Quantcast
Channel: Books-Hoi Ky.
Viewing all 674 articles
Browse latest View live

Nhận Định Và Đánh Giá Về Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

$
0
0

 

Nhận Định Và Đánh Giá Về Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Lâm Vĩnh Thế

Image result for Nguyễn Văn Thiệu
Sau ngày 30-4-1975, và trong một thời gian khá dài, có lẽ đến 10-15 năm, phần đông người Việt ở hải ngoại đều có một nhận định chung không tốt về cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu như sau: một nhà lãnh đạo hèn nhát, đào ngũ, bỏ rơi đồng đội và đồng bào, và là người lãnh đạo chịu trách nhiệm hoàn toàn về sự sụp đổ quá nhanh của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Nhận định này, mặc dù phổ biến, và dựa vào một số sự việc đã xảy ra trong các tháng 3-4/1975, chỉ là do cảm tính, không dựa vào bất cứ tài liệu khả tín nào cả. 

Gần như ai cũng biết và nhớ câu nói nổi tiếng của ông “Ðừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm,” nhưng hình như đó cũng là sự đánh giá duy nhứt của nhân dân Miền Nam về sự nghiệp chính trị của ông. Nhưng dần dà sau đó, với sự ra đời của một số sách và bài báo ngày càng nhiều, cả Việt ngữ lẫn Anh ngữ, của một số tác giả nghiêm túc, và dựa trên những tài liệu mật của Chính phủ Hoa Kỳ đã được giải mật, nhận định của người Việt hải ngoại về ông đã có phần thay đổi. Bài viết này cố gắng đưa ra một đánh giá trung thực, khách quan về vị nguyên thủ quốc gia này của VNCH. Tiêu chuẩn mà người viết sử dụng trong việc đánh giá lại nhân vật lịch sử này gồm 3 yếu tố: 1) 

Quá trình đào tạo và kinh nghiệm thực tiễn; 2) Cách ứng xử, quyết định và hành động; và 3) Khả năng chính trị và cầm quyền. Việc đánh giá này tập trung trong 3 giai đoạn quan trọng trong cuộc đời chính trị của nhân vật này: 1) Trước cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, 2) Từ sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 cho đến ngày 30-10-1967; và 3) Từ ngày 1-11-1967 cho đến khi ông từ chức Tổng Thống VNCH vào ngày 21-4-1975.

Trước Đảo Chánh 1-11-1963

Theo Cáo Phó mà gia đinh ông in ra khi ông mất vào ngày 29-9-2001, tại thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, ông Nguyễn Văn Thiệu sinh ngày 5-4-1923, tại làng Tri Thủy, xã Tân Hải, quận Thanh Hải, tỉnh Ninh Thuận. 

Ông học tiểu học tại quê nhà, sau đó ra Huế học trung học tại Trường Pellerin. Sau khi xong trung học, ông vào học Trường Hàng Hải, có tốt nghiệp nhưng không hành nghề. Sau đó ông theo học trường Sĩ Quan Đập Đá tại Huế, tốt nghiệp Thiếu Úy năm 1949, phục vụ tại Miền Tây Nam Phần một thời gian rồi đuợc gởi sang Pháp tu nghiệp tại Coequidan. Trở về nước, ông phục vụ tại Phân Khu Hưng Yên (Bắc Việt), cùng thời gian với một số sĩ quan Việt Nam, trong đó có 2 người về sau trở thành tướng lãnh của Quân Lực VNCH (QLVNCH): Đại Tướng Cao Văn Viên và Thiếu Tướng Đỗ Mậu.

Trong cuốn hồi ký của ông, Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Thiếu Tướng Đỗ Mậu đã ghi lại những nhận xét về Trung Úy Nguyễn Văn Thiệu của vị tướng người Pháp, Tư Lệnh Chiến Trường Bắc Việt, Trung Tướng Francois de Linarès, như sau: "Thông minh sắc bén, siêng năng, thứ tự và tỉ mỉ. Sĩ quan hảo hạng có một ý thức tuyệt hảo về tổ chức và bảo mật. (Intelligence aigue, travailleur, méthodique et minutieux. Très bon officier. Possède un sens remarquable de l'Organisation et du Secret).” 1Sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam, ông gia nhập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Tháng 3-1955, với cấp bậc Trung Tá, ông được bổ nhiệm làm Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. 

Tháng 7-1957, ông được gửi đi học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp tại Fort Leawenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Sau khóa học này, năm 1958, ông về nước và được tái bổ nhiệm Chỉ Huy Trưởng trường võ bị này. Tháng 2-1959, ông rời trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt để đi học khóa Tình Báo Tác Chiến tại Okinawa, Nhật Bản. 

Trở về nước, ông được bổ nhiệm làm Tham Mưu Trưởng Hành Quân tại Bộ Tổng Tham Mưu, và ngày 26-10-1959 ông thăng cấp Đại Tá. Sau đó ông được gửi đi Hoa Kỳ lần thứ hai để theo học khóa Phòng Không tại Fort Bills, Texas. Đầu tháng 10 năm 1961, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1. Ngày 20-12-1962, ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đóng tại Biên Hòa.2 

Khi các tướng lãnh tổ chức cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông tham gia và mang quân Sư Đoàn 5 từ Biên Hòa về tấn công Dinh Gia Long và thành Cộng Hòa, nơi đồn trú của Liên Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. Sau khi cuộc đảo chánh thành công, ông được thăng cấp Thiếu Tướng. (Lúc đó, QLVNCH chưa có cấp bậc Chuẩn Tướng; cấp bậc Chuẩn Tướng do Tướng Nguyễn Khánh thiết lập vào tháng 4-1964, và ngày 8-4-1964, Đại Tá Nguyễn Cao Kỳ, Tư Lệnh Không Quân, là vị Đại Tá đầu tiên được thăng cấp Chuẩn Tướng).

Trong giai đoạn này, những gì chúng ta biết được về ông Thiệu rất ít vì ông chưa có vai trò quan trọng, nổi bật trong chính trường VNCH. Qua lời phê của Tướng De Linarès, chúng ta được biết ông là một sĩ quan giỏi, thông minh, tỉ mỉ, làm việc có phương pháp, và có ý thức cao về bảo mật. Điều này có nghĩa là ông làm việc cẩn thận, có tính toán, và luôn luôn có cảnh giác, đề phòng người khác. Những cá tính này sẽ bộc lộ rõ rệt hơn khi ông thực sự nắm quyền. Trong giai đoạn này, ít nhứt, ông đã có 2 quyết định rất quan trọng cho sự nghiệp của ông, cả hai đều đuợc ông cân nhắc, tính toán rất cẩn thận trước khi quyết định. 

Quyết định thứ nhứt là bỏ đạo Phật của gia đinh để theo Công giáo của vợ ông. Ta không biết rõ ông thực hiện quyết định này vào năm nào, nhưng có lẽ phải sau khi chế độ Ngô Đình Diệm đã vững vàng, và như thế ít nhứt là 4-5 năm sau khi ông kết hôn với bà Mai Anh. Như thế, rõ ràng là việc ông bỏ đạo của gia đinh mình để theo đạo của vợ hoàn toàn không phải là một đòi hỏi do cuộc hôn nhân mà là một quyết định có tính toán. Và, quả thật, quyết định này đã giúp ông thăng tiến nhanh trong binh nghiệp, trở thành Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt và Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh chỉ trong thời gian 5-6 năm. Quyết định thứ nhì là tham gia vào cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963.

 Quyết định này cũng đã được suy tính kỹ lưỡng sau khi ông được Đại Tá Đỗ Mậu kết nạp và biết rõ có sự tham gia của các tướng lãnh quan trọng, đặc biệt là tướng Trần Thiện Khiêm, lúc đó là Tham Mưu Trưởng Liên Quân, và tướng Tôn Thất Đính, Tư Lệnh Quân Đoàn 3, là những người có đầy đủ quyền điều động các đơn vị trọng yếu chung quanh thủ đô. Và quyết định này đã giúp ông trở thành một tướng lãnh. Như vậy, ông chỉ mất có 14 năm để lên đến cấp tướng vào năm 1963 lúc ông 40 tuổi, tính từ ngày ông tốt nghiệp Thiếu Úy tại Khoá Sĩ Quan Đập Đá ở Huế năm 1949.  

Từ Sau Đảo Chánh 1-11-1963 Đến 30-10-1967

Giai đoạn này có thể phân làm 2 giai đoạn nhỏ: 1) từ sau đảo chánh 1-11-1963 cho đến khi Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (UBLĐQG) ra đời; và, 2) từ khi UBLĐQG ra đời đến ngày 30-10-1967. Toàn bộ thời gian này có thể xem như là thời gian tập sự cầm quyền của ông Thiệu, giúp ông nắm vững các vấn đề chính trị của đất nuớc, hiểu rõ sách luợc của Đồng Minh Hoa Kỳ và hoàn thiện phương pháp làm việc của riêng cá nhân ông.

Giai Đoạn Trước Khi UBLĐQG Ra Đời

Sau khi tham gia vào vụ đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, được thăng cấp Thiếu Tướng, và trở thành một Ủy Viên của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng (HĐQNCM), ông Thiệu không được bổ nhiệm vào những chức vụ cao cấp và quan trọng hơn và phải trở về cương vị Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Có lẽ vì thế ông bất mãn với chế độ mới. Vì là một thành viên của HĐQNCM, chắc chắn ông biết được sự bất mãn và chia rẽ trong nội bộ của Hội Đồng.3 

Tuy nhiên, với bản tánh dè dặt và tính toán kỹ lưỡng, ông không manh động mà chờ thời cơ đến. Thời gian chờ đợi không lâu. Chỉ 3 tháng sau, cùng với những tướng lãnh bất mãn khác, như Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, Thiếu Tướng Đỗ Mậu, Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có, ông tham gia vào cuộc "Chỉnh Lý" của Trung Tướng Nguyễn Khánh ngày 30-1-1964. Quyết định này giúp ông thăng tiến thêm cả về chính trị lẫn binh nghiệp: 1) Ông trở thành Tổng Thư Ký của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng (từ tháng 2 đến tháng 9-1964) và, 2) Ông được Tướng Khánh bổ nhiệm làm Tư Lệnh Vùng 4 (từ tháng 9-1964), và ngày 1-1-1965 ông vinh thăng Trung Tướng do chính Tướng Khánh gắn sao tại Bộ Tư Lệnh Vùng 4 ở Cần Thơ. 

Với tư cách Tổng Thư Ký của HĐQNCM, chắc chắn ông đã được tiếp cận với những vấn đề chính trị cấp quốc gia mà Hội Đồng phải giải quyết. Ông cũng được cơ hội thông báo và thi hành những quyết định của Hội Đồng đối với các sĩ quan cao cấp 4 và ngay cả các tướng lãnh; điều này giúp ông mở rộng phạm vi quen biết và ảnh hưởng, giúp gia tăng thế lực của ông trong quân đội và chính trường. Việc ông được Tướng Khánh bổ nhiệm làm Tư Lệnh Vùng 4 giúp ông có cơ hội chỉ huy cả một Quân Đoàn (là đơn vị lớn nhứt của QLVNCH) gồm 3 Sư Đoàn 7, 9 và 21, chịu trách nhiệm về an ninh cho 1/4 lãnh thổ của quốc gia. Với tư cách Tư Lệnh Quân Đoàn, dĩ nhiên, ông là cấp trên trực tiếp của 3 vị sĩ quan cao cấp Tư Lệnh của các Sư Đoàn nói trên. Cả 3 vị Tư Lệnh này về sau đều thăng lên đến cấp bậc trung tướng và đều trở thành Tư Lệnh Quân Đoàn, đó là Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Trung Tướng Vĩnh Lộc và Trung Tướng Đặng Văn Quang.5Riêng Trung Tướng Đặng Văn Quang sau này sẽ là Phụ Tá đắc lực về Quân Sự và An Ninh cho ông khi ông trở thành Tổng Thống VNCH.

