29 tháng 4 năm 2017

Kính thưa Quý Đồng Hương

30 tháng 4 năm 1975, ngày định mệnh đã đưa dân tộc Việt Nam rẽ qua một khúc quanh lịch sử bi thảm nhất. Là người tỵ nạn cộng sản, chúng ta xót xa cho thân phận quê hương và thao thức về những tang thương của đất nước.

Hồi tưởng về quá khứ, chúng ta thành tâm biết ơn và nguyện cầu cho vong linh các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã vị quốc vong thân được siêu thoát. Chúng ta vinh danh những Tướng Lãnh và hàng ngàn Chiến Sĩ Vô Danh đã chấp nhận cái chết hào hùng không hàng phục giặc để giữ vẹn khí tiết bất khuất của con cháu Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Trần Bình Trọng....

Chúng ta cảm phục và chia sẻ những khốn khổ, tủi nhục của hàng trăm ngàn người Tù Nhân Chính Trị Việt Nam Cộng Hòa đã chịu đựng tại các lao tù khắc nghiệt cộng sản. Chúng ta ngậm ngùi tưởng niệm những đồng bào thân yêu xấu số đã vùi thây nơi biển cả mênh mông, hay bỏ xác nơi rừng núi hoang vu trên đường đi tìm ánh sáng tự do.

Chúng ta cầu xin Ơn Trên đoái thương đến 90 triệu đồng bào ruột thịt đang sống lầm than cơ cực dưới ách thống trị dã man của cộng sản vô thần nơi quê nhà, sớm hưởng được một đời sống tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc, nhân bản và không còn cộng sản.

Nhân mùa Quốc Hận về, tôi xin phép kính gởi đến quý vị bài dịch Những Đồng Minh Anh Hùng, tức "Heroic Allies" của tác giả Harry F. Noyes III, một cựu chiến binh Không Quân Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Sau cuộc chiến trở về, ông theo học tại trường Đại Học Hawaii và tốt nghiệp cao học về Nghiên Cứu Á Châu. Nguyên bản Anh ngữ được đăng trong tạp chí VIETNAM số tháng 8 năm 1993.

Bài viết Những Đồng Minh Anh Hùng "Heroic Allies" của tác giả Harry F. Noyes III không lê thê, không cường điệu, không lạc quan, không bi quan, không thiên hữu, không thiên tả, không hiếu chiến, không phản chiến, không bảo thủ, không cấp tiến, không Quốc Gia, không cộng sản..., mà bài này chỉ nói lên "sự thật." Nhận thấy bài viết này có giá trị và khách quan, nên tôi xin phép chuyển ngữ để kính tặng Quý Đồng Hương, đặc biệt kính gởi đến những người cựu Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa can trường và anh dũng, mà tôi là người hậu phương lúc nào cũng cảm kích và biết ơn sự hy sinh lớn lao của họ trong việc chiến đấu và bảo vệ cho tôi được sống còn cho tới ngày hôm nay..

Tôi xin quý vị bấm vào hai cái Links Youtube Audio   Nhung Dong Minh Anh Hung Tran Minh doc Ngo Ky dich    để nghe Anh Trần Minh đọc bài dịch "Những Đồng Minh Anh Hùng," và xem các phim, ảnh đính kèm nói về sự chiến đấu anh dũng và tuyệt vời của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.




Nhung Dong Minh Anh Hung Tran Minh doc Ngo Ky dich



Trân trọng,

Ngô Kỷ
Mùa Quốc Hận 2017


photo 1qh7_zps439bcbd9.jpg
 


TƯỚNG WESTMORELAND XIN LỖI CỰU QUÂN NHÂN QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA
"Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của 
Quân Lực Miền Nam Việt Nam vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn."
(On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize 
to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys.)





      
photo 1w5121_zps5a917a77.jpg
photo 1w9116_zpsfa164832.jpg
photo 1w3341_zpscc949da3.jpg
photo qqw2_zpsac3bd7ab.jpg
photo qqw1_zps8fa9634c.jpg
photo qqw4_zps61506c8f.jpg
photo qqw7_zpse9323187jpg
photo qqw11_zps8385fc30.jpg

Xin bấm Youtube ở dưới để vừa nghe đọc bài "Những Đồng Minh Anh Hùng,"
và vừa xem 300 tấm hình về cuộc chiến đấu anh dũng và hào hùng
 của các Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, 

Youtube Audio: Anh Trần Minh đọc

                                                                                                                        https://www.youtube.com/watch?v=ntMVzXZ95bA








Những Đồng Minh Anh Hùng

"Heroic Allies"

của Harry F. Noyes III

đăng trong Nguyệt San VIETNAM, phát hành tháng 8 năm 1993

Do Ngô Kỷ chuyển ngữ để kính tặng và tri ân sự chiến đấu dũng cảm
 và tuyệt vời của những Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa


Họ dáng người thì nhỏ nhắn, nói chuyện bằng những âm ngữ líu lo, thường chan nước mắm vào thức ăn và hay cầm lấy tay nhau.

Chẳng ai ngạc nhiên lắm khi thấy những quân nhân Mỹ gởi qua Đông Nam Á - phần lớn họ còn rất trẻ, có một kiến thức nông cạn, được đào tạo trong một xã hội vị kỷ và hiểu rất ít về những nền văn hóa khác - họ không cảm thông được tâm trạng của các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).


Thật đau lòng khi có nhiều cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam lại đi cấu kết với cái đám phản chiến cấp tiến, những tên trốn quân dịch và bọn chính khách hoạt đầu xúm nhau bôi nhọ danh dự của một Quân Lực đã chẳng còn có cơ hội để được tự bào chữa. Nhục mạ một quân đội đã sa cơ trên chiến trường vì bị Hoa Kỳ phản bội là một hành động đê tiện và bất xứng của những người Hoa Kỳ.

Có thể một số quý vị sẽ ngạc nhiên về lý luận của tôi. Làm sao tôi có thể biện hộ cho quân lực VNCH được? Phải chăng tất cả binh sĩ VNCH đều thuộc loại bất tài, xảo trá và hèn nhát? Không, không phải vậỵ. Trong bài này tôi sẽ vạch ra một số bằng chứng xác đáng để phản bác lại cái luận điệu đê hèn đó và phân tích lý do tại sao cái luận điệu đó phát sinh. Dĩ nhiên, quân đội VNCH không toàn hảo. Họ cũng có một số lãnh đạo tồi tệ, một số lính tráng hèn nhát, vài ba lần hoảng hốt bỏ chạy, xằng bậy và hung bạo. Tuy nhiên, các điều này cũng đã từng xảy ra đối với quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại Đông Nam Á.


Trong một số lãnh vực như: tổ chức, tiếp vận, tham mưu và chỉ huy, quân đội VNCH thua kém quân đội Hoa Kỳ thật. Nhưng họ làm gì khác hơn được khi đất nước họ là đất nước đang phát triển, họ mới giành độc lập từ tay chế độ thuộc địa và bất ngờ lao vào một trận chiến khốc liệt, đối đầu với kẻ thù hung hăng được vũ trang hùng hậu từ cả khối Cộng Sản? Thật ra, các khuyết điểm của quân đội VNCH có cũng giống như các khuyết điểm mà quân đội Hoa Kỳ mắc phải trong Trận Chiến Dành Độc Lập, dù rằng Hoa Kỳ vào thời cuối thế kỷ 18 đó có nhiều lợi điểm hơn, như:

- Tầm vóc của Cuộc Cách Mạng Dành Độc Lập hạn hẹp hơn và dễ điều khiển hơn.

- Khác với sự bị trị của Việt Nam, Hoa Kỳ qua kinh nghiệm bị trị đã nuôi dưỡngtinh thần tự trị địa phương và tạo thuận lợi cho quốc gia đào tạo nên những nhà lãnh đạo ưu tú.

- Quân đội Hoàng Gia Anh không bền bỉ như quân đội Bắc Việt.

- Có phải các binh sĩ Hoa Kỳ giỏi giang hơn các chiến hữu đồng minh của họ đến độ người Mỹ đối xử miền Nam Việt Nam với một thái độ khinh rẻ như vậy.

Câu trả lời cho cả hai câu hỏi trên là: "Không!"


Bằng chứng cho câu trả lời đó thật rõ ràng. Ý đồ Tổng Công Kích Tết Mậu Thân của Cộng quân là bẻ gẫy ý chí pḥòng thủ của miền Nam Việt Nam. Nhưng chúng đã thất bại, binh sĩ VNCH đã chống trả một cách quyết liệt và hữu hiệu: không một đơn vị nào bị tan rã hay tháo chạỵ. Thậm chí cảnh sát cũng đã chiến đấu, họ dùng cả súng lục để bắn lại bộ đội chính quy của Bắc Việt trong khi những người bộ đội CS này thì lại được võ trang với vũ khí hạng nặng. Theo báo cáo cho thấy là vào thời điểm đó, số người tình nguyện nhập ngũ lên quá cao, đến nỗi chính phủ phải ngưng tuyển mộ lính trong một thời gian.

Trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, các binh sĩ VNCH bị vây hãm tại An Lộc đã anh dũng tử thủ chống trả lại lực lượng hùng hậu của địch, cùng với những trận mưa pháo bất tận, và cuối cùng họ đã đè bẹp được những trận tấn công liên tục của các chiến xa địch quân. Sau đó, tôi được một cố vấn Mỹ kể lại chuyện một tiểu đội bộ binh VNCH được lệnh phải phá hủy 3 chiếc xe tăng của địch. Ông kể:

- Các binh sĩ của tiểu đội này phá hủy được một chiếc xe tăng, rồi sau đó họ lại tự quyết định bắt sống hai chiếc xe tăng kia. Họ rượt bộ và bắt được thêm một chiếc nữa, còn chiếc kia thì chạy thoát. Khi trở về pḥòng tuyến, họ bị khiển trách nặng nề.. vì đã để chiếc xe tăng kia tẩu thoát."


Tuy hành động của tiểu đội lính này không đúng với quân kỷ lắm, nhưng cái hành động đó đã nói lên tinh thần chiến đấu cao độ và sáng kiến tác chiến của rất nhiều binh sĩ VNCH. Chắc chắn sự kiện trên không thể hổ trợ luận điệu cáo buộc họ hèn nhát được.

Một chứng cớ điển hình hơn, trong những giờ phút cuối cùng của miền Nam Việt Nam năm 1975, khi mà nỗi tuyệt vọng bao trùm lên cả đất nước họ, khi mà biết rõ rằng Hoa Kỳ sẽ không yểm trợ gì nữa (ngay cả nhiên liệu và đạn dược); ấy thế mà một sư đoàn VNCH đã anh dũng cầm cự chiến đấu với bốn sư đoàn quân Bắc Việt trong suốt hai tuần lễ tại Xuân Lộc. Trên mọi bình diện, trận chiến Xuân Lộc đó cũng hào hùng như bất cứ trận chiến nào trong quân sử Hoa Kỳ. Các binh sĩ VNCH cuối cùng đã phải rút lui vì không lực của họ không còn bom cluster để yểm trợ cho lực lượng bộ binh đụng trận dưới đất.


Có lần tôi được coi một phim tài liệu truyền hình nói về một người phóng viên Úc đặc trách quay phim chiến trường. Khác với các phóng viên Mỹ, ông ta dành nhiều thì giờ theo sát binh sĩ VNCH. Ông ta công nhận tinh thần chiến đấu anh dũng của họ, và để minh chứng điều đó, ông đã cho trình chiếu cả cuốn phim. Ông ta nhớ lại rằng, trong chuyến thăm viếng một khu làng do địch quân kiểm soát, ông được nghe kể rằng Cộng Sản sợ binh sĩ VNCH hơn là sợ binh sĩ Mỹ. Cái lý do chính là binh sĩ Mỹ quá ồn ào, do đó địch quân luôn nghe trước được đường tiến quân của họ. Làm sao có được điều so sánh này nếu trên thực tế các binh sĩ VNCH không thuộc loại lính thiện chiến.


Tuy nhiên, cái chứng cớ quan trọng nhất để chứng minh tinh thần chiến đấu cao độ của binh sĩ VNCH nằm trong hai sự kiện thật đơn giản và rõ ràng sau đây, dù rằng các sự kiện này thường bị làm ngơ hoặc giả vờ không biết nhằm che đậy sự thất bại của Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Sự kiện thứ nhất: Chiến tranh đã bắt đầu từ 7 năm trước khi quân đội tác chiến Hoa Kỳ bước chân vào Việt Nam, và trận chiến đó vẫn tiếp tục kéo dài suốt 5 năm sau khi Hoa Kỳ rút quân. Phải có những người đứng ra chiến đấu trong thời gian đó, và không ai khác hơn là các binh sĩ VNCH.

Sự kiện thứ hai: Có độ 1/4 triệu binh sĩ VNCH hy sinh trong cuộc chiến. Nếu đem so sánh tỷ lệ dân số hai nước, thì con số này phải tương đương với khoảng hai triệu người Mỹ chết (gấp đôi tổng số thương vong của tất cả cuộc chiến Hoa Kỳ cộng lại). Bạn không thể tổn thất lớn lao như vậy nếu bạn không thực sự chiến đấu.

Thế thì tại sao thanh danh quân đội VNCH lại bị xúc phạm nặng nề như vậy?


Dĩ nhiên quân đội VNCH cũng có một số lần chiến đấu kém hiệu năng hoặc bị khủng hoảng, nhưng các trường hợp này cũng từng xảy ra trong quân đội Hoa Kỳ. Tôi biết một vị chỉ huy đơn vị pháo binh Hoa Kỳ đã có lần ra lệnh trực xạ vào địch quân vì lực lượng bộ binh Mỹ "bảo vệ" cho căn cứ pháo binh đã hốt hoảng tháo chạy trước hỏa lực hùng hậu của địch.

Sự kiện trên không có nghĩa là toàn thể quân đội Hoa Kỳ hèn nhát, và đôi lần thất bại của binh sĩ VNCH cũng không có nghĩa là toàn thể quân đội VNCH hèn nhát. Dù vậy, người ta lại rất dễ tin như thế khi được nghe kể lại từ chính miệng các cựu chiến binh Hoa Kỳ hoặc từ các chính trị gia nhằm chạy tội cho chính phủ Hoa Kỳ về việc bỏ rơi miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối.


Sự thật của vấn đề được diễn tả khéo nhất qua mẩu đối thoại cách đây gần hai thế kỷ khi một mệnh phụ Anh hỏi Quận Công Wellington rằng: "Có bao giờ quân Anh tháo chạy trên chiến trường không?" Vị Thiết Quận Công này trả lời: "Thưa bà, tất cả binh sĩ đều bỏ chạy trên chiến trường."

Chỉ cần lướt qua quân sử cũng đủ để xác nhận điều này. Trong suốt cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ, chúng ta đã thấy rất nhiều tấm gương can đảm nhưng cũng không thiếu gì các hành động khiếp nhược. Trên mặt trận, lúc đầu binh sĩ của hai phe Nam Bắc đều chiến đấu rất dũng cảm, rồi pḥòng tuyến vỡ, rồi bỏ chạy, rồi tái phối trí và chiến đấu trở lại. Không có quân đội nào được xem là có lòng hy sinh anh hùng hơn họ, nhưng những binh sĩ tham dự trận nội chiến này cũng không tránh khỏi những lúc thất điên bát đảo, và đó cũng là chuyện thường tình trên chiến trường.


Tác giả S.L.Ạ Marshall đã tường thuật chuyện một đại đội lính Mỹ trong Đệ Nhị Thế Chiến đã tháo chạy tán loạn trước tiếng la ré xung phong của một toán lính Nhật. Nhưng đại đội lính Mỹ khác thì lại tiếp tục chiến đấu, giết sạch hết toán lính Nhật (độ 10 người), và khám phá ra rằng hầu hết những tên lính Nhật này không võ trang gì cả. Nếu chuyện trên xảy ra cho một đơn vị quân đội VNCH, thì chắc chắn những kẻ muốn bôi nhọ quân đội này sẽ lợi dụng đó như là một "cơ hội bằng vàng"để mạ lị rằng toàn thể quân lực VNCH là hèn nhát.

Tại sao vậy? Tôi đã nêu ra câu trả lời rồi. Tất cả tùy thuộc vào màu da và ngôn ngữ của các binh sĩ liên hệ. Sự thật bỉ ổi là việc mạ lị quân đội VNCH lại xuất phát từ tinh thần kỳ thị chủng tộc và bồng bột của nền văn hóa Hoa Kỳ.


Tôi có thể làm chứng cho việc xuyên tạc đầy ác ý và phổ quát này. Khi vừa đến Việt Nam vào tháng 6 năm 1969, tôi đã chứng kiến ngay sự ngu ngơ và thái độ khinh bỉ của một số người Mỹ đối với nhân dân và quân đội VNCH. Cái thái độ đó nằm trong mọi tập thể quân nhân da trắng lẫn da đen, trong các giới dân sự cũng như ký giả Hoa Kỳ. Phong trào thù ghét đất nước và nhân dân Việt Nam bị lan tràn như một thứ bệnh dịch truyền nhiễm đáng ngạc nhiên.

Tôi quen một viên đại úy Hoa Kỳ tốt nghiệp về môn điện ảnh từ một viện đại học danh tiếng (một ngành chuyên môn được dùng để giúp nâng cao tŕnh độ nhận thức quan sát). Khi viên đại úy này trở lại đơn vị sau một chuyến công tác ngắn tại Thái Lan, anh ta ca ngợi đáo để dân tộc Thái Lan. Anh nói rằng: "Dân Thái Lan cho con cái đi học khác hẳn với dân Việt Nam". Anh ta ngạc nhiên nhưng lại không lộ vẻ hối hận khi tôi chỉ cho anh thấy một ngôi trường Việt Nam sát nách doanh trại chúng tôi. Bất cứ ai có mắt cũng đều thấy hàng trăm em học sinh mặc đồng phục quần xanh áo trắng qua lại mỗi ngày, chỉ trừ anh chàng phim ảnh này không nhìn thấy các em mà thôi


Thật là mỉa mai khi người Việt Nam có tiếng hiếu học hơn người Mỹ, và miền Nam Việt Nam đã nâng cao được mức biết đọc biết viết từ 20% lên 80% trong khi đất nước chiến tranh triền miên (và mặc dù Cộng Sản chủ trương giết hại các giáo chức), thế mà lại bị anh chàng phim ảnh này cho rằng Việt Nam không có trường học. Vì bị gởi đi chinh chiến xa xôi và bị cách biệt gia đình, nên anh Mỹ này nảy sinh lòng oán ghét Việt Nam, và tạo nên thành kiến rằng mọi người Việt Nam đều đáng khinh. Do đó, trong đầu anh cứ ám ảnh là Việt Nam không có trường học, dần rồi cái tâm lý bệnh hoạn đó đã làm hư đi cái khả năng nhận thức và đánh lừa cả thị giác của anh.

Hãy tưởng tượng cái tâm trạng của một tập thể lính Mỹ ít học, sống giữa một nền văn hóa xa lạ và thần kinh lúc nào cũng bị căng thẳng ra sao?! Có lẽ chúng ta không nên trách cứ những người lính thiếu học này, lỗi là do nơi các cấp chỉ huy Hoa Kỳ đã huấn luyện họ hiểu một cách mơ hồ về đất nước Việt Nam cũng như về thực chất của cuộc chiến.

Tuy nhiên, đó không phải là cái cớ để các cựu chiến binh Mỹ huênh hoang rằng họ hiểu những cái mà họ đã thấy tại Việt Nam. Các cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam cần được vinh danh về các đức tính can đảm, hy sinh, ái quốc của họ. Nhưng can đảm và hy sinh không đồng nghĩa với kiến thức. Đánh giặc tại Việt Nam không làm cho những người lính này trở thành những chuyên viên thông thạo về đất nước hoặc cuộc chiến Việt Nam, cũng như việc mang nặng đẻ đau không thể biến người đàn bà trở thành một chuyên gia về thai nhi học được.


Giới truyền thông Mỹ cũng chẳng khá gì hơn. Trong một phóng sự đầy thành kiến, tôi nghe một phóng viên lên án Không Lực VNCH - dù đã được tân trang qua chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh - thế mà lại "đẩy cho Không Quân Hoa Kỳ" thực hiện những phi vụ nguy hiểm ngoài Bắc Việt. Trên thực tế Hoa Kỳ không muốn Không Quân VNCH bay ra Bắc (chỉ trừ vài phi vụ oanh tạc ban đầu). Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ muốn kiểm soát kế hoạch oanh tạc để dùng nó như một lá bài thương thuyết. Vì không muốn miền Nam Việt Nam có bất cứ quyền kiểm soát nào trong chính sách oanh tạc, Hoa Kỳ đã trang bị cho Không Quân VNCH những vật dụng không thích hợp cho các phi vụ ra Bắc. Miền Nam Việt Nam không được cung cấp oanh tạc chiến đấu cơ, phi cơ tiếp liệu trên không, vũ khí hay các dụng cụ điện tử cần thiết cho các phi vụ này. Đó là quyết định của người Mỹ.


Câu hỏi đặt ra là có phải người phóng viên truyền hình nêu trên dốt đặc về sự kiện đó hay giả vờ không biết nhằm đi hạ nhục những đồng minh của Hoa Kỳ. Dựa vào các lời lẽ lố bịch, chói tai và thanh âm của anh ta, tôi kết luận rằng anh ta chủ mưu làm như vậỵ. Một thí dụ khác nói lên cái thành kiến của giới truyền thông, đó là trận chiến vây hãm Khe Sanh. Nếu bạn đi hỏi một ngàn người Mỹ từng nghe biết về trận đánh này rằng đơn vị nào chiến đấu tại Khe Sanh, thì có lẽ hầu hết đều trả lời là Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Nhưng sẽ làm họ ngạc nhiên nếu có một người trong số ngàn người đó nói rằng có một tiểu đoàn Biệt Động Quân VNCH đã cùng chia sẻ nỗi gian lao với các đồng minh Thủy Quân Lực Chiến Hoa Kỳ trong trận chiến ngặt nghèo đó. Có nhiều đơn vị VNCH khác cũng đã hổ trợ chiến đấu bên ngoài vòng đai căn cứ Khe Sanh.. Giới truyền thông Mỹ không đếm xỉa đề cập đến các chiến hữu đồng minh của Hoa Kỳ, mà họ chỉ để ý đến những điều bê bối thôi, bởi vậy những binh sĩ VNCH chiến đấu cam khổ này đã bị trở thành những chiến sĩ "vô hình" của Khe Sanh.


Tất cả thành kiến - trong quân đội cũng như trong truyền thông - được thể hiện rõ ràng qua các bản tin chiến sự về cuộc hành quân Hạ Lào năm 1972.

Trong cuốn phim tài liệu truyền hình mười năm trước đây, có một đoạn phỏng vấn lính Mỹ trong lúc chiến trường Hạ Lào đang tiếp diễn. Các lính Mỹ được phỏng vấn này đang sống an toàn tại hậu cứ Nam Việt Nam. Họ "giải thích" về sự chiến đấu của quân đội VNCH với những lời lẽ khinh bỉ và kỳ thị. Thế mà sau đó người phóng viên này đã ca ngợi khen mấy người lính G.I Mỹ đó am tường về tình hình chiến sự hơn là các nhà tướng lãnh Hoa Kỳ.

Trận Hạ Lào đã trở thành đề tài vì nó có liên quan đến một tấm hình có cảnh người lính VNCH bám vào cái càng máy bay trực thăng để trốn chạy khỏi chiến trường. Tấm hình này bị bêu riếu khắp nước Mỹ ngày này qua tháng nọ như là một "bằng chứng" về sự khiếp nhược của quân lực VNCH. Thực tế, đây là một trò cổ điển nói lên mãnh lực của sự xuyên tạc hình ảnh. Thật ra thì sự việc nó diễn tiến như sau: Binh sĩ VNCH bị tấn công bởi một lực lượng Cộng quân hùng hậu. Quân đội Hoa Kỳ đã thất bại trong việc yểm trợ như đã hứa vì hỏa lực phòng không của địch quá mạnh. Những báo cáo cho biết là lính trên trực thăng đã đạp những thùng đạn đại bác từ cao độ 5,000 feet xuống với hy vọng chúng sẽ rơi vào vòng đai của quân đội VNCH. Các trực thăng đó đã không thể nào bay thấp hơn được.



Đại tá Robert Monelli, một sĩ quan Hoa Kỳ có mặt trong mặt trận đó đã kể lại trên báo Armed Forces Journal số 19 tháng 4 năm 1972 như sau: "Một tiểu đoàn VNCH với 420 binh sĩ bi bao vây liên tiếp trong ba ngày bởi một trung đoàn Cộng Sản độ 2,500 đến 3,000 tên. Quân đội Hoa Kỳ không thể tiếp tế cho họ được. Họ phải chiến đấu cho tới khi gần hết đạn, rồi mở đường máu bằng khí giới tịch thu của địch. Họ đã mang theo tất cả binh sĩ bị thương và cả một số xác chết. Không ảnh thám sát chụp được rõ ràng có 637 xác địch rải rác chung quanh căn cứ.

Về phía quân đội VNCH, tiểu đoàn trên chỉ còn lại có 253 binh sĩ sau khi đến được vòng đai bạn. Chừng 17 người trong số binh sĩ này bị khủng hoảng và đã bám vào càng trực thăng để chạy trốn, số binh sĩ còn lại thì không làm như vậỵ"

Bây giờ, có thể một số người cho rằng hành động bám vào càng trực thăng đang bay và dễ làm mồi cho hỏa lực phòng không địch là một hành động gan dạ. Hãy xếp đề tài đó qua một bên, tôi muốn đề cập đến việc là tại sao chỉ có một trường hợp riêng lẻ như vậy - xáp lá cà mở đường máu rút lui (được coi là một chiến thuật khó khăn nhất trong binh thư) lại bị thổi phồng để đi lên án cả một quân lực, cả một quốc gia, cả một dân tộc?


Câu trả lời là tại vì kỳ thị chủng tộc. Các người lính VNCH bám lủng lẳng vào trực thăng bị coi là những tên ngoại quốc hợm hĩnh. Nhưng nếu là lính Mỹ, hay cả lính Anh, thì hành động này đã gây được lòng trắc ẩn vì được biện minh rằng họ vừa trải qua một cuộc thử thách đầy cam go. Bằng cớ cho lập luận này có thể thấy được qua cái phản ứng của người Mỹ đối với cuộc rút lui của binh sĩ Hoàng Gia Anh trong những ngày đầu của trận Đệ Nhị Thế Chiến. Từng có một số lần nhục nhã đã xảy ra trong quân đội Hoàng Gia Anh tại Dunkirk và nhiều nơi khác. Tại Dunkirk, một trung sĩ trên một chiếc tàu cấp cứu đã chĩa súng tiểu liên vào các binh sĩ khủng hoảng để duy trì trật tự. Trên một con thuyền khác, binh sĩ phải dùng báng súng đánh vào đầu một viên sĩ quan để ông ta khỏi leo qua mép thuyền làm nước tràn vào. Tại Crete, một lữ đoàn Tân Tây Lan phải lập vòng đai an toàn quanh biển bằng dao găm để ngăn chặn binh sĩ Hoàng Gia Anh tràn ngập lên thuyền. Cái hình ảnh quân đội Hoàng Gia Anh đơn thân độc mã chống lại Hitler năm 1940 thì ca ngợi là một biểu tượng đầy đủ dữ kiện, còn những trường hợp riêng lẻ như các trường hợp kể trên không được phép làm hoen ố cái bức tranh toàn cảnh dũng cảm và tận tụy của những người lính chiến.


Thành thật mà nói thì quân đội VNCH đã chiến đấu một cách tầm thường trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, ngoại trừ trận đánh hào hùng và tuyệt cú tại mặt trận Xuân Lộc. Nói vậy chứ nó cũng có những nguyên do của nó. Và cũng có nhiều yếu tố để ta tin rằng nếu nhận được sự yểm trợ chân thành từ phía Hoa Kỳ, quân đội VNCH đã có thể tạo được những trận thư hùng như kiểu Xuân Lộc, và không chừng ngay cả việc họ đã cứu vãn được đất nước.

Vấn đề đặt ra đây một lần nữa không phải đề bàn đến cách ứng xử của miền Nam Việt Nam, nhưng chính là đem so sánh cách ứng xử của họ với Hoa Kỳ để xem liệu Hoa Kỳ ứng xử ra sao nếu Hoa Kỳ bị nằm trong một hoàn cảnh, tình huống tương tự. Và thật sự - nếu binh sĩ Hoa Kỳ bị bỏ rơi giống như Hoa Kỳ đã cắt viện trợ Miền Nam Việt Nam một cách nặng nề trong năm 1974, nhiều tháng trước khi địch quân mở những trận tổng công kích lần chót. Hậu quả là chỉ có rất ít nhiên liệu và đạn dược cung cấp cho miền Nam Việt Nam. Phi cơ và quân xa của VNCH bị nằm ụ vì thiếu phụ tùng. Binh sĩ phải ra trận với máy truyền tin mà không có bình batteries, và các toán cứu thương thiếu cả các loại thuốc thang căn bản. Pháo binh thì bị giới hạn bắn được ba trái đạn mỗi ngày trong ngày cuối cùng của cuộc chiến. Tình trạng bi đát đến nỗi tư lệnh quân đội Bắc Việt xâm lăng miền Nam Việt Nam, tướng Văn Tiến Dũng cũng thừa nhận rằng khả năng di động và hỏa lực của quân đội VNCH đã sút giảm phân nửa. Bên cạnh những ảnh hưởng trực tiếp về vật chất, chúng ta cũng phải để ý đến những tác hại tinh thần đối với các binh sĩ VNCH. Lợi dụng tình thế bi thảm này, quân đội Bắc Việt đã ào ạt tấn công với đầy đủ vũ khí tối tân, chiến xa và đại bác di động.