Thời gian từ tháng 2 đến tháng 9-1964, Tướng Thiệu, với tư cách Tổng Thư Ký của HĐQNCM, đã luôn luôn làm việc gần gũi với Tướng Khánh. Thời gian này Tướng Khánh cũng là Thủ tướng Chính phủ, trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia.Thời gian này cũng là thời gian xáo trộn nhứt trong lịch sử của VNCH, với những vụ xuống đường, biểu tình, và đảo chánh. Phật Giáo tạo áp lực rất mạnh và sinh viên học sinh cũng gây nhiều khó khăn cho Chính phủ. Tướng Khánh không chịu nỗi những áp lực đó và nhượng bộ liên tục, khiến cho phe quân nhân cũng bất mãn. 

Cuộc đảo chánh ngày 13-9-1964 của hai tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát cho thấy rõ sự bất mãn này của phe quân nhân đối với Tướng Khánh. Cuộc đảo chánh này thất bại vì không được các tướng trẻ (Young Turks) ủng hộ. Tướng Thiệu đã có dịp quan sát trực tiếp cách làm việc của Tướng Khánh.  Ông rút ra được hai bài học về chính trị: 1) Càng nhượng bộ thì phe Phật Giáo càng lấn tới; điều này có nghĩa là nhượng bộ nhiều quá không phải là một điều hay trong chính trị, và, 2) Muốn giữ được chính quyền thì phải có hậu thuẩn của quân đội, nhứt là các tướng trẻ.

Nhóm tướng trẻ này, thường được báo chí Mỹ gọi chung dưới tên "Young Turks," là các sĩ quan cao cấp, chỉ huy các quân binh chủng và các đại đơn vị của QLVNCH trong giai đoạn này, mà phần lớn là do Tướng Khánh phong tướng với ý đồ tạo ra một tầng lớp tướng lãnh trẻ để làm hậu thuẫn cho những mưu toan chính trị của ông Đầu tháng 10-1964, một tài liệu của Cơ Quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (Central Intelligence Agency - CIA) đã liệt kê rõ tên họ của nhóm tướng trẻ này, với cấp bậc và đơn vị mà họ chỉ huy như sau: 6

1. Chuẩn Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư Lệnh Không Quân
2. Đại Tá Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù
3. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Khang, Tư Lệnh Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến
4. Đại Tá Nguyễn Bảo Trị, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh
5. Thiếu Tướng Tôn Thất Xứng, Tư Lệnh Vùng I
6. Chuẩn Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh
7. Chuẩn Tướng Nguyễn Thanh Sằng, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh
8. Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc, Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh
9. Chuẩn Tướng Đặng Văn Quang, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh

Nhóm tướng trẻ này ngày càng đông, có tổ chức và trở nên một đoàn thể chính trị rất mạnh có khả năng khuynh loát chính quyền. Đối với riêng Tướng Khánh, chỉ một thời gian ngắn sau khi được thăng lên cấp tướng, các tướng trẻ đã nhận ra yếu kém của ông ta trong cách đối phó với các cuộc khủng hoảng chính trị, nhứt là trong vụ Hiến Chương Vũng Tàu trong tháng 8-1964, mà ông vừa ban hành đã vội hủy bỏ ngay dưới áp lực của sinh viên, làm mất mặt Quân Đội rất nhiều. Tiếp theo đó, cuộc đảo chánh ngày 13-9-1964 của hai tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát, mà chính các tướng trẻ đã đứng ra chống đối và dẹp yên được, càng cho họ thấy rõ sự bất lực của Tướng Khánh. 

Từ đó trở đi, không những Tướng Khánh không thể lợi dụng được họ nữa mà, trái lại, còn bị họ làm áp lực nặng nề buộc phải thỏa mãn những đòi hỏi của họ. Họ chiếm đa số trong Hội Đồng Quân Lực (HĐQL) do Tướng Khánh thành lập. Tuy vẫn được họ giữ lại trong các chức vụ Tổng Tư Lệnh và Chủ Tịch HĐQL, Tướng Khánh thật sự đã không còn nắm được quyền hành nữa. Việc các tướng trẻ sẽ loại bỏ ông chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi. Nhân danh HĐQL, họ đã có một loạt những hoạt động khuynh loát chính phủ như sau: 
1) giải tán Thượng Hội Đồng Quốc Gia (THĐQG) khi Hội Đồng này từ chối không chịu thực hiện đòi hỏi cho các tướng già về hưu của họ; 
2) giải nhiệm và mang đi quản thúc Thủ Tướng Trần Văn Hương khi Thủ Tướng Hương không giải quyết được tình hình rối loạn do phe Phật Giáo và sinh viên tạo ra; 
3) đề cử Bác sĩ Phan Huy Quát lập chính phủ mới; và, 4) khi xảy ra cuộc đảo chánh ngày 19-2-1965 của Đại Tá Phạm Ngọc Thảo đòi loại bỏ Tướng Khánh, họ chống lại cuộc đảo chánh nhưng nắm lấy cơ hội này để loại bỏ Tướng Khánh, và đề cử Trung Tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư Lệnh. 

Ngày 22-2-1965 Tướng Khánh vĩnh viễn rời khỏi Việt Nam.7

Tuy nhiên, có một điều mà các tướng trẻ không bao giờ ngờ đến là tất cả những hành động này của họ đã vô tình tạo ra những điều kiện thật tốt cho việc thăng tiến của Tướng Thiệu. Đối với Quân Đội nói chung và đối với nhóm các tướng trẻ nói riêng, có hai điều mà họ luôn luôn tôn trọng và tuân thủ: đó là hệ thống quân giai và thâm niên cấp bậc. 

Vào đầu năm 1965, tình hình các tướng lãnh trong QLVNCH là như sau: Thống Tướng Lê Văn Tỵ đã mất từ ngày 21-10-1964; trong 3 vị Đại Tướng là Trần Thiện Khiêm (thăng cấp Đại Tướng ngày 11-8-1964), Dương Văn Minh (thăng cấp Đại Tướng ngày 24-11-1964) và Nguyễn Khánh (thăng cấp Đại Tướng ngày 27-11-1964) thì 2 Tướng Khiêm và Minh đã bị Tướng Khánh dùng cách cử làm Đại sứ và đưa ra khỏi nuớc, còn lại Tướng Khánh thì tuy vẫn còn giữ các chức vụ Tổng Tư Lệnh và Chủ Tịch HĐQL nhưng trên thực tế không còn nắm quyền nữa. Như vậy, trên thực tế, có địa vị quan trọng nhứt trong Quân Đội lúc bấy giờ là các vị Trung Tướng. Lúc bấy giờ có tất cả 10 vị Trung Tướng. Đó là các vị sau đây:

- Phạm Xuân Chiểu, thăng cấp Trung Tướng ngày 2-11-1963
- Tôn Thất Đính, thăng cấp Trung Tướng ngày 2-11-1963
- Trần Văn Đôn, thăng cấp Trung Tướng ngày 2-2-1957
- Lê Văn Kim, thăng cấp Trung Tướng ngày 2-11-1963
- Nguyễn Ngọc Lễ, thăng cấp Trung Tướng ngày 9-12-1956
- Trần Văn Minh (Minh nhỏ), thăng cấp Trung Tướng ngày 10-12-1956
- Lê Văn Nghiêm, thăng cấp Trung Tướng ngày 2-11-1963
- Trần Ngọc Tám, thăng cấp Trung Tướng tháng 4-1964
- Nguyễn Văn Thiệu, thăng cấp Trung Tướng ngày 1-1-1965
- Mai Hữu Xuân, thăng cấp Trung Tướng ngày 2-11-1963

Trung Tướng Thiệu, tuy thâm niên cấp bậc là kém nhứt trong số 10 vị Trung Tướng, nhưng trên thực tế lại là ngôi sao đang lên trong khi các vị kia, đặc biệt là 4 tướng Đà Lạt Đôn-Xuân-Kim-Đính, đều là những vì sao đang sắp tắt. Kể từ sau cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Tướng Thiệu đã liên tiếp được đề cử giữ những chức vụ quan trọng về cả 2 mặt quân sự và chính trị:

- 2-11-1963: Vinh thăng Thiếu Tướng
- 2-11-1963: Ủy Viên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng
- 30-1-1964: Tham gia cuộc "Chỉnh lý” của Tướng Khánh
- 31-1-1964: Tổng Thư Ký Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng
- 2-2-1964:  Tham Mưu Trưởng Liên Quân Bộ Tổng Tham Mưu
- 8-2-1964:  Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Nội các Nguyễn Khánh
- 15-9-1964: Tư Lệnh Vùng 4
- 1-1-1965:  Vinh thăng Trung Tướng
- 18-1-1965: Đệ Nhị Phó Thủ Tướng trong Nội các Trần Văn Hương cải tổ.

Chính vì vậy mà ngay trong phiên họp ngày 24-1-1965 của HĐQL do Tướng Khánh triệu tập và chủ tọa, khi các tướng thảo luận về việc nên giải quyết thế nào đối với Chính phủ Trần Văn Hương cũng như việc có nên đề cử ra một vị Thủ Tướng quân sự hay không, và khi bỏ phiếu để chọn ra một vị tướng làm Thủ Tướng thì Tướng Thiệu đã nhận đuợc số phiếu cao nhứt.8 Ông từ chối không nhận việc đề cử này, viện lý do ông là người Công Giáo nên chắc chắn sẽ bị phe Phật Giáo chống đối và như vậy sẽ không thể làm tròn đuợc nhiệm vụ giao phó. Phản ứng này của ông càng làm tăng thêm uy tín của ông trong giới tướng lãnh. 

Ngày 27-1-1965, HĐQL giải nhiệm và đem đi quản thúc Thủ Tướng Hương và đề cử Bác sĩ Phan Huy Quát thành lập nội các mới. Ngôi sao số mạng của Tướng Thiệu càng sáng rực hơn khi ông được Bác sĩ Quát mời tham gia Chính phủ với chức vụ Đệ Nhứt Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Truởng Quân Lực. 

Sau khi Tướng Khánh bị buộc phải rời khỏi Việt Nam, ngày 3-3-1965, Tướng Thiệu được các tướng lãnh đề cử làm Tổng Thư Ký của Ủy Ban Thường Vụ của HĐQL. Tháng 5-1965 xảy ra cuộc khủng hoảng nội các của Chính phủ Quát do bất hòa giữa Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Quát. Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp (HĐQGLP) không giải quyết được. 