Vâng, quân đội VNCH đã bại vong. Họ đã vất bỏ các chiến cụ (phần lớn đã không còn dùng được vì thiếu phụ tùng) và một số đạn dược (số đạn mà họ đã dành dụm tối đa cho đến khi nó trở thành quá muộn để bắn, bởi vì họ biết rằng sẽ không bao giờ nhận được tiếp tế nữa). Vậy thì lỗi của ai? Của họ... .hay của Hoa Kỳ?


Vâng, miền Nam Việt Nam rút quân khỏi các tỉnh cao nguyên e có phần trễ và vụng về, đưa đến sự khủng hoảng và sụp đổ. Nhưng làm sao chính phủ miền Nam Việt Nam lại cam tâm bỏ rơi đồng bào họ sớm hơn trước được, khi mà địch quân chưa tung ra một áp lực nào ? Đã có lúc miền Nam Việt Nam hy vọng oanh tạc cơ B52 Hoa Kỳ sẽ trở lại giúp họ ngăn chặn làn sóng tiến quân của Cộng Sản. Nhưng khi rõ ràng là việc này sẽ không xảy ra, binh sĩ trở nên hoang mang là một điều dễ hiểu thôi. Tinh thần chiến đấu suy sụp, nhiều binh sĩ bị bỏ ngũ - không phải họ hèn nhát hay không muốn chiến đấu bảo vệ tổ quốc, nhưng bởi vì họ không muốn chết một cách vô ích trong khi gia đình đang cần.

Liệu Hoa Kỳ đã có thể làm gì khá hơn nếu ở trong tình trạng y hệt miền Nam Việt Nam thời 1975? Liệu các đơn vị Hoa Kỳ có tiếp tục hăng say chiến đấu trong lúc quân xa và hệ thống truyền tin thì hư hỏng, y tế thì què quặt, nhiên liệu và đạn dược thì thiếu thốn, không được máy bay yểm trợ - lại phải đương đầu trước một địch quân hùng hậu hỏa lực, đầy đủ tiếp liệu và tinh thần phấn khởi ? Tôi không tin như vậy.



Liệu miền Nam Việt Nam có thể chiến thắng vào năm 1975 nếu chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ cho họ một số lượng tương đương với số tiếp liệu mà khối Cộng Sản đổ vào Bắc Việt ? Câu trả lời không ai biết được. Nhưng chắc chắn một điều là họ cũng có được cơ hội chiến đấu bình đẳng, thế mà Hoa Kỳ đã phản bội tước đi cái cơ hội này của họ. Chắc chắn họ đã có thể chiến đấu một cách hiệu quả hơn. Rồi dù có thua, họ cũng thua một cách hào hùng trong một trận chiến để đời, và biết đâu đã chẳng tạo được một cuộc kháng chiến thần thánh như A Phú Hãn.

Ví dù miền Nam Việt Nam có bị đại bại hoàn toàn, cái yểm trợ tận lực của Hoa Kỳ sẽ cho phép người Mỹ nhún vai và nói rằng họ đã cố gắng hết sức. Nhưng, Hoa Kỳ đã không tận lực, mà trái lại người Mỹ lại còn cố gắng che đậy sự thật bằng cách bôi nhọ miền Nam Việt Nam và nhục mạ quân lực VNCH đã sai lầm.


Bây giờ đã quá trễ để Hoa Kỳ chuộc lại tội ác tầy trời khi bỏ rơi nhân dân miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản. Nhưng nó chưa quá trễ để Hoa Kỳ thú nhận lỗi lầm trong việc nhục mạ họ. Và cũng chưa quá trễ để bắt đầu vinh danh các thành quả và lòng dũng cảm của những binh sĩ VNCH đã chiến đấu bảo vệ lý tưởng tự do.

Ngô Kỷ chuyển ngữ







HEROIC ALLIES 
by Harry F. Noyes III
"Vietnam" - August 1993


They were small, talked in sing-song squeaks, put a smelly fish sauce on their food, and often held hands with each other. 

It is not surprising that American troops sent to Southeast Asia -- mostly young, indifferently educated, and molded by a society with too much self-esteem and too little understanding of other cultures -- found it hard to empathize with South Vietnam's soldiers. 

Still, it is a pity that many veterans of the Vietnam War have joined radical agitators, draft dodgers and smoke-screen politicians to besmirch the honor of an army that can no longer defend itself. To slander an army that died in battle because America abandoned it is a contemptible deed, unworthy of American soldiers. 

Perhaps some find my assertion incredible. How can I possibly defend the armed forces of South Vietnam? Everybody "knows" they were incompetent, treacherous and cowardly, isn't that so? 

No, it is not. This article will outline some of the more compelling evidence against this scurrilous mythology and also examine why such a mythology arose to begin with. 

Of course, the South Vietnamese forces were imperfect. They had their share of bad leaders, cowardly troops, and incidents of panic, blundering and brutality. So did the American forces in Southeast Asia. 

In some respects -- organization, logistics, staff work and leadership -- South Vietnam's armed forces did lag behind U.S. forces. But how could one expect otherwise in a developing nation that had just emerged from colonialism and was suddenly plunged into a war to the death against a powerful enemy supplied by the Communist bloc? 

In fact, many of the weaknesses exhibited by the South Vietnamese forces were identical to the ones displayed by the U.S. armed forces during the American War of Independence, even though late 18th-century America had several advantages: the whole scale of the Revolutionary War was smaller and easier to manage; America's colonial experience, unlike Vietnam's, had fostered local self-government and permitted the country to develop some truly outstanding leaders; the British were less persistent than the North Vietnamese; and the French allies did not abandon young America the way the U.S. government abandoned South Vietnam. 

But in any case, organization, logistics, staff work and even leadership are not the qualities at issue in the slandering of the South Vietnamese forces. 

Two questions touch on the real issue. Were South Vietnamese fighting men so lacking in character, courage, toughness and patriotism that Americans are justified in slandering them and assigning them all blame for the defeat of freedom in Southeast Asia? Were U.S. soldiers so much better than their allies that Americans can afford to treat the South Vietnamese with contempt? The answer to both questions, I submit, is a resounding "No!" 

The objective "big-picture" evidence is clear The Tet Offensive of 1968 was supposed to crack South Vietnam's will to resist. Instead, South Vietnamese forces fought ferociously and effectively: no unit collapsed or ran. Even the police fought, turning their pistols against heavily armed enemy regulars. Afterward the number of South Vietnamese enlistments rose so high, according to reports at the time, that the country's government suspended the draft call for a while. 

In the 1972 Easter tide Offensive, isolated South Vietnamese troops at An Loc held out against overwhelming enemy forces and artillery/rocket fire for days, defeating repeated tank assaults. I later met a U.S. adviser who described how a South Vietnamese infantry squad in his area was sent to destroy three enemy tanks. The members of the squad dutifully destroyed one tank, then decided to capture the other two. As I remember, they got one, but the other made its escape, with the South Vietnamese chasing it down a road on foot. The soldiers got chewed out upon returning...for letting one tank get away. The squad's performance may not be the best demonstration of military discipline, but the incident demonstrates the high morale and initiative that many South Vietnamese soldiers possessed. Certainly it does not support charges of cowardice. 

As further evidence, consider South Vietnam's final moments as an independent nation in 1975, when justifiable despair gripped the country because it became clear that the United States would provide no help (not even fuel and ammunition). Yet one division-sized South Vietnamese unit held off four North Vietnamese divisions for some two weeks in fierce fighting at Xuan Loc. By all accounts, that battle was as heroic as anything in the annals of U.S. military history. The South Vietnamese finally had to withdraw when their air force ran out of cluster bombs for supporting the ground troops. 

Once I saw a television documentary about an Australian cameraman who had covered the war. Unlike U.S. reporters, he spent much of his time with the South Vietnamese forces. He attested to their fighting spirit and showed film footage to prove it. He also recalled visiting an enemy-controlled village and being told that the Communists feared South Vietnamese troops more than Americans. The principal reason was that Americans were noisy, so the enemy always heard them coming. But that would have been immaterial if the South Vietnamese had not also been dangerous fighters. 

However, the most important evidence of South Vietnamese soldiers' willingness to fight comes from two simple, undeniable, "big-picture" facts -- facts that are often ignored or disguised to cover up American failure in Vietnam. 

Fact One: The war began some seven years before major American combat forces arrived and continued for some five years after the U.S. began withdrawing. Somebody was doing the fighting, and that somebody was the South Vietnamese. 

Fact Two: The South Vietnamese armed forces lost about a quarter-million dead. In proportion to population, that was equivalent to some 2 million American dead (double the actual U.S. losses in all wars combined). You don't suffer that way if you're not fighting. 

How, then, did the South Vietnamese get their bad reputation? 

Certainly there were occasional displays of incompetence and panic by South Vietnamese forces. The same can be said of U.S. forces. I knew an American artillery commander whose gunners once had to defend their firebase by firing canister point-bank into enemy ranks because the U.S. infantry company "protecting" them had broken in the face of the enemy assault and was huddling, panic-stricken, in the midst of the guns. 

That incident does not mean the whole U.S. Army was cowardly, and occasional breakdowns among America's allies did not mean all South Vietnamese soldiers were cowards. Yet one would think so, the way the story gets told by some veterans -- and by the political apologists for a U.S. government that left South Vietnam in the lurch. 

The truth of the matter was best stated nearly two centuries ago when a British woman asked the Duke of Wellington if British soldiers were ever known to run in battle. "Madam," replied the Iron Duke, "All soldiers run in battle." 

Even a cursory study of military history confirms this. Civil War battles reveal a continuous ebb and flow of bravery and fear, as Confederate and Union units alike first attacked bravely, then crumbled and fled under horrendous fire, before regrouping and charging again. No armies ever laid more justified claim to sheer self-sacrificing heroism than those two, yet they were subject to panic as a routine price for doing bloody business on the battlefield. 

Author S.L.A. Marshall describes how one American rifle company in World War II fled in panic from a screaming Japanese banzai charge: a second unit fought on, quickly killing every Japanese soldier involved (about 10), and discovered that most of them were not even armed. 

If the same thing had happened to a South Vietnamese unit, it undoubtedly would have been cited repeatedly by self-appointed pundits as incontrovertible proof of the cowardice of all South Vietnamese troops. 

Why? We've already hinted at the answer. It all depends on the color and native tongue of the troops involved. The ugly truth is that the South Vietnamese forces' false reputation is rooted in American racism and cultural chauvinism. 

I can personally attest to the pervading, massive and truth-distorting reality of the phenomenon. When I arrived in Vietnam in June 1969, I immediately began to witness continuous displays of ignorance and contempt by some Americans toward the Vietnamese people and their armed forces. 

White troops, black troops, and civilian Americans such as journalists -- all were equally afflicted. This passionate hatred of Vietnam and its people had an astonishing power to become contagious. 

I knew an American captain with a graduate degree from a prestigious university in cinematography (presumably a specialty that improves visual perceptiveness). He once returned from temporary duty in Thailand singing the praises of the Thai. 

"They send their kids to school," he said, contrasting them with the South Vietnamese. He was surprised, but not repentant, when I pointed out that there was a Vietnamese school right next door to our compound! Hundreds of little kids in bright blue-and-white school uniforms could be seen there daily -- by anyone whose eyes were open. But this filmmaker apparently could not see them. 

It is ironic that the Vietnamese -- who by reputation honor learning more than Americans do and who raised South Vietnam's literacy rate from about 20 percent to 80 percent even as war raged around them (and despite the enemy's habit of murdering teachers) -- were accused by the filmmaker of having no schools. 

Because he was fighting in a foreign country and was separated from his family, this American had built up a hatred for Vietnam, and he wanted to believe the Vietnamese people were contemptible. Therefore, it was important to him to believe that they had no schools; and his emotions literally interdicted his optic nerves. 

Imagine the feelings of the undereducated masses of American troops faced with a strange culture in a high-stress environment! Perhaps one cannot blame the troops for their ignorance. Heaven knows the U.S. command made only the most perfunctory effort to educate them about Vietnam and the nature of the war. 

However, that is no excuse for veterans to pretend that they understand what they saw in Vietnam. America's Vietnam veterans must be honored for their courage, sacrifice and loyalty to their country. But courage and sacrifice are not the same as knowledge. Fighting in Vietnam didn't make soldiers into experts on the country or the war, any more than having a baby makes a woman an expert on embryology 

What most U.S. soldiers did there taught them little or nothing about South Vietnam's culture, society, politics, etc Few Americans spoke more than a half-dozen words of Vietnamese; even fewer read Vietnamese books and newspapers; and not many more read books about Vietnam in English. 

Except for advisers, few Americans worked with any Vietnamese other than (perhaps) the clerks, laundresses and waitresses employed by U.S. forces. 

Most important for our purpose, few U.S. troops ever observed South Vietnamese forces in combat. Even the ones who did rarely considered the attitude differences that must have existed between soldiers like the Americans, who only had to get through one year and knew their families were safe at home, and troops like the South Vietnamese, who had to worry about their families' safety every day and who knew that only death or grievous wounds would release them from the army. The Vietnamese naturally used a different measuring stick to determine what was important in fighting the war. 

Journalists were no better. Consider a biased TV report I heard in which a reporter denounced South Vietnam's air force because -- despite Vietnamization -- it "let the Americans" fly the tough missions against North Vietnam. 

In fact, it was the United States that would not let the South Vietnamese fly into North Vietnam (except for a few missions in the early days of the bombing). The American leaders wanted to control the bombing so that the United States could use it as a negotiating tool. 

Not wanting the South Vietnamese to have any control over bombing policy, the U.S. forces deliberately gave them equipment unsuited for missions up North. South Vietnam did not get the fighter-bombers, weapons, refueling aircraft or electronic-warfare equipment necessary for such missions. It was an American decision. 

The TV reporter in question either was ignorant of that fact or chose to ignore it in order to do a hatchet job on the American allies. Considering his blatantly biased words and tone of voice, I concluded that any ignorance he suffered from was deliberate. 

Another example of media bias came during the Khe Sanh siege. If you asked a thousand Americans which units fought at Khe Sanh, most of those who had heard of the battle would probably know that U.S Marines did. But it would be surprising if more than one out of the thousand knew that a South Vietnamese Ranger battalion had shared the rigors of the siege with American Marines. Other South Vietnamese units took part in supporting operations outside the besieged area. The U.S. media just did not consider the American allies worthy of coverage unless they were doing something shameful, so these hard-fighting soldiers became quite literally the invisible heroes of Khe Sanh. 

All this -- soldier and media bias -- came together clearly during news reports of the 1972 incursion into Laos. 

Consider a TV documentary a decade ago. It included film of some American GIs being interviewed during the Laotian fighting. These guys, themselves safely inside South Vietnam, were "explaining" the South Vietnamese army's struggle in contemptuous, racist remarks. The reporter then suggested that these American GIs understood the situation better than the American generals. 

The incursion, of course, is the source of the infamous photo of a South Vietnamese soldier escaping from Laos by clinging to a helicopter skid. This image was and is held up to Americans again and again as "proof" of South Vietnamese unworthiness. 

In fact, it is a classic example of photography's power to lie. What happened was this: The South Vietnamese were struck by overwhelming Communist forces. The U.S. military failed to provide the support that had been promised because enemy anti-aircraft fire was too strong. There were reports of U.S. helicopter crews kicking boxes of howitzer ammunition out the doors from 5,000 feet up, hoping the stuff would land inside South Vietnamese perimeters. The helicopters simply couldn't get any closer. 