Cả Quốc Trưởng và Thủ Tướng không ai chịu nhượng bộ. Sau cùng Thủ Tướng quyết định từ chức và giải tán Chính phủ. Quốc Trưởng cũng từ chức. Ngày 11-6-1965, Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu, Thủ Tướng Phan Huy Quát và Chủ Tịch HĐQGLP Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu ra tuyên cáo chung giao quyền lại cho Quân Đội.9Ba ngày sau, QLVNCH công bố Quyết định số 3, ngày 14-6-1965, gồm 5 Điều, thành lập Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (UBLĐQG).10Điều 2 của Quyết Định này ghi rõ thành phần của UBLĐQG gồm có 10 người như sau:

- 1 Chủ Tịch
- 1 Tổng Thư Ký
- 1 Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành pháp
- Tổng Truởng Quốc Phòng
- Tổng Tham Mưu Trưởng
- 4 vị Tư Lệnh 4 Vùng Chiến Thuật
- Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô

Điều 4 của Quyết Định này ghi rõ như sau: Hoàn toàn tín nhiệm và chỉ định:
A. Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu; B. Tổng Thư Ký: Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu; C. Ủy Viên Phụ Trách Điều Khiển Hành Pháp: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Lần này ông Thiệu không từ chối nữa.

Giai Đoạn Từ Khi UBLĐQG Ra Đời Đến Ngày 30-10-1967

Trong thời gian hơn 2 năm này, ông Thiệu, với tư cách Chủ Tịch UBLĐQG, đóng vai trò Quốc Trưởng của VNCH. Điều 3 của Quyết Định số 3 của QLVNCH ghi rõ "Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, thay mặt toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, điều khiển Quốc gia."Điều 5 đề ra các nhiệm vụ chính yếu của UBLĐQG như sau: "Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập thể chế và các cơ cấu Quốc Gia cùng thành lập một Nội Các Chiến Tranh."

Ngay từ đầu, ông Thiệu phải đã biết là Ủy Viên Phụ Trách Điều Khiển Hành Pháp sẽ đóng vai trò Thủ Tướng điều khiển cái gọi là Nội Các Chiến Tranh mà UBLĐQG sẽ phải thành lập theo Điều 5 nói trên. Tại sao ông chấp nhận làm Chủ Tịch UBLĐQG (Quốc Truởng) và để cho ông Kỳ làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (UBHPTƯ) (Thủ Tuớng) ? Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta cần duyệt lại tình hình các tướng lãnh tại thời điểm đó. Vào thời điểm giữa tháng 6-1965, 5 vị Trung Tướng là Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Nguyễn Ngọc Lễ, Lê Văn Nghiêm và Mai Hữu Xuân đều đã được cho giải ngũ (Sắc Lệnh số 119/QT/SL ngày 24-5-1965 do Quốc Truởng Phan Khắc Sửu ký). Như vậy chỉ còn lại 5 vị Trung Tướng là Phạm Xuân Chiểu, Tôn Thất Đính, Trần Văn Minh, Trần Ngọc Tám và Nguyễn Văn Thiệu. Trong các vị này, Tướng Đính là thất thế nhứt, ông không bị cho giải ngũ cùng với các Tướng Đôn-Kim-Lễ-Nghiêm-Xuân chỉ vì ông chưa đủ 25 năm quân vụ. 

Ông phải chấp nhận giữ chức vụ Tổng Thanh Tra Quân Lực kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quân Huấn thuộc loại ngồi chơi xơi nuớc. Tướng Trần Ngọc Tám, tuy không thuộc đối tuợng cần loại bỏ như các tướng Đà Lạt, nhưng cũng không được tin cậy, và ông phải nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Điều Hành Quốc Tế Quân Viện. Tướng Trần Văn Minh thì đã đảm nhận chức vụ Tổng Tư Lệnh thay thế Tướng Khánh; ngày 14-5 đổi danh hiệu trở lại là Tổng Tham Mưu Trưởng, nhưng ông cũng sẽ không giữ chức vụ này được bao lâu; hai tháng sau, ngày 15-7-1965, ông sẽ phải bàn giao chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng lại cho Tướng Nguyễn Hữu Có để rời Việt Nam đi làm Đại sứ VNCH tại Tunisie ở Bắc Phi.11 

Như vậy thật sự chỉ còn 2 vị Trung Tướng còn có uy tín và thế đứng trong QLVNCH là Phạm Xuân Chiểu (thâm niên cao hơn) và Nguyễn Văn Thiệu (kém thâm niên hơn). Về phía các tướng trẻ thì nổi bật nhứt và có quyền lực nhứt là 2 vị Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Vùng I và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư Lệnh Không Quân.  Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Văn Liễu, lúc đó đang giữ chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, khi các tướng lãnh họp để chọn người đảm nhiệm các chức vụ Chủ Tịch UBLĐQG và Chủ Tịch UBHPTƯ thì hai vị tướng được mọi người đề cử là 2 tướng Phạm Xuân Chiểu và Nguyễn Chánh Thi. Ông Chiểu từ chối không nhận và đề cử Tướng Thiệu; Tướng Thi cũng từ chối và đề cử Tướng Kỳ. 

Cả 2 ông Thiệu và Kỳ đều vui vẻ chấp nhận.12Điều này cũng được chính Tướng Thi xác nhận trong cuốn hồi ký của ông. Chỉ khác là ông Thi cho biết là sau khi ông từ chối không nhận sự đề cử của các tướng lãnh thì chính ông Thiệu đề cử Tướng Kỳ. Ông viết như sau trong cuốn hồi ký: "Sau đó Nguyễn Cao Kỳ được Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu cộng tác, đứng ra lập chính phủ, và đằng sau đã có bọn phù thủy Mỹ che chở. Tôi còn nhớ rất rõ, sau khi tôi nói vừa chấm dứt thì được nghỉ mấy phút giải lao, tự nhiên Nguyễn Văn Thiệu đi ngang, ghé tai tôi nói nhỏ: "Để cho thằng Kỳ làm đi !." Nói xong, nhìn tôi cười liếc."13 Chúng ta không thể biết chắc chắn là những chi tiết trình bày trong cuốn hồi ký của Tuớng Thi có hoàn toàn đúng sự thật hay không nhưng nó phù hợp với tình hình chính trị lúc bấy giờ và cũng phù hợp với cá tính của Tướng Thiệu. Tình hình chính trị tại thời điểm này là trong vòng chưa đến 2 năm (từ tháng 11-1963 đến tháng 6-1965), kể từ khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, đã có liên tiếp 4 Chính phủ (Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Khánh, Trần Văn Hương và Phan Huy Quát), trong đó có đến 3 Chính phủ tồn tại không hơn 4 tháng, và rất nhiều vụ đảo chánh hoặc âm mưu đảo chánh, cũng như không biết bao nhiêu vụ biểu tình, xuống đường, bạo động của các phe phái tôn giáo và thanh niên sinh viên học sinh. 

Ông Thiệu, với cá tính luôn luôn tính toán, không tin là một Chính phủ mới, dù là Nội Các Chiến Tranh đi nữa, có thể tồn tại lâu hơn 4-5 tháng. Và một khi đã nhận làm mà thất bại thì chắc chắn sẽ bị cháy tên và sẽ không có cơ hội lần thứ hai. Chính vì thế, ngay từ cuộc họp ngày 24-1-1965, khi được các tướng lãnh bỏ phiếu đề cử ông làm Thủ Tướng, ông đã từ chối ngay. Do đó, lần nầy cũng vậy thôi, ông thà nhận trách nhiệm làm Quốc Trưởng (Chủ Tịch UBLĐQG) chứ không dại gì chịu nhận làm Thủ Tướng (Chủ Tịch UBHPTƯ). Đây là một tính toán sai lầm của Tướng Thiệu và suýt chút nữa nó đã làm tiêu ma luôn sự nghiệp đang lên của ông, như chúng ta sẽ bàn đến trong phần sau.

Trong suốt thời gian tập sự cầm quyền này, như đã trình bày bên trên, chúng ta đã thấy rõ cách hành xử và ứng phó của Tướng Thiệu trước tình hình chính trị vô cùng khó khăn phức tạp của VNCH. Còn về vấn đề đối với đồng minh Hoa Kỳ thì sao? Chúng ta đã biết cá tính suy nghĩ thận trọng trước mọi vấn đề của Tướng Thiệu. Như vậy chúng ta có thể tin chắc chắn rằng ông không thể không nhìn thấy chính sách dùng người của Hoa Kỳ. Khi còn có giá trị lợi dụng cần thiết cho đường lối và sách lược của họ thì họ đề cao và ủng hộ hết mình. Khi không còn ích lợi cho việc thi hành đường lối, chính sách của họ thì họ thẳng tay loại bỏ không thương tiếc. 

Từ 1963 đến 1965, trong vòng 2 năm ngắn ngủi, Hoa Kỳ đã dùng mọi cách để loại bỏ 3 nhà lãnh đạo VNCH: Ngô Đình Diệm, Dương Văn Minh và Nguyễn Khánh. Trong cả 3 lần Hoa Kỳ thi hành chính sách thay người này, Tướng Thiệu đều có tham dự một cách tích cực cả. Lần thứ nhứt, trong cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, ông là người chỉ huy Sư Đoản 5 Bộ Binh tấn công vào Dinh Gia Long và Thành Cộng Hòa. Lần thứ hai, trong vụ Chỉnh Lý ngày 30-1-1964 vô hiệu hóa Quốc Trưởng Dương Văn Minh và bắt giam các Tướng Đôn-Xuân-Kim-Đính, ông cũng ngả theo phe của Tướng Khánh. Lần thứ ba, sau cuộc đảo chánh của Đại Tá Phạm Ngọc Thảo ngày 19-2-1965, ông cùng các tướng trẻ trong HĐQL loại Tướng Khánh ra khỏi chức vụ Tổng Tư Lệnh và buộc Tướng Khánh phải rời khỏi Việt Nam vĩnh viễn. 

Qua các việc trên, Tướng Thiệu chắc chắn phải hiểu là tuyệt đối không thể làm mất lòng người Mỹ nếu muốn tiếp tục nắm quyền tại VNCH, vì người Mỹ có thể dùng nhiều cách, kể cả đảo chánh, để loại bỏ cấp lãnh đạo của VNCH mà họ không thích hoặc không sử dụng được. Đặc biệt là trường hợp đối với Tướng Khánh. Khi Tướng Khánh thực hiện vụ Chỉnh Lý ngày 30-1-1964, Hoa Kỳ ủng hộ ngay từ đầu và sau đó đã đánh bóng đề cao Tướng Khánh rất nhiều. Nhưng chẳng bao lâu họ nhận ra Tướng Khánh không phải là "người hùng" mà họ nghĩ và mong muốn. Ông đã để cho tình hình chính trị của VNCH ngày càng rối loạn.

 Khi xảy ra vụ HĐQL giải tán THĐQG, Đại sứ Taylor rất tức giận, và trong cuộc gặp gỡ tại văn phòng của Tướng Khánh, sau khi Tướng Khánh xác nhận chính ông chịu trách nhiệm về việc giải tán THĐQG, Đại sứ Taylor đã buông lời đe dọa Tướng Khánh nguyên văn như sau: "In that case get ready to leave the position of Comdr-in-Chief and to leave the country."14 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Trong trường hợp này, ông hãy chuẩn bị rời chức vụ Tổng Tư Lệnh và ra khỏi nước.”). Hai tháng sau, như đã trình bày bên trên, Tướng Khánh bị loại khỏi chức vụ Tổng Tư Lệnh và bị buộc phải rời khỏi Việt Nam, đúng như lời đe dọa trước đó của Đại sứ Taylor. Vì thế, trong suốt thời gian mà ông giữ cương vị Quốc Trưởng, Chủ Tịch UBLĐQG, (cũng như cả sau này, khi ông đã trở thành Tổng Thống của Đệ Nhị Cộng Hòa) ông rất cảnh giác đối với người Mỹ và lúc nào cũng lo sợ bị đảo chánh. 