Given that context, consider the way Colonel Robert Molinelli, an American officer who witnessed the action, described it in the Armed Forces Journal of April 19, 1971: "A South Vietnamese battalion of 420 men was surrounded by an enemy regiment of 2,500-3,300 men for three days. The U.S. could not get supplies to the unit. It fought till it ran low on ammunition, then battled its way out of the encirclement using captured enemy weapons and ammunition. It carried all of its wounded and some of its dead with it. Reconnaissance photos showed 637 visible enemy dead around its position. 

The unit was down to 253 effectives when it reached another South Vietnamese perimeter. Some 17 of those men did panic and rode helicopter skids to escape. The rest did not. 

Now, some might consider dangling from a high-flying, fast-moving helicopter for many miles, subject to anti-aircraft fire, to be a pretty gutsy move. But, aside from that, how can such an isolated incident -- during a hard-fought withdrawal-while-in-contact (universally acknowledged to be just about the toughest maneuver in the military inventory) -- be inflated into condemnation of an entire army, nation and population? 

The answer is racism. The guys hanging from the helicopter skids were funny-looking foreigners. If they had been Americans, or even British, the reaction undoubtedly would have been one of compassion for the ordeal they had been through. 

Evidence for this is found in how Americans responded to the British retreats early in World War II. 

There were some disgraceful displays among British forces at Dunkirk and elsewhere. At Dunkirk a sergeant in one evacuation boat had to aim a submachine gun at his panicky charges to keep order on board. On another boat soldiers had to pummel an officer with their weapons to keep him from climbing over the gunwale and swamping the boat. In Crete, a New Zealand brigade had to ring its assigned embarkation beach with a cordon of bayonets to keep fear-stricken English troops from swarming over the boats. 

Yet the image of Britain's lonely stand against Hitler in 1940 is one of heroism. That's perfectly justified by the facts, and isolated incidents like the ones described above should not detract from the overall picture of courage and devotion. 

It is certainly true that South Vietnamese forces gave an undistinguished performance in the final days, with the exception of the incredibly heroic defense of Xuan Loc. 

Yet there are reasons for that. And there are reasons to believe that, with more loyal support from the Americans, the South Vietnamese could have turned in more Xuan Loc-style performances and perhaps even have saved their country. 

The real issue again is not just how the South Vietnamese performed, however; it is how their performance compared with the way Americans might have performed under similar circumstances. 

And the truth is that American troops -- if they were abandoned by the U.S. the way South Vietnamese were -- probably would perform no better than the South Vietnamese did. 

Remember: the United States had cut aid to South Vietnam drastically in 1974, months before the final enemy offensive. As a result, only a little fuel and ammunition were being sent to South Vietnam. South Vietnamese air and ground vehicles were immobilized by lack of spare parts. Troops went into battle without batteries for their radios, and their medics lacked basic supplies. South Vietnamese rifles and artillery pieces were rationed to three rounds of ammunition per day in the last months of the war 

The situation was so bad that even the North Vietnamese commander who conquered South Vietnam, General Van Tien Dung, admitted his enemy's mobility and firepower had been cut in half. Aside from the direct physical effect, we must take into account the impact this impoverishment had on South Vietnamese soldiers' morale. 

Into this miserable state of affairs the North Vietnamese slashed, with a well-equipped, well-supplied tank-and-motorized-infantry blitzkrieg. 

Yes, the South Vietnamese folded. Yes, they abandoned some equipment (much of which would not work anyway for lack of spare parts) and some ammunition (which they had hoarded until it was too late to shoot it or move it, because they knew they would never get any more). So whose fault was that? Theirs... or America's? 

Yes, South Vietnam's withdrawal from the vulnerable northern provinces was belated and clumsy, leading to panic and collapse. But how could the South Vietnamese government have abandoned its people any earlier, before the enemy literally forced it to? 

For a while the South Vietnamese hoped the American B-52s would return and help stem the Communist tide. When it became clear they would not, understandable demoralization set in. 

The fighting spirit of the forces was sapped, and many South Vietnamese soldiers deserted -- not because they were cowards or were not willing to fight for their country, but because they were unwilling to die for a lost cause when their families desperately needed them. 

Would Americans do any better under the conditions that faced the South Vietnamese in 1975? Would U.S. units fight well with broken vehicles and communications, a crippled medical system, inadequate fuel and ammunition, and little or no air support -- against a powerful, well-supplied and confident foe? I doubt it 

Would the South Vietnamese have won in 1975 if the U.S. government had kept up its side of the bargain and continued matching the aid poured into North Vietnamese by the Communists? 

The answer is unknowable. Certainly they would have had a fighting chance, something the U.S. betrayal denied them. Certainly they could have fought more effectively. Even if defeated, they might have gone down heroically in a fight that could have formed the basis for a nation-building legend and for continued resistance against Communism on the Afghan model. 

Even if the South Vietnamese had been totally defeated, wholehearted U.S. support would have enabled Americans to shrug and say they had done their best. However, the U.S. did not do its best, and for Americans to try to disguise that fact by slandering the memory of South Vietnam and its army is wrong. 

It is too late now for Americans to make good the terrible crime committed in abandoning the South Vietnamese people to Communism. But it is not too late to acknowledge the error of American insults to their memory. It is not too late to begin paying proper honor to their achievements and their heroic attempt to defend their liberty.

Harry F. Noyes III (BA, University of the South; MA, University of Hawaii) served four years of active duty in the Air Force after his ROTC commissioning in 1967. He was an information officer at Norton AFB, California, and Yokota AB, Japan, and a film researcher/scenarist at Tan Son Nhut AB, South Vietnam. Presently a civilian public affairs specialist at Headquarters US Army Health Services Command, Fort Sam Houston, Texas, he has been editor of the joint Army-Air Force Wiesbaden Post, Wiesbaden Military Community, West Germany, and a reporter covering military affairs at Fort Head, Texas, for the Killeen Daily Herald. He has written articles for a variety of publications.

Hình Lính Việt Nam Cộng Hòa Chiến Đấu:

Mời bấm vào Link dưới xem hình, khi bấm vào mỗi hình thì bên trái có nổi lên khung VIEW MORE, bấm vào khung VIEW MORE sẽ hiện thêm ra trang hình khác nữa. Rất nhiều hình để xem.


YOUTUBE:

Ngày Còn Chinh Chiến
by TheLPSLIDESHOWS

Việt Nam Cộng Hòa 63-75


Vùng 1 Chiến Thuật:

Vùng 2 Chiến Thuật (Cao Nguyên):

Vùng 2 Chiến Thuật (Duyên Hải):

Vùng 3 Chiến Thuật:

Vùng 4 Chiến Thuật:

Lễ Duyệt Binh Kỷ Niệm Ngày QLVNCH 19-6 tại Thủ Đô Sài Gòn



Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa 19-6-1971, 19-6-1973

https://www.youtube.com/watch? v=1x8qpFy_abs

YOUTUBE: Mời Quý Vị bấm vào những links dưới đây 

để xem hình ảnh kiêu hùng của những Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà:


Chú thích các hình dưới:

Vào năm 2000 Ngô Kỷ và quý anh Cựu Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa lái xe hơi đi vòng quanh nước Mỹ từ California tới Hoa Thịnh Đốn, xuyên qua nhiều tiểu bang, mang theo 3 bức tượng Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Nữ Cứu Thương do Ngô Kỷ thực hiện một cách gọn nhẹ, được  trưng bày tại các nơi đông người, quan trọng khắp tiểu bang lớn như California, New York, Chicago, Philadelphia, Hoa Thịnh Đốn, trước Tòa Bạch Ốc v.v…nhằm  vinh danh sự chiến đấu anh dũng hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh Hoa Kỳ trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam trước 1975. 

Sự đóng góp nho nhỏ này của Ngô Kỷ giúp cho nhân dân Mỹ hiểu rõ thêm về sự thật về cuộc chiến chính nghĩa của Quân Dân Cán Chính Miền Nam Việt Nam, và nhận thức rõ về sự chiến đấu cao cả của các Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

photo 1w5117_zps6ddf7e55.jpg

San Jose, Bắc California

Ngô Kỷ chở 3 bức tượng này đi vòng quanh nước Mỹ. Hình chụp tại Philadelphia, Pennsylvania

photo 1w2111_zps464b9fb3.jpg
photo 1w2112_zpsff345315.jpg

Du khách chụp hình lưu niệm tại Philadelphia, Pennsylvania
photo 1w2114_zps896248e7.jpg

Đài truyền hình nổi tiếng Hoa Kỳ FOX NEWS quay phim, phỏng vấn Ngô Kỷ tại Philadelphia, Pennsylvania



photo 1w6112_zps0d4a2101.jpg
photo1w7112_zps30b4cd9d.jpg
photo 1w7114_zps74225eef.jpg
photo 1w7116_zpsde0f026b.jpg
photo 1w7118_zps802584fd.jpg
photo 1w7121_zpsb3b2e4bc.jpgphoto 1w7132_zps4e5cf860.jpg
photo 1w7142_zpsf48ed69f.jpg
photo 1w7152_zpsedc5cbd9.jpg
photo 1w7156_zps6ac32eb5.jpgphoto1w8112_zps429fe19f.jpg
photo 1w8115_zps9f73b185.jpg
photo 1w8122_zps2f5343c3.jpg
photo 1w8132_zpsa632ea97.jpg
photo 1w8134_zps983f3c20.jpg
photo 1w8136_zps9aeca51d.jpgphoto 1w8138_zps018d0a89.jpg
photo 1w8143_zpsbb148354.jpg
photo 1w8152_zpsdd5f45a6.jpg
photo1w8155_zpsf2152a62.jpg
photo 1w8158_zpsfbe6ba4d.jpg
photo 1w8161_zpsf107a352.jpg
photo1w8163_zpsee995689.jpg

 


__._,_.___


Posted by: KY ngo <ngokyusa2@yahoo.com> 

Người Chiến Sĩ VNCH ngày cuối cùng của cuộc chiến

$
0
0

thienthanmudo02
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua(*)


Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:

a-1j_6sos_bombing1

1/ Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ – chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ.

unsungheros

Trong khi đó, nhiều người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng lửa” AC-119 đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nồng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng đông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29/4, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào 

xuống mặt đất

.ac-119k-stinger-gunship72dpi1

Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 tháng 4, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng hi sinh”.

ac119_down
2/ Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch Long (từ trang 312 đến 314) Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đã xảy ra ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 tháng 4, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng Sản. Trong ngày 29 tháng 4, tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Saigon. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân Nhảy dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Saigon từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh… Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Saigon.

t54-1

Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, tướng Phát và những người đầu hàng. Họ vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 tháng, ở vùng Một và vùng Hai, và trong những trận rút bỏ khác.) Những người lính chiến đấu này không có…radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang thắng thế. Họ không cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn một chút hi vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư tưởng bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù Cộng Sản và sẵn sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ. Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.

t285161lb8

Trong thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ Ngả tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng…bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106 ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng Sản ở trong xe tăng.

tqlc-2

Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập thì bị quân Nhẩy Dù án ngữ. Quân Nhẩy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai Saigon. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà. Hầu như những cánh quân Cộng Sản đầu tiên tiến vào Saigon theo ngả này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Saigon. Tất cả hai cánh quân Việt cộng đều khựng lại

.ladieusgn

Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng vội giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, thiếu tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu. Tất cả những người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm đường về nhà.

delta

Một câu chuyện khác do tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt thiếu tướng”, rồi rút súng bắn vào đầu tự tử.

nguyenvannam1004-1

Khi vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho gia đình. Tự tử không có ích lợi gì cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử. Đến 1 giờ trưa, tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó tướng Ba Hồng mời tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những chiến xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngvòng đai Saigon. Nhưng sự đầu hàng của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng Sản (tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana, California ngày 30 tháng 10, 1998)

tsq_bw21
Nhưng hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 tháng 4. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm chắc cái thắng trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với các em Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má…

ttsqvn21
3/ Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 tháng 5 năm 1975, bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề “Truy Điệu Nam Việt Nam” “…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc.

svsq_thuduc

Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. 
Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn

war

4/ Tài liệu của ký giả người Pháp Jean Larteguy, đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và 30 tháng 4-75. Thứ Hai 28/4/75 Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.

nhaydutancong

Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “…Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.”

vobidalat

Một đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!” Vì sao? – Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản! “…Các xe tăng đầu tiên của Cộng Sản vào Saigon từ phía đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa…
Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều.

bietkichdu

Từ ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù

 do Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh,



 td3nd

Sỉ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon. Một lần trước trụ sở Cảnh sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng…” Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.

__._,_.___

Posted by: Quang Dang Thai 

Lời Phân Trần Của "Hàng" Tướng Dương Văn Minh Kính mời quý vị xem bài của TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG & Luật sư Nguyễn Văn Chức về Lời Phân Trần Của Hàng Tướng Dương Văn Minh

$
0
0

THANH MINH 2..

Image result for Tướng Dương Văn Minh

Lời Phân Trần Của "Hàng" Tướng Dương Văn Minh
Kính mời quý vị xem bài của TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG & Luật sư Nguyễn Văn Chức về Lời Phân Trần Của Hàng Tướng Dương Văn Minh
Toàn bộ bức thư của Tướng Dương văn Minh viết cho Tướng Nguyễn chánh Thi có nội dung như sau:
15-4-87
“Thi,
Ðược tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.
Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không – Pháp chẳng giúp đỡ gì – mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.
Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết.
Anh em có đọc sách của anh Ðỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Ðỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần-lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Ðỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.
Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Ðôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra. Có lẽ anh Ðỗ Mậu (cũng như nhiều người) không rõ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đã tham khảo ý kiến với một số những vị dân biểu và nghị sĩ còn lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đã nói và đã nhắn nhủ để cứu dân.
Riêng tôi, tôi không tự tử không phải vì thiếu can đảm, nhưng vì những lý do rất đơn sơ :
- Tôi không tự sát vì thân thể mình do Trời Ðất (Ân trên) kết tạo, cha mẹ sanh dưỡng, mình không có quyền hy sinh.
- Mình có quyền hy sinh : tên tuổi, uy tín, tài sản, công nghiệp v…v Tóm tắt mình chỉ có quyền hy sinh những gì mình tạo ra mà thôi.
Ðây là một lý thuyết tôi đã hấp thụ từ khi biết khôn và áp dụng suốt đời, đối với tôi cũng như đối với tất cả người khác. Hôm nay tôi nói ra để cho Thi hiểu, vì lúc nào tôi cũng xem Thi như một người em trên mọi mặt, chớ không phải nói ra để phân trần chi chi. Tôi đã dám làm thì tôi cũng dám chấp nhận những búa rìu bất cứ từ đâu tới. Không có gì thắc mắc cả, và tôi coi đây chỉ là một giai đoạn thôi. Cầu xin dân ta và anh em giữ vững tinh thần thì có ngày xum họp trên quê cha đất tổ.
Tôi đã nói nhiều quá ! Lúc nào tôi cũng nhớ anh em, nhờ Thi gởi lời thăm tất cả. Tôi không mong gì hơn được gặp lại các bạn.
Thân mến
Dương văn Minh”
Có đọc lá thư trên mới thấy Dương văn Minh là con người hiền hòa, nhưng rõ ràng ông không có cái Dũng của một người làm tướng. Về điểm này ông giống Ðại tướng Võ nguyên Giáp của miền Bắc, cúi đầu nhận chức Cai đẻ mà không dám hó hé phản đối. Trong phạm vi gia đình, sai lầm của người chủ gia đình có thể dẫn tới chuyện gia đình ấy suy sụp, tan vỡ. Còn nếu làm tới chức vụ nguyên thủ quốc gia như tướng Dương văn Minh mà “tham sinh úy tử”, nhu nhược, thiếu khôn ngoan quyền biến thì chỉ đưa quốc gia đến chỗ suy tàn, thảm bại. Bài học Dương văn Minh dành cho những người làm chính trị là phải luôn tự lượng sức mình, nếu mình “tài hèn, trí đoản”, tham sống sợ chết mà cứ nhắm tới những chức vụ to tát lãnh đạo quốc gia thì chức vụ cao trọng này không mang lại vinh quang mà chỉ mang lại cho mình những sự nhục nhã ê chề và bị bia miệng ngàn đời chê trách.
Một cái nhìn về Dương Văn Minh
Ngày 30-4-1975, một quân lực đứng vào hàng thiện chiến và dũng cảm nhất thế giới đã bị trói tay và phải buông súng trước quân thù. Vì sự hèn nhát của lãnh đạo và sự phản bội của đồng minh.
Ngày 30-4-1975, VC đã dùng võ lực, xé nát hiệp định Ba Lê, bản văn mà chúng nó đã long trọng ký kết trước mặt thế giới.
Ngày hôm đó, nước Mỹ đã ôm đầu bỏ chạy, trước sự vi phạm thô bạo một hiệp định quốc tế, bản văn mà chính Mỹ đã khởi xướng và long trọng ký kết trước mặt thế giới. Ngày hôm đó, Tây Phương đã cúi mặt trước sự vi phạm một hiệp định quốc tế, bản văn mà chính Tây Phương đã cổ võ, ca ngợi, trước mặt thế giới, nhân danh những lý tưởng nhân đạo tự do và hòa bình.
Ngày 30-4-1975, khi xác của người sĩ quan QLVNCH tự sát dưới chân đài chiến sĩ đường Lê Lợi chưa kịp lạnh thì Dương Văn Minh mũ mãng “bàn giao” miền Nam cho VC. Đúng là một trò hề, một trò hề lơ láo của một tên hề lơ láo. Bọn VC nón cối dép râu mang xe tăng húc sập cánh cửa Dinh Độc Lập, tiến vào chiếm hữu ngôi nhà biểu tượng cho chủ quyền Quốc Gia của miền Nam, chứ đâu có vào để nhận bàn giao. Đối với VC, buổi lễ “bàn giao” hôm đó chỉ là một hành vi quỳ lậy và khiếp nhược của một tên tướng Nguỵ. Đối với người Quốc Gia nói chung và Quân Lực VNCH nói riêng, thì ngoài phong cách hèn hạ và khiếp nhược của một quân nhân, Dương Văn Minh còn là một đứa đần độn và háo danh.
Ngày 28-4-75, khi cu. Trần Văn Hương từ chức Tổng Thống VNCH, thì định chế hành pháp không còn nữa. Định chế lập pháp, tức quốc hội, thì lại không có quyền bầu tổng thống, hoặc chỉ định tổng thống, hoặc cho phép ai trao chức vụ tổng thống cho ai. Bởi lẽ: quốc hội không phải là sở hữu chủ chủ quyền nhân dân. Với tư cách thụ ủy đó, quốc hội chỉ được làm những điều mà nhân dân đã mịnh thị giao phó, qua những điều khoản được ghi trong hiến pháp. Mà hiến pháp thì không có điều khoản nào cho phép quốc hội được trao chức vụ tổng thống cho ai.
Tổng thống đương nhiệm lúc đó, cu. Trần Văn Hương, cũng không có quyền trao lại chức vụ tổng thống cho ai. Thổng thống đương nhiệm lúc đó, cu. Trần Văn Hương, cũng không có quyền trao lại chức vụ tổng thống cho người khác. Vì vậy, trong những ngày tháng chót của Quốc Gia miền Nam, khi Dương Văn Minh nằng nặc đòi cu. Hương trao quyền tổng thống VNCH cho y, thì mọi người đã nhìn thấy rõ cái hèn, cáo háo danh và nhất là cái đần độn của y. Y nằng nặc đòi được làm tổng thống, để mũ mãng đi đầu hàng.
Cái hèn và háo danh đần độn ấy đã chẳng giúp cho CS Bắc Việt ngụy tạo được hào quang cho cái gọi là đại thắng mùa Xuân. Cũng chẳng giúp cho các nhà làm lịch sử sau này có dữ kiện để viết rằng: chính quyền hợp pháp của Quốc Gia Miền Nam đã đầu hàng.
Ngày 30-4-1975, Quốc Gia Miền Nam chỉ còn là đống hoang tàn. Trên đống hoang tàn ấy, Văn Tiến Dũng và đoàn quân của y đã nhặt được một cái túi phong lưu (capote, condom), món trang sức của đêm giao hoan giữa thằng điếm tư bản quốc tế với con đĩ vô sản quốc tế. Văn Tiến Dũng ngậm cái túi phong lưu ấy vào mồm, thổi cho căng lên, gọi đó là đại thắng mùa Xuân.
Trước khi cái túi phong lưu được thổi căng lên, nó được lau chùi cho hết nhờn nhớt. Người lau chùi, là Dương Văn Minh.
Tôi không quen, nhưng biết Dương Văn Minh , hồi chưa mất nước, tôi từng nói chuyện với y nhiều lần. Hồi đó, câu lạc bộ thể thao Saigon có 4 sân quần vợt danh dự. Hội viện câu lạc bộ muốn có sân để chơi, phải ghi tên trước. Riêng Dương Văn Minh, vì là cựu quốc trưởng, y được câu lạc bộ dành cho sân số 4 (sát hàng rào, gần hồ tắm), mỗi buổi sáng thứ hai, từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa.
Vì vậy, những sáng thứ hai, trừ ngày mưa gió, người ta thường thấy Dương Văn Minh trên sân số 4. Y chơi quần vợt với bạn bè, với người con gái, hoặc với người con rể tên là Đài. Có khi y không chơi, chỉ ngồi trò chuyện.
Tôi thường gặp y ở chỗ này, và nói chuyện với y ở chỗ này.
Tôi muốn tìm hiểu về ba khuôn mặt nổi của chính biến 1963. Hai khôn mặt nổi khác, ông Trần Văn Đôn và ông Tôn Thất Đính, tôi đã biết khá nhiều. Chúng tôi cùng là thượng nghị sĩ.
Dương Văn Minh có cái bề ngoài đôn hậu, ăn nói chậm rãi. Người ta đã dùng nhiều tĩnh từ để nói về y, như nham hiểm, kỳ thị Nam Bắc, háo danh, v.v… Riêng tôi, thấy tội nghiệp. Không ai có thể ngờ rằng một người từng làm quốc trưởng, và được kỳ vọng như là một lá bài chính trị cho tương lai, lại có trình độ văn hóa thấp đến như vậy. Những ý niệm về lãnh đạo, như quyền uy (autorité), quyền lực (puissance), và quyền bính (pouvoir), rất xa lạ với y. Tôi đã mất khá nhiều thì giờ, và đưa ra trường hợp Nã Phá Luân, Nguyễn Huệ, để giải thích cho y hiểu rõ những thành tố của lãnh đạo, cũng như sự khác biệt sâu xa giữa quyền uy, quyền lực và quyền bính. Nhưng nhìn mặt, tôi biết y không hiểu lắm. Về CSVN và chính sách mặt trận thống nhất (politique du front uni) của CS trên thế giới, y cũng rất lờ mờ.
Y có mời tôi đến dinh hoa lan để “họp mặt” chính trị. Tôi đến một lần, để giữ lễ, và để y có dịp – nếu tôi không lầm – cảm ơn tôi đã giúp đỡ một vài đàn em của y trong vấn đề luật pháp. Những lần sau, tôi cáo lỗi. Tôi không muốn làm người khác lạ ngồi nghe những Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Nhuận giảng chính trị. Họ là những quần thần của Dương Văn Minh. Họ là những bộ óc lớn của Dương Văn Minh. Và khi những bộ óc lớn gặp nhau…
Có lẽ ông Vũ Văn Mẫu cũng một cảm nghĩ như tôi. Ông cũng từng là khách bất đắc dĩ của dinh hoa lan.
Trình độ học vấn của Dương Văn Minh đã thấp, nhân cách của y còn thấp hơn. Liêm sỉ của một tướng lãnh, thì lại quá tệ. Ai cũng biết: trong vụ đảo chánh 1963, y đã ra lệnh ám sát Tổng Thống Diệm trên chiếc xe tăng từ nhà thờ Cha Tam về Tổng Tham Mưu rạng ngày mùng 2 tháng 11. Nhưng sau này y chối. Chẳng những chối, mà còn đổ lỗi cho người khác. Trong cuốn “Our Endless War”, tướng Trần Văn Đôn – linh hồn của cuộc đảo chánh – đã phải bực mình và viết như sau: “Big Minh không bao giờ nhận trách nhiệm về vụ cố sát anh em ông Diệm và đổ lỗi cho người khác. Mỗi khi vấn đề được đặt ra, ông ta lại tìm cách lôi kéo tôi vào Trong thời gian bị lưu đầy ở Vọng Các, Big Minh đã thanh minh với một linh mục Công giáo rằng ông không có trách nhiệm gì về vụ giết ông Diệm, Big Minh còn khuyên linh mục, nếu muốn biết rõ câu chuyện, thì nên đến hỏi tôi (“Our Endless War”, trang 314).
Trong những lần nói chuyện, tôi có hỏi Dương Văn Minh về vụ giết ông Diệm. Theo tôi, đảo chánh nào mà không đổ máu, và giết ông Diệm thì đã sao, nếu mình có chính nghĩa, hoặc tin rằng mình có chính nghĩa? Cần gì phải chối. Nhưng y vẫn chối. Cái hèn của Dương Văn Minh là ở đó. Và y đã sống suốt cuộc đời còn lại với cái hèn ấy.
Ngày 30-4-1975, sau khi được cu. Trần Văn Hương trao quyền tổng thống, y đã ra lệnh cho QLVNCH buông súng, “vì chủ trương hòa hợp hòa giải dân tộc” và “để cứu sinh mạng đồng bào”. Chúng ta hãy tạm cho y được hưởng lợi ích của sự nghi vấn. Chúng ta hãy tạm chấp nhận rằng: y kêu gọi và ra lệnh cho anh em QLVNCH buông súng, vì chủ trương hòa hợp hoà giải và để cứu mạng đồng bào. Nhưng khi VC vi phạm hiệp định Ba lê, trả thù man rợ các anh em QLVNCH, thì y không có được một lời để bênh vực các anh em đó. Chỉ cần một lời thôi. Chỉ cần một hành động thôi. Một lời và một hành động của chính cái kẻ đã kêu gọi anh em buông súng, nhân danh hiệp định Ba Lê, và nhân danh hòa giải hòa hợp dân tộc. Nhưng Dương Văn Minh đã im lặng. Vì hèn.
Ba năm sau khi đầu hàng, năm 1978 Dương Văn Minh được VC cho sang Pháp. Sang tới Pháp và suốt 19 năm sống bên Pháp, y cũng không có được một lời về số phận đau xót của các anh em QLVNCH trong các trại cải tạo và cho thân phận cùng cực của nhân dân miền Nam dưới ách bạo quyền CS. Vì hèn.
Y cũng không có được một lời xót xa cho cả triệu đồng bào ruột thịt đã chết trên biển khi đi tìm tự do. Vì hèn.
Năm 1997, y tuyên bố sẽ về VN để góp phần xây dựng đất nước. Người ta hiểu rằng trước khi tuyên bố như vậy, y đã được VC cho phép về VN. Người ta cũng hiểu rằng y đã được VC cho phép về VN để xây dựng nước VN dưới sự lãnh đạo của VC.
Năm 1963, hèn hạ, phản bội và làm tay sai. Mười hai năm sau, năm 1975, làm tay sai, hèn hạ và phản bội. Hai mươi hai năm sau, năm 1997, lại phản bội, làm tay sai và hèn hạ.
Suốt đời phản bội. Suốt đời làm tay sai. Suốt đời hèn hạ. Suốt đời háo danh. Suốt đời đần độn. Đó là Dương Văn Minh.
Nguyễn Văn Chức

Cờ nào có chính nghĩa của dân Việt Nam?

Phạm Trần (#Danlambao) - Lần đâu tiên trong lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam, chính quyền phải đối mặt với lá Cờ Vàng 3 Sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa tại các cuộc biểu tình của người dân Hà Tĩnh chống Formosa và đòi bồi thường sau thảm họa môi trường ngày 6/4/2016.

Cờ Vàng 3 Sọc đỏ là Quốc kỳ chính thức của Quốc gia Việt Nam từ 1949 đến 1955, sau đó là của Việt Nam Cộng Hòa từ 1955 đến 1975. 

Lá cờ này, tiêu biểu cho hàng triệu người Việt Nam không chấp nhận Cộng sản, được nhiều toán người biểu tình ngày 9/04/2017 dương cao phất bay trong gió trước tư gia và văn phòng làm việc của các viên chức địa phương. Nhiều người khác còn vác trên vai ngồi xe gắn máy chạy biểu dương ngoài đường mà không gặp trở ngại nào. 

Người dân không nói tại sao họ đã bất chấp nguy hiểm để làm như thế, nhưng biến cố này cho thấy con tim của họ đã thay đổi đối với tính chính danh và giá trị lịch sử của lá cờ Đỏ Sao Vàng, quốc kỳ của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ khi đảng Cộng sản chiếm quyền cai trị cả nước năm 1976.

Ngôn ngữ hỗn xược

Do đó 16 ngày sau biến cố lịch sử này, báo Nhân Dân, cơ quan thông tin của Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN đã chính thức phản ứng gay gắt trong số báo ra ngày 25/04/2017.

Dưới tiêu đề “Không nên về hùa với kẻ xấu phá hoại đất nước!”, cán bộ Tuyên giáo Lê Vũ Hoài Ân đã hằn học rằng: "Trong sự kiện tụ tập đông người gây mất an ninh, trật tự công cộng xảy ra ở tỉnh Hà Tĩnh vừa qua, cần đề cập một hiện tượng rất bất thường là một số người tham gia đã sử dụng lá cờ nhiều năm nay vẫn gọi là “cờ ba que”. Hiện tượng này cần phải được cảnh báo, xử lý nghiêm khắc, vì có kẻ đã lợi dụng sự kiện để thực hiện mưu đồ làm sống dậy cái “thây ma” đã biến mất trên bản đồ chính trị - địa lý thế giới gần nửa thế kỷ..."