Trong cuốn hồi ký của mình, Đại Tá Phạm Văn Liễu, lúc đó giữ chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, đã mô tả nỗi lo sợ này của Tướng Thiệu như sau: "Mỗi lần ở Sài Gòn có tin đồn đảo chính là Tướng Thiệu lại bay ngay xuống Cần Thơ tá túc. Nhiều khi mới 6, 7 giờ sáng đã thấy Tướng Thiệu bơ phờ xuất hiện ở phi trường Bình Thủy."15

Trở lại việc Tướng Thiệu đảm nhận vai trò Chủ Tịch UBLĐQG, tức Quốc Trưởng VNCH. Như trên có nói, đây là một tính toán sai lầm của Tướng Thiệu. Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, hay Nội các Chiến tranh, đã tồn tại hơn 2 năm, và ngày một vững mạnh, vượt qua được tất cả những cuộc khủng hoảng chính trị rất nghiêm trọng.16 Và, dĩ nhiên, uy tín cá nhân của Tướng Kỳ trong Quân Đội cũng như quyền hành của Tướng Kỳ, với tư cách Chủ Tịch UBHPTƯ, tức Thủ Tướng, càng ngày càng tăng và được cũng cố rất vững vàng. 

Vai trò và uy thế của Tướng Thiệu đã bị giảm thiểu nặng nề. Đại tá Phạm Văn Liễu đã có những ghi nhận như sau trong cuốn hồi ký của ông: "Tướng Thiệu sử dụng Dinh Gia Long làm Phủ Chủ Tịch UBLĐQG. ... Bên mé trái của tòa nhà, ngoài dăm sĩ quan đã làm việc với Tướng Thiệu ở Sư Đoàn 5 ra, không có mấy người lui tới. ... Theo dư luận hồi đó, bao nhiêu quyền hành, công việc do Tướng Kỳ thu tóm hết, Tướng Thiệu chỉ là một thứ bù nhìn giữ dưa. Tướng Thiệu cũng hiểu vậy, cố gắng chịu đựng, ngậm bồ hòn làm ngọt, ngầm chiêu binh mãi mã chờ thời."17 

Sau khi Hiến Pháp mới đuợc ban hành vào ngày 1-4-1967, Nội các Chiến tranh tích cực chuẩn bị bầu cử Tổng Thống và Thượng Nghị Viện sẽ diễn ra vào tháng 9-1967, thì vị thế của Tướng Kỳ đã hoàn toàn chế ngự chính trường VNCH. Ông được sự ủng hộ của các tướng Tư Lệnh Vùng, và, như thế cũng có thể nói là có luôn cả sự ủng hộ của các vị Tỉnh Trưởng vì các vị này đều là người thân tín của các Tướng Tư Lệnh Vùng.  

Trong Quốc Hội Lập Hiến (QHLH) ông cũng được sự ủng hộ của một số dân biểu quan trọng nhờ vậy QHLH, khi thảo luận về Hiến Pháp, đã đồng ý thông qua điều khoản ấn định tuổi tối thiểu để ứng cử Tổng Thống là 35 thay vì 40 (lúc đó Tướng Kỳ được 37 tuổi, và Tướng Thiệu 43 tuổi).18 Trong một cuộc họp báo tại Đà Lạt, ngày 12-5-1967, Tướng Kỳ tuyên bố sẽ ra ứng cử Tổng Thống. Một tuần lễ sau, ngày 19-5-1967, Tướng Thiệu cũng cho biết sẽ ứng cử Tổng Thống. Việc này làm cho các tướng lãnh lo ngại số phiếu quân nhân có thể bị chia xẻ giữa hai liên danh riêng rẻ của 2 Tướng Thiệu Kỳ và một liên danh dân sự có thể đắc cử. 

Các tướng thuộc phe Tướng Kỳ đã cử Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng đến gặp Tướng Thiệu để thuyết phục Tướng Thiệu rút lui nhưng Tướng Thiệu không đồng ý, nhất định từ chối.19Điều này bộc lộ bản tính "làm chính trị phải lì"của Tướng Thiệu. Hiểu theo nghia tích cực, "lì" tức là có quyết tâm cao, đã tính làm một chuyện gì thì sẽ cố gắng làm cho đến cùng, nghĩa là có kiên nhẫn. 

Tướng Thiệu rõ ràng là người có đức tính này. Ông lại cũng tỏ ra là một người có tinh thần làm việc nghiêm chỉnh, ngược hẳn lại so với Tướng Kỳ. Đại Tá Phạm Văn Liễu cũng đã có những nhận xét khách quan đối với 2 vị Tướng này như sau: "Tôi được giao trách nhiệm tổ chức lễ ra mắt cho chính phủ quân đội vào ngày 19-6... Trước ngày 19-6, anh Như Phong nhờ tôi đem hai bài diễn văn do anh soạn thảo tới cho hai vị chủ tịch. Khi ghé nhà ông Kỳ trong trại Phi Long, ông Kỳ đang bận đánh mạt chược với mấy sĩ quan Không Quân. Thấy tôi, Tướng Kỳ ra phòng khách nghe tôi trình bày về chương trình buổi lễ. Khi tôi đưa bản thảo bài diễn văn cho ông Kỳ, ông ta hờ hững đón nhận, nói qua tiếng cười : "Cứ để lại cho tôi, tối tôi sẽ coi. Bây giờ còn đang dở ván mà chược." Hiểu tính ông, tôi xin rút lui để cho ông đỡ mất hứng... Thái độ Tướng Thiệu chững chạc hơn ông Kỳ nhiều. Khi tôi đưa ra bản thảo bài diễn văn, ông Thiệu kêu người pha trà mời tôi, rồi thận trọng duyệt lại bản thảo. Ông Thiệu đọc đi đọc lại nhiều lần, cân nhắc từng câu, từng chữ, có khi đến cả dấu chấm, phẩy trong bài. Sự tương phản giữa hai ông Thiệu và Kỳ quá rõ ràng. Mặc dù ông Thiệu lúc ấy chỉ có hư vị nên thái độ khiêm tốn hơn, thận trọng hơn; nhưng nói về bản chất một cấp lãnh đạo và chỉ huy, ông Thiệu có vẻ được chuẩn bị sẵn và được một ban cố vấn có khả năng tiếp sức."20

Về tính cẩn trọng này của ông Thiệu, chúng ta sẽ có dịp biết thêm khi xét đến giai đoạn ông đã là Tổng Thống qua các nhận xét của những nhân vật thân cận với ông như Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng và Cố vấn Nguyễn Văn Ngân.

Trong thời gian nắm giữ chức vụ Chủ Tịch UBLĐQG, tức Quốc Truởng, Tướng Thiệu đã chứng tỏ khả năng chính trị của ông qua môt số sự việc mà quan trọng nhứt là vụ Biến Động Miền Trung năm 1966. “13-3-66, Hội-đồng Tướng-lãnh, gồm cả các chỉ huy địa phương nhóm họp tại Bộ Tổng-tham-mưu và biểu quyết với 32 phiếu thuận và 4 phiếu trắng cho tướng Nguyễn Chánh Thi nghỉ việc. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân được cử lên thay làm Tư-lịnh Vùng I kiêm Đại-biểu Chính-phủ.”21 

Đây là một cuộc khủng hoảng chính trị lớn nhứt trong thời gian cầm quyền của Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ tức Nội Các Chiến Tranh. Cuộc khủng hoảng chính trị này rất phức tạp và ảnh hưởng trên ¼ lãnh thổ của VNCH, lại ngay sát vùng giới tuyến giữa hai miền Nam Bắc nên gây ra rất nhiều bối rối, khó khăn cho Nội các Nguyễn Cao Kỳ và cả UBLĐQG. Sau khi Tướng Thi bị cách chức Tư Lệnh Vùng I vào ngày 13-3-1966, chỉ trong một thời gian rất ngắn mà đã có 4 bốn lần thay đổi tướng Tư Lệng Vùng I như sau:

- Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân: từ ngày 13-3-1966 đến ngày 8-4-1966
- Trung Tướng Tôn Thất Đính: từ ngày 9-4-1966 đến ngày 15-5-1966
- Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao: từ ngày 16-5-1966 đến ngày 30-5-1966
- Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm: từ ngày 31-5-1966

Điều này cho thấy UBLĐQG, mà Chủ tịch là Tướng Thiệu, đã rất lúng túng và phạm sai lầm nhiều lần trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng chính trị này. Nó cho chúng ta thấy rất rõ tính cách “tập sự cầm quyền” của Tướng Thiệu trong giai đoạn này Đồng thời nó cũng cho thấy rõ là Tướng Thiệu đã học tập có kết quả tốt khi ông biết kết hợp cả 2 mặt quân sự và chính trị (vừa cương vừa nhu) trong giai đoạn cuối khi kết thúc cuộc khủng hoảng chính trị này. Chúng ta hãy xem lại diễn tiến của việc giải quyết cuộc khủng hoảng để thấy rõ sự trưởng thành về chính trị của UBLĐQG mà Tướng Thiệu là người cầm đầu: 22

  • Vào khoảng cuối tháng 3-1966, chính quyền trung ương ở Sài Gòn gần như không còn kiểm soát được Vùng I nữa. Ngày 4-4-1965, Tướng Kỳ cùng với hai tướng Nguyễn Hữu Có, Cao Văn Viên và Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan mang 2 Tiểu đoàn TQLC có chiến xa yểm trợ ra Đà Nẵng và gặp sự chống đối quyết liệt của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, Tư Lệnh Quân Đoàn I và Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh. Trước sự chống đối quyết liệt có thể đưa đến một cuộc đụng độ đẫm máu giữa các đơn vị của QLVNCH, Tướng Kỳ và Tướng Viên quyết định trở về Sài Gòn nhưng vẫn để các đơn vị TQLC ở lại; Tướng Có ở lại để điều đình với phe chống đối.

  • Các ngày sau đó, sau khi họp với phe Phật Giáo (do Thượng Tọa Thích Tâm Châu lãnh đạo), UBLĐQG đồng ý sẽ tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến (QHLH) trong vòng 6 tháng. Nhưng sau đó Thương Tọa Tâm Châu lại có văn thư đòi hỏi nhiều chuyện khác trong đó có đòi hỏi chính quyền trung ương phải rút hết quân về Sài Gòn. Tướng Kỳ rất tức giận và đơn phương ra lệnh đưa thêm quân ra Đà Nẵng, lần này gồm cả TQLC và Nhảy Dù. Được tin này, Tướng Thiệu yêu cầu Tướng Viên gửi công điện hỏa tốc, ra lệnh rút các lực lượng tổng trừ bị đó về Sài Gòn ngay.

  • Ngày 12-4-1966, UBLĐQG triệu tập Đại Hội Chính Trị Toàn Quốc tại Sài Gòn. Ngày 14-4, khi Đại Hội bế mạc, Tướng Thiệu đích thân đến chủ tọa và đọc Sắc Luật 14/66 thông báo chính phủ sẽ tổ chức bầu cử QHLH trong vòng từ 3 tới 5 tháng.
  • Ngày 22-4-1966, để thi hành Sắc Luật 14/66 nói trên, UBHPTƯ triệu tập một Ủy Ban gồm 48 người với nhiệm vụ soạn thảo luật bầu cử QHLH.