Ân đã chỉ đích danh những người Công giáo có hành động như thế khi nói: "Ngày 9-4-2017, dưới danh nghĩa “phản đối chính quyền chưa đền bù tiền cánh đồng muối”, một số công dân theo Thiên chúa giáo ở xã Kỳ Hà (huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh) đã tổ chức tuần hành, biểu tình trước nhà riêng của chủ tịch xã này. Đáng chú ý khi tuần hành, biểu tình đã có người mang theo và giơ lá cờ mà nhiều năm nay người Việt Nam vẫn gọi là “cờ ba que”, hoặc “cờ vàng” của “chế độ Việt Nam cộng hòa” (“chế độ VNCH”) trước đây. Sau khi hình ảnh này được đưa lên một số trang mạng nhân danh Thiên chúa giáo, một số tổ chức và địa chỉ truyền thông chống cộng lập tức khai thác, quảng bá, tung hô như một “sự kiện quan trọng”, qua đó vừa vu cáo Nhà nước Việt Nam và chính quyền địa phương, vừa biến thành cơ hội tô vẽ cho cái chính thể bán nước, hại dân mà ngày 30-4-1975, ông Dương Văn Minh - tổng thống cuối cùng của nó, phải tuyên bố: “hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện,.. chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn"!

Với thứ ngôn ngữ nham hiểm nhằm liên kết người Công giáo với Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ để xuyên tạc tính lịch sử của lá cờ, dư luận viên Lê Vũ Hoài Ân đã cắm mặt xuống đất để bịa đặt rằng lá cờ này "nhiều năm nay người Việt Nam vẫn gọi là “cờ ba que”, hoặc “cờ vàng” của “chế độ Việt Nam cộng hòa”."

Ai ba que-ai xỏ lá?

Khi nói tới hai chữ “ba que”, theo Đại Từ điển tiếng Việt (ĐTĐTV) của Bộ Giáo dục và Đào tạo CSVN, có nghĩa là "dối trá lật lọng, hay chơi xỏ người khác."

Do đó mới có nhóm chữ ”ba que xỏ lá” mà theo ĐTĐTV, để nói về người có tính "lừa dối, gian lận một cách đểu cáng để kiếm lợi lộc".

Nếu đem ý nghĩa của “ba que xỏ lá” để áp dụng vào lới nói và hành động của những người Cộng sản đối với đất nước và dân tộc từ năm 1930, khi ông Hồ Chí Minh thành lập đảng và chủ động 2 cuộc chiến huynh đệ tương tàn đẫm máu gọi là “chống Pháp dành độc lập” (1945-1954) và “chống Mỹ cứu nước” (1955-1975) thì sẽ tìm ra được vô vàn bằng cớ và nhân chứng.

Còn khi Lê Vũ Hoài Ân chụp mũ cho những người Công giáo đi biểu tình đòi bồi thưởng thiệt hại là “tụ tập đông người gây mất an ninh, trật tự công cộng “ là người này đã về hùa với chính quyền và báo Hà Tĩnh, cơ quan thông tin của đảng bộ Tỉnh này, để xuyên tạc và bôi nhọ mục tiêu thật sự của những nạn nhân của Formosa.

Các cuộc xô xát giữa lực lượng Công an hay cảnh sát, hoặc công an đội lốt côn đồ với người dân có xảy ra là hoàn toàn cho chính quyền địa phương chủ động phá hoại các cuộc tuần hành hòa bình của dân đi đòi công chính bằng đôi chân và hai bàn tay trắng.

Nếu nạn nhân đã được đền bù thỏa đáng những thiệt hại vật chất do Formosa thải chất độc gây ra cho họ thì có ai phải đội mưa nắng, đi bộ hàng chục cây số đi khiếu kiện?

Ai bán nước-hại dân?

Chưa hết, cái loa thùng rỗng Lê Vũ Hoài Ân còn ngậm mực phun vào mặt giáo dân Công giáo khi cố tình buộc họ có dụng ý chính trị khi mang theo cờ Vàng 3 Sọc đỏ.

Ân viết: "Sau khi hình ảnh này được đưa lên một số trang mạng nhân danh Thiên chúa giáo, một số tổ chức và địa chỉ truyền thông chống cộng lập tức khai thác, quảng bá, tung hô như một “sự kiện quan trọng”, qua đó vừa vu cáo Nhà nước Việt Nam và chính quyền địa phương, vừa biến thành cơ hội tô vẽ cho cái chính thể bán nước, hại dân mà ngày 30-4-1975, ông Dương Văn Minh - tổng thống cuối cùng của nó, phải tuyên bố: “hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện,... chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn"!

Hãy để lịch sử đánh giá hành động “đầu hàng” của ông Dương Văn Minh. Nhưng nếu chỉ biết nhắm mắt nói quàng để vu khống các chính quyền của hai nền Đệ nhất và Đệ nhị VNCH là “bán nước” và “hại dân” thì Tác giả và đảng CSVN hãy tự lấy gương soi mặt xem kẻ nào đáng bị treo cổ đền tội trước nhân dân?

Cũng nên nhớ lịch sử không bao giờ quên hàng triệu người Việt Nam đã chết vì bàn tay chiến tranh của người Cộng sản; hàng chục ngàn người miền Bắc đã chết oan trong Cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc từ 1953 đến 1956 và trên dưới 6 ngàn ngươi dân vô tội đã bị quân Cộng sản hành quyết trong biến cố Tết Mậu Thân 1968 ở Huế.

Và cũng thật xấu hổ là những nạn nhân của Cải cách ruộng đất đã bỏ mạng tại những phiên tòa đấu tố ngoài trời có cắm cờ Đỏ Sao Vàng. 

Còn tại miền Nam, trong suốt cuộc chiến tranh 20 năm do miền Bắc chủ động, lá cờ Đỏ Sao Vàng đã được ngụy trang bằng Lá cờ của tổ chức bù nhìn Mặt trận Giải phóng miền Nam hình chữ nhật chia hai với mầu đỏ ở trên, xanh da trời ở dưới và chính giữa là ngôi sao vàng.

Đáng thương thay, không biết đã có bao nhiều ngàn con người miền Nam đã dại đột chết theo lá cờ này để rồi thấy cái gọi là “lá cờ của Tổ quốc” ngụy trang ấy đã bị chính người Cộng sản miến Bắc vứt vào sọt rác sau ngày thống nhất đất nước năm 1976.

Cái Chính phủ tay sai Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, hay còn được gọi là Việt Cộng của Mặt trận Giải phóng miền Nam cũng đã bị bóp chết không chiêng trống. Đến nỗi Câu Lạc Bộ của những người cựu kháng chiến miền Nam đi theo Cộng sản cũng bị miền Bắc cấm hoạt động ở Sài Gòn thỉ đủ biết họ đã ê chề như thế nào?

Ai đánh thuê cho ai?

Lê Vũ Hoài Ân cũng nên tự hỏi tại sao sau 42 năm kể từ khi quân Cộng sản miền Bắc chiếm miền Nam (1975-2017), mà người dân vẫn nhớ như in trong đầu kẻ nào đã làm tay sai cho ngoại bang qua câu nói lịch sử của nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Ông Lê Duẩn nói với cán bộ cao cấp tại Hà Nội: "Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta." (Theo Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nhà xuất bản. Văn Nghệ, 1997, tr. 422, phần chú thích)

Tất nhiên là thế vì nếu không có lương thực và cố vấn của Trung Hoa, súng đạn của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đổ vào miền Bắc để nhân dân Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa chết thay cho họ thì có cho ăn vàng đảng CSVN cũng không dám bén mảng xuống miền Nam Việt Nam để nói phét sau ngày 30/4/1975.

Hơn thế nữa, sự phồn thịnh kinh tế, giá trị của dân chủ, tự do, giáo dục thăng tiến và văn hoá nhân bản của miền Nam, sau 22 năm bị những cái đầu đất sét Cộng sản phá nát, giờ đây lại là nỗi nuối tiếc của vô số người dân miền Bắc. Tất nhiên người dân miền Nam sẽ chẳng bao giờ quên 20 năm hào hùng và sung túc ấy trong điều kiện của chiến tranh tự vệ chống xâm lược từ miền Bắc.

Bằng chứng là bây giờ chính quyền Cộng sản đang cố gắng xây dựng đất nước dựa theo phương pháp kinh tế thị trường của Việt Nam Cộng Hòa mà họ đã phá hoại từ năm 1976.

Do đó không ngạc nhiên khi thấy cán bộ Tuyên giáo Lê Vũ Hoài Ân và báo Nhân dân đã tìm mọi cách xóa đi hình ảnh tốt đẹp của miền Nam Việt Nam qua hình ảnh Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ xuất hiện ở Hà Tĩnh.

Nhưng có xóa được không?

Tất nhiên là không bao giờ vì Cờ Đỏ Sao Vàng của đảng và nhà nước Việt Nam đã và đang tiếp tục bị con dân Việt Nam ở nước ngoài tẩy chay khắp nơi trên thế giới. Nhiều nước trên Thế giới, đặc biệt có nhiều Tiểu bang và Thành phố ở Mỹ đã thừa nhận Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ là “lá cờ truyền thống” của người Việt tị nạn Cộng sản.

Cờ Đỏ Sao Vàng của nhà nước CSVN luôn luôn bị Cờ Vàng che phủ làm lu mờ tính đại diện của một Quốc gia ở hải ngoại. Mỗi khi có mặt các viên chức nhà nước và đảng CSVN ở nước ngoài là họ bị Cờ Vàng dí theo đến xấu mặt.

Các cuộc biểu tình của người Việt chống các cuộc thăm Mỹ của Thủ tướng Phan Văn Khải, hai Chủ tịch nước, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang và Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng là bằng chứng của sức mạnh Cờ Vàng 3 Sọc đỏ.

Vì vậy nếu chính nghĩa của lá cờ này đã làm mất uy tín của các lãnh đạo Việt Nam khi họ ra nước ngoài thì sự xuất hiện của cờ Việt Nam Cộng hòa ở Hà Tĩnh ngày 9/04/2016 còn mang ý nghĩa chính trị gấp ngàn lần hơn.-/-

(04/017)

Phạm Trần


__._,_.___

Posted by: Quang Nguyen 

Định Mệnh Nền Đệ Nhất VNCH: Trận Ấp Bắc

$
0
0



Kính mời Quý CH đọc để tự học hỏi CT-CL:



https://thuvienhoasen.org/a16631/39-giai-doan-khoi-thuy-su-sup-do-cua-nen-de-nhat-cong-hoa-tran-van-thuong



Định Mệnh Nền Đệ Nhất VNCH: Trận Ấp Bắc


1. Chính Sách HK Đối Với VNCH

Căn cứ vào phúc trình của phái đoàn Taylor, chủ trương của TT Kennedy là phải để cho VNCH tự lực chống Cộng, còn HK chỉ yểm trợ các phương tiện vật chất mà thôi nếu HK thấy chính sáchVNCH có thành quả chống cộng [1,2].

Nhiệm vụ của các cố vấn Mỹ là cố vấn tham mưu hay cố vấn phối hợp trong các cuộc hành quân gồm nhiều đại đơn vị [1,2]. Căn cứ vào hồ sơ &quot; The Pentagon&quot; tháng 7 năm 1962 HK đã thiết kế rút quân từng giai đoạn [2]. Như vậy chuyện HK muốn tham chiến trong những năm 1962, đầu năm1963 hay HK muốn miền Nam VN là một thuộc địa của HK, là huyền sử và có tính cách tuyên truyền căn cứ vào lịch sử bang giao của HK. Hãy nhìn chính sách ngoạigiao của HK đối với phe thua trận sau Đại Chiến thứ hai. 

Thử hỏi Tây Đức,Nhật Bản, Ý Đại Lợi, Nam Triều Tiên ... có phải là những thuộc địa cũa HKtrong quá khứ và hiện đại hay không, hay là những quốc gia nêu trên hoàn toàn có chủ quyền? 

Phải chăng chuyện TT Diệm và Ông Nhu tâm sự với tướng Đính, HK muốn miến Nam là một thuộc địa của HK [1, tr.279] hay VNCH không muốn HK đem quân tham chiến ở VN vì TT Diệm và ông Nhu sợ rằng VNCH sẽ bị mất chủ quyền, là một chuyện tuyên truyền cho lòng yêu nước của họ, hay họ không hiểu gì về chính sách của HK?[1]. 

Trong thực tế, ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ Trưởng Quốc Phòng, đã yêu cầu tăng cường quân lực đồng minh tham chiến và thêm một phi đội AD-6, nhất là một sư đoàn tác chiến của Trung Hoa Dân Quốc- Đài Loan, căn cứ vào: Cablegram from United States Embassy in Saigon to the State Department 13 Oct. 1961, on requests by Nguyen Dinh Thuan, Defense Minister of South Vietnam. Copies of this message were sent to Commander in Chief of Pacific forces and to the United States Embassies in Bangkok, Thailand, and Taipei,Taiwan.

Thuan in meeting October 13, made the following requests:

1. Extra squadron of AD-6 in lieu of proposed T-28's; and delivery ASAP.

2. U.S. Civilian contract pilots for helicopters and C-47's; for non

3. U.S. combat units or units to be introduced into SVN as ombat trainee units; Part to be stationed in North near 17th Parallel to free ARVN forces there for anti-guerrilla aftion in high plateau.
Also perhaps in several provincial seats in the highlands of Central Vietnam.

4. U.S. reaction to proposal to request Nationalist China to send one division of combat troops for operations in the Southwest.

(http://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/pentagon2/doc103.htm)

2. Trân Ấp Bắc

Cuối năm 1962 Nguyễn Văn Linh, Bí Thư Trung Ương Cục, ra lệnh các cấp chỉ huy của hai tiểu đoàn 261 và tiểu đoàn 514 chỉ sử dụng một đại đội cho mỗi tiểu đoàn, chuẩn bị chiến trường Ấp Bắc và Ấp Tân Thới xã Tân Phú [3]; Xã Tân Phú là căn cứ của Tỉnh Uỷ [3].
Ấp Bắc nằm sát Quốc lộ số 4 và cách thị xã Mỹ Tho khoảng 10 cây số. Ở đây cánh đồng bằng phẳng, rộng, rặng trâm bầu bao quanh ấp nhỏ, nhà và vườn [3].

Lực lượng tham chiến của QLVNCH gồm ba tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn dù tiếp viện, một đại đội BĐQ, một đại đội ĐPQ, ba đại đội dân vệ, 13 thiết kỵ, 10 phi cơ trực thăng, 13 giang thuyền trên sông, và 10 khẩu pháo binh, dướiquyền chỉ huy trực tiếp của vị Tư Lệnh SĐ7BB [3] với sự cố vấn của J. P Vam [1,3].

Trận tấn công của QLVNCH được hoạch định đánh vào Tân Thới, sau khi tình báo của nhiều cơ quan phối hợp đã xác định rằng hai đại đội VC của hai tiểu đoàn VC 261 và tiểu đoàn 514 của MTGPMN đang trú ẩn tại Ấp Tân Thới.

Tham Mưu Hành Quân của Mỹ đã tổ chức một kế hoạch bao vây toàn diện các đơn vị VC.