  • Mặc dù chính quyền trung ương đã nhượng bộ và đã tiến hành các bước cần thiết trong việc bầu cử QHLH, phe Phật Giáo ở Miền Trung dưới sự lãnh đạo của Thượng Tọa Thích Trí Quang vẫn tiếp tục chống đối và biểu tình bạo động. Lần này thì Tướng Thiệu cương quyết dùng võ lực. Ngày 15-5-1966 chính ông ra lệnh đem quân ra Đà Nẵng để tái lập trật tự. 

  • Ông thật sự đã áp dụng bài học mà ông đã học được trong lúc làm Tổng Thư Ký cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng (từ tháng 2 đến tháng 9-1964) thời Tướng Nguyễn Khánh làm Chủ Tịch: “Càng nhượng bộ thì phe Phật Giáo càng lấn tới; điều này có nghĩa là nhượng bộ nhiều quá không phải là một điều hay trong chính trị.” Cuối tháng 6-1966, quân của chính quyền trung ương từ Sài Gòn gửi ra hoàn toàn làm chủ tình hình tại Đà Nẵng và Huế; cuộc khủng hoảng chính trị tại Vùng I chấm đứt.

Cũng trong thời gian giải quyết cuộc khủng hoảng này, ngày 6-6-1966, Hội Đồng Tướng Lãnh nhóm họp tại Bộ Tổng Tham Mưu quyết định mở rộng UBLĐQG và mời 10 nhân vật dân sự thuộc các tôn giáo và chính đảng tham gia, gồm các vị sau đây: “Trần Văn Đỗ, Phạm Hữu Chương, Phan Khoang (Viẹt Nam Quôc Dân Đảng), Nguyễn Văn Huyền (Công Giáo), Vũ Ngọc Trân (Công Giáo), Trần Văn Ân (Cao Đài), Văn Thành Cao (Cao Đài), Nguyễn Lưu Viên, Quan Hữu Kim (Hòa Hảo), Huỳnh Văn Nhiệm (Hòa Hảo).” 23

Khi xảy ra vụ khủng hoảng nội các vào tháng 10-1966 (6 vị Bộ Trưởng gốc Miền Nam từ chức để phản đối Tướng Nguyễn Ngọc Loan lạm quyền), một lần nữa gây khó khăn không ít cho Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, chính UBLĐQG mở rộng này cũng đã có đóng góp trong việc hòa giải, khiến 4 trong 6 Bộ Trưởng đồng ý rút đơn từ chức và tiếp tục ở lại phục vụ cho Nội Các Chiến Tranh.

Sau khi Hiến Pháp mới được ban hành vào ngày 1-4-1967, đối với Tướng Thiệu, cuộc bầu cử chức vụ Tổng Thống đầu tiên của nền Đệ Nhị Cộng Hòa, sẽ tổ chức vào ngày 3-9-1967, là một cơ hội không thể bỏ qua, và lần này, ông quyết tâm phải dành cho được chức vụ này, không để phạm sai lầm một lần nữa như hồi tháng 6-1965 khi QLVNCH thành lập UBLĐQG và UBHPTƯ.  Hơn ai hết, Tướng Thiệu biết rất rõ rằng tại thời điểm này, sau hai năm trực tiếp nắm quyền trên cả nước với tư cách là Chủ Tịch UBHPTƯ (tức Thủ Tướng), thế lực của Tướng Kỳ đã hoàn toàn chế ngự chính trường VNCH. 

Nhưng ông cũng biết rất rõ rằng tất cả các tướng lãnh nói riêng và cả quân đội nói chung đều không muốn thấy một liên danh dân sự (với những chính trị gia được dân chúng Miền Nam ủng hộ mạnh mẻ như các ông Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu) thắng trong cuộc tranh cử này. Chuyện này có thể xảy ra nếu số phiếu của các cử tri phe quân nhân có thể bị chia ra trong trường hợp có hai liên danh quân nhân. Do đó, sau khi Tướng Kỳ tuyên bố ra tranh cử Tổng Thống trong một cuộc họp báo tại Đà Lạt vào ngày 12-5-1967, thì một tuần lễ sau, ngày 19-5-1967, Phủ Chủ Tịch UBLĐQG cũng ra thông báo là Tướng Thiệu sẽ ứng cử chức vụ Tổng Thống. 

Các tướng lãnh, nhứt là các tướng lãnh thuộc phe Tướng Kỳ, rất không yên tâm về chuyện này. Họ cử Tướng Nguyễn Đức Thắng đến gặp Tướng Thiệu để thuyết phục Tướng Thiệu rút lui nhưng Tướng Thiệu nhứt quyết không chịu. Trước tình thế này, Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, phải triệu tập cuộc họp của Đại Hội Đồng Quân Lực tại Bộ Tổng Tham Mưu vào 2 ngày 28 và 29-6-1967 để áp lực 2 tướng Thiệu Kỳ phải đứng chung với nhau trong một liên danh, và vì vấn đề hệ thống quân giai, Tướng Thiệu là một Trung Tướng (3 sao) phải đứng trên (Tổng Thống), và Tướng Kỳ là một Thiếu Tướng (2 sao) phải đứng dưới (Phó Tổng Thống) trong liên danh chung này. 

Để thỏa mãn tự ái của Tướng Kỳ và giúp cho Tướng Kỳ dễ dàng chấp nhận đứng chung và làm phó trong liên danh chung này, Tướng Thiệu đã chấp nhận ký tên vào một Mật Ước giữa các tướng lãnh cao cấp, đồng ý là, nếu đắc cử, ông chỉ là Tổng Thống trên danh nghĩa mà thôi, tất cả quyền hành vẫn thuộc về Tướng Kỳ.24 Như vậy, nhờ quyết tâm cao và tính toán đúng, Tướng Thiệu đã thắng lớn trong ván bài chính trị này, một ván bài đã thua thấy rõ ngay từ đầu. Quyết tâm và tính toán này sẽ được ông áp dụng nhiều lần nữa sau này khi ông đã trở thành Tổng Thống VNCH.

(Còn tiếp)

 
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

Lễ Tưởng niệm Ngày Quốc Hận 30 tháng 04 năm 1975 lần thứ 42.

$
0
0

Lễ Tưởng niệm Ngày Quốc Hận 30 tháng 04 năm 1975 lần thứ 42.

San Diego: Chủ nhật ngày 30 tháng 04 năm 2017, đúng vào thời điểm này 42 năm về trước, cộng sản Bắc Việt đã xua quân cưỡng chiếm Miền Nam, đưa đến thảm họa hàng triệu Quân, Dân, Cán, Chính Việt Nam Cộng Hòa đã chết mất xác trong các trại tù hay trên con đường vượt biển, vượt biên để chạy trốn cộng sản.
Một Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận 30/04/1975 do Hiệp Hội Người Việt San Diego và Lực Lượng Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa San Diego phối hợp tổ chức thật long trọng vào lúc 05 giờ chiều chủ nhật ngày 30 tháng 04 năm 2017 đã được đồng hương tham dự đông đảo.
Chương trình bắt đầu với Nghi lễ chào Quốc Quân Kỳ Việt, Mỹ, Phút Mặc Niệm và Lễ Gác Cờ Rủ của Lực Lượng Chiến Sĩ VNCH San Diego cùng các phần mục tiếp diễn:                                                                 -         Đặt Vòng Hoa Tưởng Niệm: cho Quân, Dân, Cán, Chính miền Nam đã tuẩn tiết, hy sinh trong biến cố đau thương 30 tháng 04 năm 1975.
-         Ý nghĩa Ngày Quốc Hận: Diễn văn của ông Phạm Thanh Liêm, Chủ Tịch Hiệp Hội Người Việt San Diego.
-         Tuyên Cáo Ngày Quốc Hận: của Hiệp Hội Người Việt San Diego và Lực Lượng Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa San Diego do ông Lê Thi tuyên đọc.
-         Thuyết trình về đề tài “ Quốc Hận 1975 và 42 năm sau”: với Diễn giả Luật sư Đinh Thạch Bích.
-         Câu chuyện trong Tù: của một thanh niên vừa trở lại Hoa kỳ sau 17 năm ở Tù cộng sản.
-         Văn nghệ Quốc Hận: với ban văn nghệ Hiệp Hội và thân hữu đã đem đến cho đồng bào tham dự một Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận 30 tháng 04 thật trang trọng và đầy đủ ý nghĩa.
Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận 30 tháng 04 năm 1975 đã bế mạc vào lúc 09 giờ 30 tối cùng ngày.
Tường thuật & hình ảnh: Ban Truyền Thông HHNV San Diego.
image
image
Cô Ty Ty: Mc điều hành tổng quát chương trình.
image
Ông Trần Sơn: điều khiển Nghi Lễ chào Quốc Quân Kỳ Việt, Mỹ, Phút Mặc Niệm và Gác Cờ Rủ để Tang cho đồng đội.
image
image
Chào Quốc Kỳ Hoa Kỳ.
image
image              Chào Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa.
image
image
imagePhút Mặc Niệm.
image
image
imageChiến hữu Hoàng Văn Thành Gác Cờ Rủ để Tang cho đồng đội.
image
image
Tiển Quốc Quân Kỳ.
image
image
Ý nghĩa Ngày Quốc Hận qua Diễn văn của CT/HHNV/SD ông Phạm Thanh Liêm.
image
CT/HHNV/SD ông Phạm Thanh Liêm & ĐD/LLCS/VNCH/SD ông Trần Sơn đặt Vòng Hoa Tưởng Niệm cho Quân, Dân, Cán, Chính VNCH đã tuẩn tiết, hy sinh trong biến cố đau thương, uất hận 30/4/1975.
image
Hợp ca " Chiến Sĩ Vô Danh " do các CQN trong Lực Lượng Chiến Sĩ VNCH San Diego trình bày.
image
Chiến hữu Lê Thi đọc Tuyên Cáo Ngày Quốc Hận.
image
image
Luật sư Đinh Thạch Bích thuyết trình về đề tài: " Quốc Hận 1975 và 42 năm sau ".
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
Ban Tiếp Tân.
image
Thắp Nến Tưởng Niệm cho quê hương VN sớm thoát khỏi hiểm họa cộng sản với những bản nhạc buồn do Ban Hợp Ca HHNV phụ họa.
image
image
image
image
image
image
image
image
Hợp ca " Lời Kinh Đêm ".
image
42 năm Ngày Quốc Hận thật khó quên trong lòng những người tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại.
image
image
Hình ảnh: Ngô Quang Đại
Ban Kỹ Thuật &Truyền Thông HHNV/SD       







__._,_.___

Posted by: son tran 

Adelaide, Úc Châu tưởng niệm 42 năm ngày 30/4

$
0
0
Adelaide, Úc Châu tưởng niệm 42 năm ngày 30/4

CTM Media

Cùng tác giả:

NAM ÚC (CTM Media) – Năm nay Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại tiểu bang Nam Úc đã tổ chức trọng thể Lễ Tưởng Niệm 42 năm Ngày Quốc Hận 30/4/1975. Lễ Tưởng Niệm kéo dài 2 ngày bao gồm cuộc tuyệt thực 42 giờ, từ 6 giờ chiều ngày Thứ Sáu 28/4 tới 12 giờ trưa Chủ Nhật 30/4, trong tâm niệm chia sẻ những nỗi khổ đau triền miên của đồng bào Việt Nam trong suốt 42 năm dài đằng đẵng đã qua.
Lễ Tưởng Niệm khởi đầu với phần tuyệt thực kéo dài từ 6pm đến 9pm chiều Thứ Sáu trước Quốc Hội Tiểu Bang.
Đoàn tuyệt thực sau đó di chuyển về Hội Trường Tự Do tại Trung Tâm Cộng Đồng tiếp tục chia sẻ tâm tình về ngày 30/4 kéo dài tới quá nửa đêm. Một số tuyệt thực viên ngủ qua đêm tại Cộng Đồng.
Sáng ngày hôm sau, Thứ Bảy 29/4, cuộc tuyệt thực tiếp tục trước Youth Hall trên đường Hanson Road, ngay giữa trung tâm sinh hoạt thương mại đông đảo người Việt, từ 10 giờ sáng tới 5 giờ chiều.
Sau đó đoàn tuyệt thực về trở lại Hội Trường Tự Do để sửa soạn cho một buổi tối sinh hoạt tâm tình và văn nghệ. Một số tuyệt thực viên sẽ ngủ qua đêm tại Hội Trường.
Sau buổi sinh hoạt tối nay 29/4, chương trình dự trù sẽ tiếp tục vào ngày mai, 30/4 vào buổi sáng với Lễ Truy Điệu các quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và các kháng chiến quân, những nhà đấu tranh dân chủ, các đồng bào đã hy sinh trên đường vượt biển vượt biên và hy sinh cho tự do dân chủ của đất nước.
Cuộc tuyệt thực sẽ chấm dứt vào lúc 12 giờ trưa ngày Chủ Nhật 30/4 với một bữa cơm thân mật do Cộng Đồng Nam Úc khoản đãi.
Sau đó, chương trình sẽ được tiếp tục với một buổi sinh hoạt hội thảo với đề tài là ngày 30/4.
Chúng tôi sẽ tiếp tục cập nhật.
__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

Lời trần tình- Tài liệu về Quân nhân Hải quân V.N.C.H.

$
0
0

Lời trần tình- Tài liệu về Quân nhân Hải quân V.N.C.H.

Điệp Mỹ Linh
Image result for Tài liệu về Quân nhân Hải quân V.N.C.H. lập
Tài liệu về Quân nhân Hải quân V.N.C.H. lập nhiều chiến công Trong Cuộc Chiến Giữa Chính Thể Quốc Gia và Cộng Sản Việt Nam, 1954-1975
LỜI TRẦN TÌNH
Kính thưa quý độc giả và đại gia đình Hải Quân,
Đầu năm 2016, ông Trúc Lâm Yên Tử thuộc Hội Sử Học Việt Nam và cũng là chủ nhân hai websites truclamyentuquansuvn.info, cho tôi hay rằng: Hội Sử Học Việt Nam cùng quý vị phụ trách hai websites này có ý định thực hiện một dự án quan trọng để ghi lại một cách tóm lược – nhưng đầy đủ – công trạng của tất cả quân, cán, chính trong cuộc chiến Quốc Cộng từ 1954 đến 1975; và xa hơn nữa là các bậc danh nhân trong lịch sử Việt Nam.
Nhận thấy, từ năm 1975 đến nay, phía Cộng Sản Việt Nam đã không ngượng ngùng khi “vẽ rắn thêm chân” trong khi phía Việt Nam Cộng Hòa chưa có được một đồ án nào tìm cách ghi lại một cách trung thực sự hy sinh vô bờ của quân, cán, chính miền Nam, tôi rất vui mừng và thán phục ý kiến của Hội Sử Học.
Ông Trúc Lâm Yên Tử nhờ tôi viết về những vị có nhiều công trạng trong quân chủng Hải Quân V.N.C.H.
Từ khi trở thành “Thủy Thủ không số quân của ông Hồ Quang Minh”, tôi tự hứa sẽ dùng ngòi bút của tôi để gửi đến độc giả những nét đẹp, nét lịch lãm và hào hùng có thật của Hải Quân.
Lời tự hứa của tôi được thể hiện qua những tác phẩm của tôi và rõ nét nhất là cuốn tài liệu lịch sử Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975, được xuất bản năm 1990.
Năm 2004, trong cuốn Hải Sử Tuyển Tập – trang 563 – cựu Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng đã viết: “Đã gần 25 năm, từ ngày chúng ta phải rời Quê Hương và bỏ tàu, chúng ta chưa có một tác phẩm nào kể lại một cách tổng thể về tổ chức, thi hành nhiệm vụ và sự bành trướng Hải Quân để bảo vệ Quê Hương {…} Có lẽ tác phẩm độc nhất có tính cách tổng quát nhưng chỉ giới hạn vào giai đoạn chót của Hải Quân là cuốn Hải Quân V.N.CH. Ra Khơi, 1975 của nhà văn Điệp Mỹ Linh”.
Khi thực hiện cuốn tài liệu lịch sử Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975, tôi gặp rất nhiều khó khăn và cản trở; vì computer chưa được thông dụng và tôi còn đi làm. Nhưng nhờ sự giúp đỡ cũng như sự hợp tác và khích lệ rất lớn lao của đại gia đình Hải Quân, tôi đã hoàn tất cuốn tài liệu một cách đầy đủ.
http://batkhuatnet/images/20-1.jpg
Từ khi nhận lời hợp tác với Hội Sử Học Việt Nam và ông Trúc Lâm Yên Tử để viết về quân nhân Hải Quân có nhiều chiến công, tôi cũng nhận được sự giúp đỡ vô điều kiện của quý vị Hải Quân. Nhưng trở ngại lớn của tôi là: Tôi không còn trẻ nữa mà quân nhân có công trạng trong Hải Quân thì quá nhiều; do đó, tạm thời, tôi xin được giới hạn chỉ viết về những vị được ân thưởng Bảo Quốc Huân Chương. Khi nào viết xong về những vị này, tôi sẽ tiếp tục viết về những vị được ân thưởng những huy chương cao quý khác.
Hiện nay tôi đã liên lạc được với khá nhiều vị, nhưng tôi biết còn rất nhiều vị ở xa hoặc đã qua đời, tôi không thể liên lạc. Vì vậy, nếu vị Hải Quân nào có Bảo Quốc Huân Chương – hoặc vị Hải Quân nào có mỹ ý muốn giúp tư liệu về những nhân vật mà tôi không thể liên lạc – khi đọc được “Lời Trần Tình” này, xin vui lòng liên lạc về diepmylinh@rocketmail.comhoặc Điệp Mỹ Linh – P.O. BOX 401 – ALIEF, TX. 77411 – U.S.A.
Tôi sẽ ghi chú cẩn thận tên họ của vị nào cung cấp tư liệu trong bài viết của tôi.
Sau khi hoàn tất tài liệu về những vị lập nhiều chiến công trong Hải Quân V.N.C.H., tôi sẽ chuyển đến Hội Sử Học Việt Nam, hai websites truclamyentu, quansuvn.info và tôi cũng sẽ nhờ phổ biến rộng rãi trên Internet. Phần tài liệu này cũng sẽ được thêm vào cuốn Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975, khi tái bản.
Phần biên khảo của tôi còn thiếu Tư Lệnh Trần Văn Phấn và Cố Hải Quân Trung Tá Trịnh Hòa Hiệp, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn Người Nhái – một trong những đơn vị không thể thiếu của Hải Quân V.N.C.H. Tôi hoàn toàn không có bất cứ chi tiết nào về hai vị này.
Xin quý vị Hải Quân hãy vì màu áo, vì truyền thống cao đẹp của Hải Quân V.N.C.H., giúp tôi ghi lại những giá trị vững chắc và có thật do chính quý vị cùng bạn hữu hoặc cấp chỉ huy hay là thuộc cấp của quý vị đã tạo nên trong cuộc chiến 1954-1975.
Sáu vị Phó Đề Đốc sau đây tôi phải dùng Wikipedia; nhưng Wikipedia thiếu rất nhiều chi tiết quan trọng.
  • Cựu Phó Đề Đốc Vũ Đình Đào.
  • Cố Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí.
  • Cố Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu.
  • Cố Phó Đề Đốc Nghiêm Văn Phú.
  • Cố Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy.
  • Cố Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng.
Xin vị Hải Quân nào là bạn cùng khóa hoặc đã từng phục vụ dưới sự chỉ huy của 6 vị Tướng Hải Quân này giúp tôi bất cứ chi tiết nào để tôi bổ túc cho hồ sơ của 6 vị Tướng này càng gần với sự chính xác càng tốt cho sử liệu.
Tôi nghĩ, Hải Quân V.N.C.H. không còn, nhưng, với truyền thống cao đẹp vẫn nồng nàn trong tâm, thì quý vị sẽ không nỡ lòng nào để những chiến công của chính quý vị, của cấp chỉ huy hoặc thuộc cấp của quý vị bị chìm vào quên lãng!
Tôi tha thiết kêu gọi sự giúp đỡ tích cực hơn nữa của quý vị Hải Quân; vì đây là cơ hội duy nhất để đại gia đình Hải Quân lưu lại những gì cụ thể và cần thiết trên những trang sử Việt Nam cận đại.
Trân trọng,
Điệp Mỹ Linh
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Đất nước hình thập tự quất vào lương tri ngay lành bằng sự dối trá, lạnh lùng vô cảm.

$
0
0
From:


30.04 - Ngày tang thương

30.04 - Ngày tang thương - Lm. Gioan Nam Phong, DCC



Đất nước hình thập tự

quất vào lương tri ngay lành bằng sự dối trá, lạnh lùng vô cảm.