Cuộc hành quân phối hợp gồm trực thăng, Pháo Binh, Thiết Kỵ,Giang Thuyền, Thiết Kỵ và Không Quân vào sáng 2-1- 1963. Kế hoạch là đổ quân BB bằng trực thăng để bao vây địch. Pháo Binh yểm trợ, Thiết Kỵ hổ trợ cho BB xung trận đồng thời với Không Quân yểm trợ hoả lực [1,3]. Tại sao một kế hoạch tuyệt diệu vì đúng binh thư như vậy mà QLVNCH lại trở thành kẻ chiến bại cả hai phương diện
chiến thuật và chiến lược? Câu trả lời là tại đường lối chính sách của ông Cố Vân Ngô Đình Nhu, Quân Uỷ Cần Lao Cách Mạng Đảng. Đường lối của ông Ngô Đình Nhu là:

1 /-Hạn chế các cuộc hành quân của Mỹ, và nếu cần phải để Mỹ thất bại lãnh đạo các cuộc hành quân nầy.

2/- Mở đường cho Việt Cộng thoát khỏi các cuộc bao vây của Mỹ. Các cuộc thỏa hiệp nầy nầy chuẩn bị cho một cuộc thương lượng vào năm 1963 nầy giữa một số nhân vật cao cấp của Cộng Sản, trong đó có cả Phạm Hùng........&quot; [1, tr. 265].

Kết quả chiến trường của trận Ấp Bắc cho thấy Việt Cộng chỉ bỏ lại lại 18 xác, bị thương 39 người, trong khi QLVNCH số thương vong đến 4 lần lớn hơn,tổng cộng cả tử trận gần 100 và bị thương gần 120 [1,3 ]. Ngoài ra còn phải kể 3 cố Vấn Mỹ tử trận, 5 trực thăng Mỹ bị bắn rơi và một số xe Thiết Vận Xa bị bắn cháy.

Đô đóc Felt đã tuyên bố với một thông tấn viên như sau: Việt Cộng không chỉ đánh bại QLVNCH ở trận Ấp Bắc, mà quan trọng hơn đã giựt được cái màn che đậy láo khoét về những tiến bộcủa nổ lực giải quyết chiến tranh!!!. Tướng Đính cũng có nhận định: &quote;Nói cách khác, Sài Gòn đã đi vào trong con đường do Hà Nội dẫn dắt chỉ vì ông Ngô Đình Nhu không còn muốn có sự hiện diện của Mỹ ở VN! Nhưng Mỹ đã góp công xây dựng vai trò lãnh đạo của Tổng Thống NgôĐình Diệm, thì lẽ nào Mỹ lại chịu thua trước giặc chính trị và ngoại giao tối mật nầy?&quot; [1, tr. 270].

Thảm bại chiến lược là HK thay đổi chính sách VN; từ chủ trương hợp tác không xâm phạm hoàn toàn chủ quyền của VNCH thành chủ trương can thiệp, áp lực và đặt điều kiện quân viện với chính phủ VNCH.

Lịch sử cho thấy TT Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu không chịu nhượng bộ những yêu sách chính đáng của HK [ tôi sẽ dẫn chứng trong một bài khác ].

Tiếp theo vụ Phật giáo và chủ trương vu khống QLVNCH đánh phá các chùa chiền là cănnguyên của cuộc Cách Mạng ngày 1-11- 1963.

3. Những Câu Hỏi Chính Đáng Lý Do Thảm Kịch Của QLVNCH Trong Trận Ấp Bắc

Bộ Tư Lệnh MACV và Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương do Đô Đốc Felt ghi nhận từ tháng 11- 1962 rằng Sư Đoàn 7BB đã thả thả cho VC chạy! Trong 14 cuộc hành quân, BCH rất thận trọng để tránh đụng độ với VC, nên gần 4 thángchỉ có 3 binh sĩ bị thương [1,2]. Vì vậy sau đây là những câu hỏi hợp lý liên quan đến thảm kịch của trận Ấp Bắc [1] :

(1) Tại sao VC thoát được vòng vây tại Ấp Tân Thới ngay từ loạt đạn khai hoả đầu tiên?

(2) Tại sao VC biết rõ 2 nút chận do lực lượng địa phương quân trấn giữ để tẩu thoát qua hai nút chặn nầy?

(3) Tại sao VC rút lui về Ấp Bắc như một chiến luỹ để phục kích các lực lượngtruy kích của QLVNCH vào ấp nầy ?

(4) Phải chăng VC đã biết rõ kế hoạch hành quân của QLVNCH nên chúng đãchủ động chiến trường ngay từ giây phút đầu?

(5) Tại sao trận chiến xẩy ra từ sáng sớm nhưng mãi tới chiều tối mới có Không Quân yểm trợ và một tiểu đoàn dù tăng viện?

Trần Văn Thưởng
__._,_.___

Posted by: Vanthang Le 

Ba mươi tháng Tư (30/4) trong mắt ông Hoàng Đức Nhã

$
0
0


 
Ba mươi tháng Tư (30/4) trong mắt ông Hoàng Đức Nhã
Hoài Hương


“...phải đối đầu với những áp lực của Mỹ rất là buồn cho ông đồng minh tới giờ chót muốn thoái lui, làm đủ cách nhượng bộ Bắc Việt và chính vì vậy mà Bắc Việt đạt được mục tiêu là đuổi người Mỹ đi và tiếp tục xâm lăng…”
hoangducnha01
Ông Hoàng Đức Nhã (phải) bắt tay với Đại sứ Hoa Kỳ tại
miền Nam Việt Nam Elleworth Bunker, 17/8/1972,
trước buổi họp giữa Tổng thống Thiệu và Cố vấn Kissinger (giữa).


Nguyên Tổng trưởng Dân vận và Chiêu hồi Việt Nam Cộng Hòa Hoàng Đức Nhã nói đối với người Mỹ, mọi sự đã an bài từ năm 1973, bởi vì Washington đã quyết định tiến tới ký kết Hiệp định Paris để rút ra khỏi Việt Nam. Trước sức ép của Washington, ông nói chính phủ miền Nam vẫn vận động cho một giải pháp ít bất lợi nhất, và cố duy trì nguyên tắc căn bản là “toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền, đồng thời đề nghị tổng tuyển cử, ngưng bắn tại chỗ”. Sau cùng, vạn bất đắc dĩ Tổng thống Thiệu đặt bút ký Hiệp định Paris với hy vọng Mỹ sẽ giữ cam kết, giúp VNCH phát triển kinh tế và xây dựng đất nước, đi kèm với lời hứa của cá nhân Tổng thống Nixon sẽ phản ứng quyết liệt nếu Hà Nội thực hiện ý đồ thôn tính miền Nam.

Về áp lực hết sức nặng nề từ Washington để chính phủ Sài Gòn ký hiệp định Paris, bất chấp thỏa thuận này rõ rệt bất lợi cho miền Nam, ông Hoàng Đức Nhã nói người Mỹ đã quyết rút ra khỏi Việt Nam bằng bất cứ giá nào cho nên đã phạm một lỗi lầm lịch sử, để ông Kissinger “đi đêm” với ông Lê Đức Thọ, cố vấn đặc biệt cho đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại hội nghị Paris.

Bí thư của Tổng thống Thiệu nói hơn 40 năm sau, nỗi buồn bị đồng minh phản bội, vẫn làm ông cảm thấy uất ức:
“Cách đây bốn mươi mấy năm phải đối đầu với những áp lực của Mỹ rất là buồn cho ông đồng minh tới giờ chót muốn thoái lui, làm đủ cách nhượng bộ Bắc Việt và chính vì vậy mà Bắc Việt đạt được mục tiêu là đuổi người Mỹ đi và tiếp tục xâm lăng. Lúc đó lời hứa (của Tổng thống Nixon rằng Mỹ sẽ phản ứng quyết liệt), cũng không giữ được.”

Tiến sĩ Kissinger đóng vai trò hệ trọng trong vận mệnh của Việt Nam Cộng Hòa. Ông Hoàng Đức Nhã cho rằng vì có mâu thuẫn trong Đảng Cộng Hòa nên Bộ trưởng Ngoại giao lúc bấy giờ là William Rogers không được giao trách nhiệm thương thuyết hòa bình với Việt Nam, mà người nắm vai trò này là Cố vấn An ninh quốc gia Henry Kissinger.
“Vai trò của ông tiến sĩ Kissinger trong vấn đề đem đến hòa bình thì dĩ nhiên là một cái vết dơ trong bang giao giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa.”

Ông Hoàng Đức Nhã nhận xét thêm về ông Kissinger:
“Ông cho rằng chỉ có ý kiến của ông ta là trúng, không hỏi ý kiến, không bàn với phía Việt Nam Cộng Hòa nhiều. Mình mà tiếp tục đưa ra đề nghị gì đòi hỏi gì thì ông ta có lúc bực mình và trong các tài liệu được giải mật thì ông ta rất là bất bình và có những lời lẽ không có lễ phép lắm đối với Tổng thống Thiệu và cá nhân tôi.”

Về trách nhiệm của các nhà lãnh đạo miền Nam trong cả thời Đệ nhất lẫn Đệ nhị Cộng hòa đã để cho tình hình dần dà xấu đi, tạo điều kiện đưa đến thảm họa cuối cùng là sự xóa sổ của chính phủ miền Nam trên bản đồ thế giới, ông Hoàng Đức Nhã nói:
“Trong Đệ nhất cũng như trong Đệ nhị Cộng hòa, cũng có những lỗi lầm về thi hành các mục tiêu. Chính phủ của ông Thiệu đã có những sơ suất, nội các đã không thi hành đúng mức chiến lược. Trong tất cả các lỗi lầm đó, lỗi lầm lớn nhất là không đạt được điều tối đa cho Việt Nam Cộng Hòa để tồn tại. Đó thực sự cũng là một điều nằm ngoài sự kiểm soát của mình là vì tin vào một ông Tổng thống xứ mạnh nhất thế giới mà hứa thì dĩ nhiên là phải thực hiện được, nhưng mà không ngờ lúc đó vì nhiều lý do, ông Nixon cũng như quốc hội Hoa Kỳ hoàn toàn coi như hiệp định đó không ràng buộc Hoa Kỳ.”

Ông nói các nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa không thể nào tưởng tượng được một ông Tổng thống Hoa Kỳ, quốc gia hùng mạnh nhất thế giới, lại bội hứa. Còn về các vấn đề nội bộ, từ phát triển nông thôn tới phát triển kinh tế, tìm ra tài nguyên để không phải phụ thuộc vào viện trợ Mỹ thì miền Nam đã không thực hiện được đúng mức. Ông giải thích lý do một phần là vì lúc đó miền Nam phải chống chọi với quân đội Bắc Việt được Liên Xô và Trung Quốc chống lưng, đang tràn xuống miền Nam.

“Khi mà Bắc Việt tung ra bao nhiêu ngàn quân và được sự hỗ trợ rất mạnh của Liên bang Nga sô lúc đó và Trung Cộng. Miền Nam khó có thể chống đỡ trong khi đồng minh cúp viện trợ của mình.”
Thế ai, có phải Tổng thống Thiệu đã đưa ra lệnh bỏ Vùng II chiến thuật, được nhiều người cho là yếu tố gây phản ứng dây chuyền, đưa đến sự tan rã của quân lực Việt Nam Cộng Hòa? Ông Hoàng Đức Nhã nói cần nhìn vấn đề trên phương diện quân sự.

Ông nói địa lý của miền Nam rất khó bảo vệ bởi vì nó dài và có nhiều núi rừng, và lúc đó Hoa Kỳ đã rút quân và ngưng mọi sự hỗ trợ, trong các điều kiện đó miền Nam phải đổi lại chiến thuật. Muốn giữ số quân còn lại phải triệt thoái để củng cố những vùng đông dân cư và có tài nguyên nhiều là vùng duyên hải.
“Ai lấy quyết định đó thì thực sự Tổng thống với tư cách là Tổng thống và Tổng Tư lệnh quân đội lúc nào cũng làm việc chung với ông Đại tướng Tổng tham mưu trưởng, nghe những đề nghị của ông và các ông tướng vùng mới lấy quyết định đó.”
hoangducnha04
Cựu nhân viên ngoại giao Mỹ ông David Brown
và ông Hoàng Đức Nhã (ảnh Bùi Văn Phú)


Ông Hoàng Đức Nhã cho biết quyết định rút khỏi Vùng II chiến thuật được đưa ra tại một phiên họp ở Cam Ranh và Thiếu tướng Tư lệnh Vùng II là người thi hành.
“Khi mà người Mỹ rút ra hết thì mình phải sửa đổi cái chiến thuật của mình. Muốn giữ lại số quân còn lại thì mình phải có những sự triệt thoái để củng cố, bảo vệ những vùng đông dân cư và có tài nguyên nhiều là vùng duyên hải. Rất tiếc cho miền Nam là thi hành không đúng mức, quyết định rút quân là một quyết định về phương diện quân sự cần thiết.”

Được hỏi về những sơ suất trên mặt trận tình báo, Việt Nam Cộng Hòa đã cho phép tình báo miền Bắc thâm nhập vào những cơ quan trọng yếu nhất, tận tới Phủ Tổng thống, ông Hoàng Đức Nhã nói đó là một vấn đề chung cho các xã hội dân chủ cởi mở, ngay cả ở bên Mỹ:
“Trong một xã hội dân chủ cởi mở thì không thể nào kiểm soát hết vấn đề xâm nhập.

 Cộng sản Bắc việt xâm nhập, chúng tôi biết và bắt được khá nhiều, còn ở cao cấp từ trong Phủ Tổng thống mình cũng khám phá ra mình bắt, tôi nhớ có ông Huỳnh Văn Trọng và ngay cả những người như vợ của ông Trần Bạch Đằng, mấy người thuộc Mặt trận Giải phóng miền Nam (MTGPMN) nhưng người Mỹ sau này muốn tỏ thiện chí với phía Mặt trận để thương thuyết thì họ áp lực miền Nam nương tay, đó là những điều mà người dân ở ngoài ít ai biết tới. Dĩ nhiên mình không thể bắt hết những tổ gián điệp nhưng mà những người chóp bu trong cái gọi là Mặt trận Giải phóng miền Nam, thì mình biết chứ.”

Ông cho biết cùng bị bắt vào năm 1968 với ông Huỳnh Văn Trọng, Cố vấn của Tổng thống Thiệu và có lúc đã cầm đầu một phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa sang Hoa Kỳ, có ông Vũ Ngọc Nhạ, tướng tình báo miền Bắc, Cụm phó của Cụm tình báo chiến lược A.22.