Chúa Nhật, 30-04-2017 | 07:07:47
Đất nước này đang bị căng ra đóng đinh, chằng chịt những vết thương, nhưng liệu được bao người cảm thấy đau đớn? Và liệu dân tộc này có đón nhận được ánh sáng Phục Sinh?
Bản đồ VN
Kẻ dữ giết Chúa, họ đóng đinh Người trên thập giá. Chúa nghiêng đầu thương đau. Ngắm Chúa trên cao, chợt thấy hao hao hình chữ “S”! Bỗng giật mình: chẳng phải đất nước này cũng đang bị đóng đinh sao?
Cái “đầu” miền Bắc chẳng phải cũng đang đội một chiếc mão gai thật to, thật sắc nhọn là bọn giặc Tàu? Chúng làm cho đầu não ra như tê liệt. Chúng ngầm khuynh đảo, kiểm  soát mọi lĩnh vực của đất nước này, bởi có không ít kẻ quyền cao chức trọng đã quỳ gối quy phục chúng!
Cái đầu của mỗi con dân Việt Nam cũng bị tròng lên một thứ mão gai vô hình. Đó là nền giáo dục nhồi sọ, bị chính trị hoá, thiếu nhân bản, rỗng tuếch về chuyên môn và đi ngược với sự phát triển – một sự phát triển toàn diện về đời sống và nhân cách, chứ không phải một kiểu phát triển “theo định hướng”. Đó là thứ gọi là văn hoá nhưng đầy tính loại bỏ, đe nẹt, thanh trừng và bất lương. Sản phẩm của nền giáo dục và văn hoá ấy chính là những hành vi loạn luân, phi nhân tính, làm tan tác tổ ấm gia đình và rệu nát nền tảng xã hội. Sản phẩm ấy còn là kiểu hành xử côn đồ của nhân viên công quyền, nhân danh pháp luật; là “tiến sĩ giấy”; là tiếng kêu oan rền trời từ Bắc chí Nam; là sự khánh kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy tàn nhuệ khí dân tộc!
Hai tay Chúa giang rộng, tay phải đặt trên Tây Nguyên, tay trái đặt ra biển đảo. Máu tay phải tuôn trào như bùn đỏ Bô-xít, như dòng Mekong bị bức tử tức tưởi bởi hệ thống đập nước đầy hiểm ác. Máu tay trái nhuộm đỏ Biển Đông, bởi giờ đây cả biển, cả đảo đã tan tác vào tay giặc, ngư dân bị đánh, bị cướp, bị giết ngang nhiên giữa ban ngày!
Trái tim Chúa bị đâm thâu đau đớn, hay Miền Trung đang giãy chết đớn đau? Formosa như con quỷ dữ đang gầm thét, phun độc, giết chết biển, chết đất. Dân tình lầm than phẫn nộ. Nhưng than ôi! Cái được gọi là bộ máy chính quyền, là đầy tớ nhân dân, sao lại tiếp tay giặc đàn áp dân, không cho dân lên tiếng đòi công lý? Vậy thì kẻ thủ ác, kẻ hại dân, chống lại nhân dân là ai?
Đôi chân Chúa bị kéo căng ra, đóng đinh vào Đồng Bằng Sông Cửu Long. Nhát búa đớn đau, máu tuôn ra mặn đắng, đất nứt nẻ khô cằn. Lúa chết trắng ruộng, sông cạn cá tôm! Bởi bọn “giặc lạ” đã mưu đồ từ lâu, chặn đứng dòng Mekong để bóp chết miền Tây Nam Bộ, miền đất trù phú cá tôm và cũng là vựa lúa của Việt Nam. Chưa hết, Sông Tiền giờ đây còn bị cắn xé, tàn phá bởi chất độc phun ra từ con ác thú Lee & Man – nhà máy giấy khổng lồ của Trung Quốc.
Đất nước này còn nơi đâu không hằn vết roi đòn của quân dữ? Chúng quất vào bữa ăn bằng thực phẩm độc hại, quất vào giấc ngủ những ám ảnh của bệnh tật, tai nạn, giết chóc, cướp bóc…, quất vào đất, vào sông ngòi biển cả bằng chất thải độc hại, quất vào lương tri ngay lành bằng sự dối trá, lạnh lùng vô cảm. Chúng cướp đi những ước mơ tử tế, cướp cả ý thức muốn làm người lương thiện!
Đất nước này đã được “giải phóng” hay vẫn chìm trong nhiều ách nô lệ? Dân tộc này đã được tự do hay vẫn bị xiềng xích, gông cùm?
Giả như dân tộc này còn biết đau trước ngọn roi của kẻ ác thì còn hi vọng. Nghĩa là còn tỉnh tảo, còn cảm thức. Chỉ e rơi vào cảnh khốn nạn như con ếch ngồi trong nồi nước đang ấm dần lên mà chẳng hay, đến khi nhận ra thì đã bị luộc chín! Nhiều kẻ ngồi trên cao vẫn hung tợn, quay quắt tìm mưu ma chước quỷ để vơ vét, hút máu đồng bào. Nhiều kẻ ở giữa thì bợ trên, đạp dưới. Những kẻ tận cùng thì bị ghì đầu sát đất, tai bị bịt, mắt bị che, nghe thứ được cho nghe và nói thứ được phép nói. Cho dù ngồi đâu đứng đâu, khi nước mất nhà tan thì tất cả đều bị tận diệt!
Chúa đã quỵ ngã trước sức nặng của thập giá, và Người đã đứng lên. Dân tộc, đất nước, quê hương này cũng đang bị đốn ngã sóng soài, liệu có đứng lên được nếu cứ mãi ngây thơ, ngờ nghệch?
Chúa đã chiến thắng và Người đã phục sinh, nhưng những dấu đinh, những thương tích vẫn in hằn – Toma đã thấy và ông đã tin. Còn những dấu đinh, những thương tích trên đất nước này liệu có cứu được con người trở lại? Liệu Hội Thánh Chúa – hiện diện nơi mỗi Ki-tô hữu – đã tận tuỵ hết sức mình “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” để lan truyền ánh sáng Phục Sinh? Ánh sáng ấy là sự thật, là công lý, yêu thương. Hội Thánh đã dám mở toang cánh cửa để bước ra ngoài hay vẫn sợ hãi đóng kín cửa lại?
Xin Chúa ban ơn để Máu của Người đổ ra sẽ không vô hiệu trên đất nước này.
                                                                                                                                                                                                      Tịnh Khê



Virus-free. www.avg.com

__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

Bài phát biểu của ông Triệu Huỳnh Võ Trong buổi Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận 30-4-2017

$
0
0
From: vo trieu <vohuynhtrieu@yahoo.com>
Sent: Sunday, April 30, 2017 5:36 PM
To: DiemBuon DTDB
Subject: Bai phat bieu trong Ngày QH 30-4-2017





Bài phát biểu của ông Triệu Huỳnh Võ

Trong buổi Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận 30-4-2017
tại Trung Tâm Sinh Họat Cộng Đồng ở Sacramento do Liên Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH và Cộng Đồng Người Mỹ Gốc Việt Sacramento tổ chức.


Thưa quí vị quan khách, quí chiến hữu và quí đồng hương,
Thấm thóat một năm nữa đã trôi qua.
Một năm nữa đã trôi qua đánh dấu 42 năm ngày đảng CSVN,với sự yểm trợ của Cộng sản Nga,Tàu,đã xua quân đánh chiếm Miền Nam Việt Nam.Một năm nữa đã trôi qua cũng đánh dấu sự vùng lên ngày càng lớn mạnh của phong trào đấu tranh trong nước đòi đảng CSVN phải trả lại các quyền Tự Do,Dân Chủ cho người dân.
Vào ngày nầy,ngày 30 tháng Tư năm 2017,người Việt tỵ nạn cộng sản khắp nơi trên thế giới đều tổ chức ‘Ngày Tưởng Niệm Ngày 30 tháng 4.”Tưởng Niệm Ngày 30 tháng Tư để ôn lại và hòan chỉnh những phương sách vận động,đấu tranh quốc ngọai nhằm tích cực ủng hộ những cuộc đấu tranh của đồng bào trong nước hầu sớm chấm dứt sự tòan trị khắc nghiệt và bạo tàn của đảng CSVN trên tòan lảnh thổ VN thân yêu.

Trước đây, vào ngày 30-4-1992, ngòai việc tổ chức Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận đầu tiên tại Thủ phủ , Hội CTCTVN Sacramento còn thực hiện Một Đêm Canh Thức trong khuôn viên dinh Thống đốc bên cạnh Tượng đài Cựu chiến binh Mỹ hy sinh tại VN.Đêm Canh Thức năm đó đã được sự hưởng ứng tham dự nhiệt tình của tòan thể hội viên, của chiến hữu các hội đòan bạn và đông đảo đồng hương. Sự hưởng ứng và tham dự nhiệt tình đó của tất cả quí vị đã tiếp tục được giữ nguyên vẹn xuyên suốt 25 năm , qua sự có mặt của tất cà quí vị trong buổi Lễ Tưởng Niệm Ngày hôm nay, 30-4-2017,cũng như qua việc quí vị vừa thực hiện Cuộc Tuần hành trong khuôn viên của TTSHCĐ nầy.Điều đó đã minh chứng một sự đồng hành của quí vị với các cuộc Xuống đường của đồng bào ở trong nước, vào các Ngày Chúa Nhật liên tục, theo lời kêu gọi mới đây của Linh mục Nguyễn văn Lý và Thượng tọa Thích thiện Minh kêu gọi Tập họp Quốc dân Việt phế truất Cộng sản.

Là ngưởi Việt quốc gia tỵ nạn cộng sản,làm sao chúng ta không uất hận khi nghe Linh mục Nguyễn văn Lý ,trong cuôc Phỏng vấn của Kim Nhung show trên đài SBTN ngày 16/3/2017, đã lên tiếng báo động là VN bây giờ đã bị Tàu cộng cai trị vì Bộ Chính Trị của CSVN đang bị chỉ huy bởi Bộ Chính Trị của Tàu cộng rồi. Chúng ta càng không thể không đau đớn khi nhìn một bản đồ VN, được đưa lên mạng ,với nhiều chấm đỏ như hình da beo nói lên sự có mặt của các doanh nghiệp Tàu cộng tại các vùng trọng yếu từ Bắc chí Nam,và có một số nơi người Việt còn không được phép lai vảng.
Nhìn lại, sau 42 năm độc quyền cai trị đất nước,đảng CSVN đã:
- để lộ bộ mặt bán nước hại dân,xem Tàu cộng xâm lược là bạn còn đồng bào Việt nam là kẻ thù, được thể hiện cụ thề nhất qua hình ảnh một em gái, trên mạng internet, tay cầm biểu ngữ có ghi câu viết tay: “ Ở Việt Nam hiện nay tội bị phạt tù nặng nhất là: TỘI YÊU NƯỚC”.

-đã làm cho đất nước bị tụt hậu về mọi mặt kinh tế,giáo dục và xã hội. Chỉ riêng về kinh tế,đồng tiền VN đứng hạng thứ 9 trong 10 thứ tiền tệ có mãi lực thấp nhất thế giới;còn thu nhập đầu người ở VN là 50 triệu đồng(chỉ vào khỏang 2000 tới 2200 đô la trong một năm), tức thấp nhất so với các nước láng giềng (Miên gấp 3 lần,Lào gấp 4 lần,Phi luật tân gấp 5 lần và Singapore gấp 30 lần) “Rừng vàng biển bạc “của VN cũng đã không còn,bởi lẽ “rừng vàng” đã bị phá sạch khi màu xanh của rừng đã biến mất trong bản đồ nước VN được họ công bố trong năm 2014,và “biển bạc” cũng đã bị “đường lưỡi bò của Tàu cộng” thu tóm. Chắc quí vị còn nhớ,vào tháng 4/2016 vừa qua,nhà máy Formosa ở Vũng Án xả chất độc ra vùng biển chạy dài từ Nghệ An,Hà Tỉnh, vào tới Quảng Bình, Quảng Trị và Thửa Thiên gây ô nhiểm môi sinh khiến cá chết hàng lọat và đã cắt đứt nguồn sống của cư dân và ngư dân trong tòan vùng.

Cũng phát xuất từ sự kiện Formosa, tòan quốc đã rầm rộ nổi lên các cuộc biểu tình và xuống đường ôn hòa đòi bồi thường thiệt hại,đòi biển sạch,cá sạch và một chính quyền sạch. Những đòi hỏi chính đáng đó đã được bạo quyền Cộng sản Hà nội đáp ứng bằng sự thẳng tay đàn áp dã man.Trong thành phần quần chúng phản kháng và khiếu kiện có cả quí vị linh mục, tại các tỉnh Quảng Bình, Quảng Tri,nhất là tại Hà Tỉnh và Nghệ An.Song song với các cuộc trấn áp nầy,họ còn thực hiện nhiều cuộc bắt bớ,cô lập, sách nhiểu những người bị liệt vào thành phần đối kháng,thường lên tiếng đấu tranh đòi tự do,nhân quyền và dân chủ ở trong nước.Mới đây, họ vừa bắt thêm chị Trần thị Nga, Nguyễn văn Hóa và Nguyễn văn Hòai.Đây chính là những bằng chứng hùng hồn nhất tố cáo cụ thể sự vi phạm nhân quyền trắng trợn và trầm trọng nhất của bạo quyền Cộng sản trước công luận trong và ngòai nước.