Báo chí nói ông Hoàng Đức Nhã là cháu của Tổng thống Thiệu, nhưng ông xác nhận với VOA rằng ông không phải là cháu ông Thiệu:
“Tôi với Tổng thống Thiệu là hai anh em bà con, rất nhiều người cứ nói tôi là cháu ông Thiệu, điều đó là buồn cười nhất, ngay cả chính những người trong chính phủ cũng nói tôi là cháu ông Thiệu. Chuyện đó hoàn toàn sai”
Tại sao Tổng thống Thiệu từ chức? Ông Hoàng Đức Nhã:
“Bao nhiêu nhóm chính trị, kể cả người Mỹ, cũng nói ông phải ra đi để có cơ hội thành lập một chính phủ liên hiệp với MTGPMN hay là những lực lượng cộng sản ở miền Nam thì có thể đem lại hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Sau này lịch sử sẽ ghi lại là lúc đó Hoa Kỳ biết rõ là Bắc Việt xâm nhập và hoàn toàn giữ ý định thanh toán luôn cả miền Nam. Tác giả nào mà sau này viết giải pháp liên hiệp có thể thành công? Tôi thì tôi cho đó chuyện hoàn toàn hoang đường”.
hoangducnha05
Các diễn giả: Ông Hoàng Đức Nhã, bên trái,
Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng và Giáo Sư Vũ Tường (ảnh Bùi Văn Phú).

Ông Hoàng Đức Nhã nói điều rõ ràng là từ ngày ký hiệp định Paris, miền Bắc chủ trương tiếp tục xâm nhập vào miền Nam, tận dụng sự hỗ trợ của Nga và Trung Quốc để tiếp tục xâm lăng miền Nam:
“Việc cho phép một chính phủ giữa hai phía miền Nam thành tựu, Bắc Việt không hề có ý định đó. Thành ra đối với những người miền Nam Việt Nam đã làm việc cho chánh phủ và muốn đóng góp cho đất nước, đó là một nỗi buồn không bao giờ quên được.”

Ông Hoàng Đức Nhã rời Việt Nam vào đêm ngày 28/4, và từ trên máy bay quân sự, chứng kiến phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích. Ông chia sẻ với VOA-Việt ngữ:
“Máy bay lúc cất cánh lên nhìn xuống, thấy nỗi buồn mà cho tới giờ này nhắc lại vẫn thấy nhói trong tim, nhất là mất quốc gia mình mất những cái gì? Mất một miền Nam, một chế độ dân chủ mà có rất nhiều triển vọng trở thành một chế độ dân chủ pháp trị với tam quyền phân biệt, hành pháp, lập pháp, tư pháp, lúc đó mình có một hiến pháp rất tốt. Miền Nam Việt Nam có khả năng trở thành một quốc gia giàu với tài nguyên, và với sự hứa hẹn của dầu lửa, có thể trở thành một quốc gia phát triển nhanh nhất, nhưng mà rất tiếc mình không được có thời gian để làm điều đó. Đối với cá nhân chúng tôi, đó là một nỗi buồn vẫn còn ở trong trí óc, và dĩ nhiên trong tư cách một người yêu chuộng tự do, thấy nhân dân của mình bây giờ không có tự do, không có dân chủ thì càng thấy buồn thêm”

Ông Hoàng Đức Nhã, nguyên Bí thư và Tham vụ báo chí của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, từng nắm chức Tổng trưởng Dân vận và Chiêu hồi của Việt Nam Cộng Hòa. Báo New York Times năm 1973 nói dưới chính phủ Tổng thống Thiệu, ông Hoàng Đức Nhã cùng lúc đảm nhiệm những trọng trách tương đương với nhiệm vụ của ba quan chức Mỹ cùng thời: Cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger, Phát ngôn viên Toà Bạch Ốc Ronald Ziegler, và người bạn tín cẩn của Tổng thống Nixon, Charles Rebozo. Thay mặt cho VOA-Việt ngữ và cho thính giả của đài, Hoài Hương xin chân thành cám ơn ông Hoàng Đức Nhã đã bỏ thời giờ quý báu cho cuộc phỏng vấn này.
Hoài Hương
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Những sinh hoạt đấu tranh 30/4 của người Việt tị nạn tại Đức

$
0
0

Những sinh hoạt đấu tranh 30/4 của người Việt tị nạn tại Đức

CTM Media

Cùng tác giả:

Chương trình sinh hoạt nhân ngày Quốc hận 30 tháng 4 năm 2017 của cộng đồng người Việt tỵ nạn tại CHLB Đức bắt đầu vào lúc 12:00 giờ bằng cuộc biểu tình trước đại sứ quán Việt cộng tại thủ đô Berlin.
Biểu tình trước đại sứ quán Việt Cộng
Bàc sĩ Hoàng Thị Mỹ Lâm, Chủ tịch Liên Hội NVTN tại CHLB Đức, Trưởng Ban Tổ Chức, đã lên tiếng chào mừng những phái đoàn và đồng bào từ các nơi trên nước Đức và Áo về tham dự, đồng thời bà cũng nói lên ý nghĩa và mục đích cuộc biểu tình.
Tiếp theo là những phát biểu của Linh mục Phê Rô Nguyễn Văn Khải đang tu học tại Roma, Ý; Cựu tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu, người vừa bị bạo quyền cộng sản trục xuất sang nước Pháp; Ông Trần Kỉnh Thành, đại diện đảng Việt Tân tại Âu Châu và Ông Phạm Tử Bình, Thư ký Hội Áo-Việt Dân chủ, Văn hóa tại Áo quốc.
JPEG - 46.4 kb
Đặc biệt lời phát biểu đanh thép của cựu TNLT Đặng Xuân Diệu về việc không khuất phục trước sự đàn áp, gây sức ép của bạo quyền buộc anh phải nhận tội khiến mọi người cảm phục.
JPEG - 40.9 kb
Buổi biểu tình chấm dứt vào lúc 13 giờ. Sau đó mọi người di chuyển sang quảng trường Brandenburger Tor để tham dự buổi sinh hoạt thứ 2 trong ngày.
Mít tinh tại Brandenburger Tor
Hai lá đại kỳ Đức và Việt Nam tự do đã được căng trước cổng thành Brandenburger Tor. Cũng như rừng cờ vàng ba sọc đỏ, các băng rôn biểu ngữ, những hình ảnh các tù nhân lương tâm được mọi người đeo trước ngực đứng quanh quảng trường rộng lớn. Những khẩu hiệu đòi trả tự do cho các tù nhân lương tâm, tự do cho tôn giáo, nhân quyền cho Việt Nam, dân chủ cho Việt Nam được mọi người biểu tình cùng hô to đã thu hút sự quan tâm của người dân bản xứ cùng những du khách. Tại đây các tờ truyền đơn bằng tiếng Đức, tiếng Anh được gửi đến họ. Có người dừng lại để hỏi han và được giải thích cặn kẽ, nhất là hiện trạng Formosa tại các tỉnh miền Trung, Việt Nam.
JPEG - 36.6 kb
Một người khách Đức đặc biệt cũng hiện diện trong buổi sinh hoạt này là ông Felix Schwarz, nguyên tham tán chính trị của tòa đại sứ Đức tại Hà Nội, người đã nhiều lần tiếp xúc cũng như ủng hộ giới đấu tranh dân chủ tại Việt Nam.
JPEG - 44.9 kb
Theo tiếng nhạc trầm hùng, đoàn biểu tình đã tuần hành nhiều vòng quanh quảng trường Brandenburger Tor rộng lớn. Cuộc biểu tình và tuần hành tại quảng trường cổng Brandenburg kéo dài từ 14 đến 15 giờ.
JPEG - 35 kb
Cầu nguyện và hội thảo, văn nghệ
Sau mit tinh tại Brandenburger Tor, mọi người đã di chuyển về Thánh đường St. Aloysius để tham dự lễ cầu nguyện cho tự do tôn giáo, dân chủ công lý và hòa bình cho Việt Nam.
Lễ cầu nguyện bắt đầu lúc 16 giờ do LM. Phê Rô Nguyễn Văn Khải làm chủ tế.
JPEG - 29.2 kb
Trong phần bài giảng, LM. Khải có nhắc lại lời Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI khuyến khích giáo dân Công Giáo tham gia vào những hoạt động chính trị để làm cho xã hội tươi đẹp hơn. Lời Ngài: “Không ai tham gia chính trị thì sẽ chết”, ngụ ý rằng, nếu không ai đoái hoài tới lãnh vực chính trị, đồng nghĩa với việc phó thác vận mệnh quốc gia vào tay những kẻ bất lương. Kết quả ra sao, xem đời sống người dân ở các xứ độc tài như TQ, Bắc Hàn, Việt Nam thì rõ.
Sau phần thánh lễ mọi người di chuyển xuống bên dưới hội trường để dùng bữa cơm chiều do một số mạnh thường quân thuộc cộng đồng Người Việt tỵ nạn tại Berlin khoản đãi.
Tiếp nối chương trình là phần hội thảo và văn nghệ đấu tranh tại hội trường nhà thờ St. Aloysius với LM. Nguyễn Văn Khải, tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu.
Sau nghi thức khai mạc và cầu nguyện theo nghi thức Phật Giáo, Công Giáo và lời phát biểu của BTC là đoạn phim ngắn nói về giai đoạn tháng 4 năm 1975; từ cuộc triệt thoái cao nguyên đầy máu và nước mắt cho đến ngày 30.4.1975. Theo BTC cho biết đoạn phim được trích ra từ DVD vừa phát hành của đài truyền hình SBTN với nhan đề “Những đứa con vong quốc”.
JPEG - 23.4 kb
Giáo sư bác sĩ Stefan Grüne
Tiếp theo là lời phát biểu qua videoclip của Giáo sư bác sĩ Stefan Grüne ở Neustadt (*), người trưởng nhóm, đã đứng tên đầu tiên vận động nhân sĩ trí thức Đức lên tiếng ủng hộ cho các tù nhân lương tâm Việt Nam như: Ls. Nguyễn Văn Đài, cô Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Hồ Đức Hoà, Trần Thị Thúy, Đặng Xuân Diệu, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thu Hà.
Trước khi bước qua phần hội thảo, BTC đã trình chiếu một đoạn phim ngắn do Chân Trời Mới Media thực hiện với nhan đề: THẢM HỌA FORMOSA 4/2016-4/2017: Sau một năm vẫn còn sôi động. Đoạn phim tổng kết các diễn biến từ ngày thảm họa Formosa tại Hà Tỉnh bắt đầu cho đến tháng 4. 2017. Trong phần hội thảo, BS Mỹ Lâm đã nói về hai dự án dựng tượng để tôn vinh Hồ Chí Minh tại Moritzburg (Đức) và thủ đô Vienna (Áo Quốc) của chế độ CSVN đã thất bại thảm hại nhờ sự phản đối quyết liệt và rộng khắp của người Việt trên toàn thế giới, đặc biệt là nhờ Liên Hội ở Đức và Hội Áo-Việt Dân chủ, Văn hóa ở Áo. Trong dịp này, qua những trao đổi trong phần sinh hoạt giửa LM Nguyễn Văn Khải, TNLT Đặng Xuân Diệu, Blogger Người Buôn Gió, mọi người có dịp biết đến những hoạt động hỗ trợ nhau giữa các vị khi còn tại VN.
Hội trường đã có những trận cười thoải mái với những phát biểu ví von hóm hỉnh của LM Khải.
Xen kẽ giữa cuộc trao đổi là phần văn nghệ đấu tranh.
Buổi sinh hoạt hội thảo và văn nghệ đấu tranh chấm dứt vào lúc 23 giờ cùng ngày.
NĐL (Hamburg)
***

(*) Nội dung (tiếng Việt) bài phát biểu của GS.BS Stefan Grüne:
Neustadt, ngày 24 tháng 4 năm 2017
Kính thưa quý vị,
tôi xin chân thành cám ơn quý vị cho tôi có cơ hội được gửi đến quý vị lời chào mừng nhân dịp tưởng niệm 42 năm ngày Quốc Hận. Là Kitô hữu đối với chúng tôi rất quan trọng là làm sao sống liên đới với những người bị tù đày chỉ vì họ đã lên tiếng cho sự thật và công bằng. Do đó, chúng tôi đã cùng với các bạn hữu và người quen phát động chiến dịch đòi trả tự do điển hình cho 7 tù nhân lương tâm như sau:
Anna Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Trần Thị Thúy, Lê Thu Hà, Phêrô Hồ Đức Hòa,
Trần Huỳnh Duy Thức, David Nguyễn Văn Đài và Phanxicô Xaviê Đặng Xuân
Diệu. Cho tới giờ đã có trên 160 nhân sĩ tỏ tình liên đới với các tù nhân lương tâm này, chẳng hạn như cựu tổng thống Christian Wulff, cựu chủ tịch quốc hội Đức bà Giáo sư tiến sĩ Rita Süssmuth, Đức Hồng Y Rainer Maria Woelki, nữ Thống Đốc tiểu bang Rheinland-Pfalz Malu Dreyer….
Chắc hẳn quý vị biết là ông Đặng Xuân Diệu đã bị trục xuất qua Paris, Pháp quốc vào tháng giêng năm 2017. Chúng tôi mến chúc ông chóng phục hồi để tiếp tục tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam. Ban tổ chức cho tôi biết là có sự hiện diện của ông Đặng Xuân Diệu trong buổi lễ tưởng niệm này ở Berlin để tường trình về số phận của những người còn ở trong tù. Tôi cũng rất muốn có mặt nhưng đáng tiếc vì lý do nghề nghiệp nên không thể đến tham dự được.
Kính thưa quý vị,
Thể chế độc tài Cộng Sản ở miền Nam Việt Nam đã kéo dài 42 năm. Quyền tự do tư tưởng, tự do tìm kiếm dữ kiện và tự do báo chí bị cấm cản một cách có hệ thống. Những tổ chức đối lập không được sinh hoạt. Mặc dù vậy, trong những năm qua vẫn có những người can đảm gióng lên tiếng nói chống lại những bất công của chế độ. Những ước mơ có được quyền tự do quyết định, và có được một thể chế chính trị, mà trong đó chính quyền và xã hội biết tôn trọng cũng như biết bảo vệ nhân quyền, đã được quý vị nuôi dưỡng một cách sống động. Một số người đã phải trả một giá rất cao cho những nguyện vọng này. Do đó, những nỗ lực của quý vị từ hải ngoại để giúp đỡ đồng bào quốc nội đang lên tiếng đòi những quyền tự do căn bản, rất là quan trọng.
Vào thập niên 1980 chúng tôi đã trải qua kinh nghiệm là cầu nguyện phá tung xiềng xích và dẫn đến tự do, vì Thiên Chúa nghe những tiếng thét lên, van nài và cầu xin của chúng ta. Vì thế, cùng với quý vị, những người Việt ở hải ngoại cũng như quốc nội, chúng tôi cầu nguyện cho hòa bình, tự do và bất bạo động. Vào ngày 29 tháng tư này chúng tôi đặc biệt nhớ đến quê hương Việt Nam của quý vị và cầu xin ơn chữa lành các vết thương, ơn nhìn nhận ra lẽ phải của nhà cầm quyền và lòng can đảm để đưa đến những thay đổi theo đường hướng dân chủ.
Thay mặt những nhân sĩ của chiến dịch đòi trả tự do cho các tù nhân lương tâm tôi xin kính chúc tất cả quý vị giữ được lòng can đảm và cùng với các lực lượng yêu chuộng tự do ở Việt Nam cùng tranh đấu cho một sự thay đổi dân chủ trong bất bạo động.
Thân ái kính chào
Giáo sư tiến sĩ Stefan Grüne
__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 
Viewing all 674 articles
Browse latest View live