Cường độ áp bức của nhà cấm quyền CS càng khốc liệt bao nhiêu thì quần chúng trong nước và công luận thế giới càng phản ứng mạnh mẽ bấy nhiêu.

Ở quốc nội,Ban Hổ Trợ Nạn Nhân Thảm Họa Môi Trường đã công bố Thỉnh nguyện thư gởi LHQ,Liên Minh Châu Âu,Chính phủ Đài Loan và các Tổ chức Nhân quyền nhằm đòi công lý cho nạn nhân Formosa.Chỉ trong hai tuần đã có hơn 88,000 người tham gia ký tên. Đức cha Nguyễn thái Hợp,Giám mục giáo phận Vinh là người đầu tiên ký vào thỉnh nguyện thư,với lời nhắn gởi “ Các con các cháu chúng ta sau nầy sẽ hỏi: vào thời điểm đất nước lâm nguy,Biển Đông bị ô nhiểm,ông bà cha mẹ đã làm gì để cứu biển cứu chúng con.” Tiếp đến, trong cuộc biểu tình ngày 19-3-2017 tại các giáo xứ Mảnh sơn,Cấm Trừơng và Song Ngọc thuộc Giáo phận Vinh,những người biểu tình đã đưa ra những thông điệp mạnh mẽ hơn như đòi “cướp lại quyền sống”,”cướp lại quyền làm người”,”cướp lại nhân quyền”.Sau đó,trong cuộc xuống đường cầu nguyện của giáo dân tại bải biển Hà Tỉnh đêm 6-4-2017,đánh dấu một năm sau thảm họa Formosa,đã có sự tham gia đông đảo các em học sinh.Các em học sinh chít khăn trắng quanh trán với dòng chữ “Formosa cút khỏi VN”.Các em cho biết phải tham dự buổi cầu nguyện nầy,vì nó gắn liền với tương lai của các em.Đặc biệt hơn nữa là Cờ vàng ba sọc đỏ đã xuất hiện trong

cuộc biểu tình chống Formosa ngày 9-4-2017 tại Kỳ Hà,Hà Tĩnh.Bà con ở Hà Tĩnh hôm đó đã mạnh dạn đòi lại Quyền Tự quyết,Quyền làm Chủ Đất Nước,Quyền Bảo quản và Chủ Quyền Môi Trường,Đất Đai.

Về phản ứng của công luận trên thế giới,các nước đã liên tiếp tổ chức những buổi lễ vinh danh các nhà tranh đấu cho dân quyền và nhân qưyền ở trong nước. Có thể xem đây là một phương cách nói lên phản kháng cụ thể nhất của các nước tự do đối với sự vi phạm thô bạo Nhân quyền của bạo quyền Hà Nội.Điển hình là blogger Mẹ Nấm Nguyễn ngọc Như Quỳnh được Bộ Ngọai giao Hoa Kỳ trao giải “Người phụ nữ can đảm thế giới”,Luật sư Nguyễn văn Đài được trao giải Nhân quyền của Liên Đòan Thẩm phán Đức. Càng nổi bật hơn nữa là việc Quốc hội Mỹ đã ban hành Đạo Luật Nhân Quyền Tòan Cầu, mang tên Đạo Luật Magnitsky,có mục đích chế tài những giới chức vi phạm nhân quyền hoặc tham nhũng bao gồm:việc cấm nhập cảnh;thân nhân của họ đang ở Mỹ có thể bị trục xuất;và tài sản ở Mỹ nếu có sẽ bị đóng băng vv. Cơ quan SOS đã lập được một hồ sơ gồm nhiều viên chức Cộng sản VN sẽ đệ nạp lên Quốc hội Mỹ

Hiện nay ở trong nước đang tiếp tục có những cuộc đấu tranh chống Formosa,chống việc hủy diệt môi trường sống ở các tỉnh miền Trung và ở đồng bằng sông Cữu Long của người dân Việt. Mới đây vào ngày 16-4-2017 bùng nổ cuộc đối đầu của 6000 nông dân chống lực lượng công an đến giải tỏa đất canh tác của họ ở xã Đồng Tâm,huyện Mỹ Đức Tỉnh Hà Tây.Đến ngày 19-4-2017 lại có một cuộc xuống đường qui mô ở An Giang,một Đồng Tâm thứ hai, đòi tự do tôn giáo của các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo.Chắc chắn,trong những ngày tới, trước thảm họa sắp bị diệt chũng,trước viễn ảnh đất nước sắp trở thành một Tây Tạng thứ hai,như lời cảnh báo của cha Nguyễn văn Lý,mọi người dân Việt ở trong nước,vào lúc nầy hơn lúc nào hết,không còn có sự lựa chọn nào khác ngòai việc phải có hành động dứt khóat và triệt để hơn nữa để chính mình dành lại sinh lộ cho đất nước và cho dân tộc.

Là ngưởi Việt quốc gia tỵ nạn cộng sản ở hải ngọai,chúng ta phải kiên trì giữ cho“ngọn lửa chống sự bạo tàn của đảng CSVN” luôn bùng cháy qua các cuộc biểu tình, các cuộc tuần hành,các buổi thấp nến cầu nguyện để góp phần hưởng ứng mạnh mẽ cho các cuộc đấu tranh đang diễn ra ở trong nước.Cuộc đấu tranh chung của tòan dân trong và ngòai nước chống bạo quyền cộng sản Việt Nam đang ở vào giai đọan quyết liệt nhất,người Việt hải ngọai chúng ta hãy đòan kết lại để bày tỏ quyết tâm sẳn sàng yễm trợ cho cuộc đấu tranh của đồng bào trong nước bằng mọi cách,mọi phương tiện có thể huy động được.

Trân trọng kinh chào quí vị.


TRIỆU HUỲNH VÕ

Đại Bàng Gãy Cánh Tháng Tư

$
0
0

04/30/2017

 
alt

Đại Bàng Gãy Cánh Tháng Tư

Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
(Để kính dâng anh hồn đồng đội tôi đã nằm xuống để bảo vệ Thủ đô Saigon)

Ngựa đang sải vó lưng đồi
Súng gươm bỏ lại cuộc chơi nửa chừng.
Một thời ngang dọc kiêu hùng
Tháng tư gảy súng đếm từng nổi đau…
Ta đứng bên nầy, trông núi sông
Một trời thương nhớ ở phương đông
Đường hoa theo dấu chân luân lạc
Một gánh giang san khóc hộ chồngMột ngày tan nát bao thân phận
Nửa kiếp lưu vong tối mặt mày
Cũng thử đưa cay bằng chiến trận
Ói toàn uất hận lúc xuôi tay
Bạn bè còn lại bao nhiêu đứa
Đứa còn, đứa mất chẳng ai hay
Chí lớn cùng đường, tài bỏ xó
Anh hùng bạt mạng, vợ con lo
Nhớ quê chửi nát mồ ma đỏ
Một nắm xương khô đẫm máu đào
Nhìn nhau bổng thấy quê hương củ
Nghìn trùng rực rở núi sông xưa
Vết đau ngày tháng còn mưng mủ
Giọt lệ bên đường mặc gió mưa
Ví thử xuân xanh còn rực lửa
Cũng đành dâng hiến trọn non sông
Và em, sẻ một đời tựa cửa
Nhìn qua lục địa để ngóng trông.

alt

Sau trận Khánh Dương, Ban Mê Thuột, Tiểu đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù về hậu cứ Nguyễn Huệ, Long Bình để tái bổ xung, và được tái trang bị 18 khẩu đại bác 105 ly kiểu củ M2A1 từ thời đệ nhị thế chiến, tôi được chỉ định thành lập lại pháo đội B2 với quân số gần 100 người trong đó khoảng 20 người từ pháo đội chỉ huy đưa sang, còn lại bổ xung toàn là lao công đào binh và quân phạm đủ gốc lính từ quân lao Gò Vấp đưa về.
Lệnh trên đưa ra phải huấn luyện tác xạ cấp tốc tại đơn vị và không bắn đạn thật, vì tình thế sôi động có thể hành quân bất cứ lúc nào, không có sĩ quan huấn luyện, một mình tôi làm tất cả mọi chuyện cho pháo đội. Một tuần sau, ngày 29 tháng 4 năm 1975, lệnh hành quân đưa ra, về Saigon bảo vệ thủ đô. Thông thường một pháo đội Dù đóng quân thì có một đại đội Dù tác chiến bảo vệ, lần này thì không, lệnh trên cho biết phải tự bảo vệ. Cho thấy tình hình quân số trừ bị của Nhảy Dù coi như cạn.
Từ Long Bình theo xa lộ Đại Hàn, pháo đội tôi chiếm đóng sân vận động Cộng Hòa ở đường Nguyễn Kim vào xế trưa, người quản nhiệm sân vận động ngơ ngác khi thấy pháo đội tôi kéo vào sân. Sau khi hướng bắn đã sẵn sàng một vòng cung về phía Sư Đoàn Nhảy Dù, Bộ Tổng Tham Mưu, và Dinh Độc Lập, tôi cho lệnh đóng cửa sân lại, người quản nhiệm năn nỉ cần phải ra vào làm nhiệm vụ nên xin giử chìa khóa, và tôi bằng lòng. Thượng sĩ Thọ, thường vụ pháo đội nói đùa với tôi: “Trung úy định tử thủ”. Tôi trả lời không vào câu hỏi: ” Tình thế lộn xộn, coi chừng địch trà trộn xin vào sân, nên phải đóng cửa, anh cho con cái lên hết trên khán đài, dàn súng cá nhân và lựu đạn sẳn sàng, còn các các khẩu thì trực tại chổ, sẳn sàng tác xạ.”

alt

Hơn 2,000 quả đạn pháo tôi cho tháo ra khỏi thùng và gắn đầu nổ. Lúc này tôi cũng hơi lo, phát pháo đầu tiên của pháo đội để bảo vệ Thủ đô sẻ do những pháo thủ trời gầm đất lỡ mới vào nghề như thế này bắn, thiệt đã. Ngoài các khẩu trưởng và ngắm viên là có kinh nghiệm còn lại toàn tay mơ, pháo đội tôi toàn là thứ dữ từ quân lao xá tội vào giờ chót đưa về, tôi cũng không có thì giờ để mà hỏi han, chỉ cho một số anh em mới về đi phép hai ngày với lời dặn dò nếu các anh cãm thấy có bổn phận của một người lính trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này thì về lại đơn vị đúng ngày giờ, nếu không thì đào ngủ luôn chứ về trể thì đừng trách. Đòn tâm lý có hiệu quả, không có một người nào trể phép, tôi mừng lắm, ít ra giờ chót tôi còn cả trăm tay súng sẳn sàng sống chết với mình. Họ có biết về Dù là đeo tử bài trước ngực hay không tôi không rỏ, chứ biết rỏ họ đã thấm kỷ luật của Nhảy Dù. Gần trưa ngoài cổng có một người xin vào, vị này là Trung úy Nam của Trường Quân Báo Cây Mai, ông dẫn đứa con trai là Trung sĩ nhất Liêng đi phép trể không dám về trình diện đơn vị nên nhờ bố dẫn vào, tôi bằng lòng cho Liêng về lại pháo đội làm khẩu trưởng khẩu 3 tức là khẩu chuẩn, đồng thời nhờ Trung Úy Nam giới thiệu và chở xe Honda đến một tiệm tạp hóa gần đó để mua chịu thực phẩm, vì một khi đụng lớn có thể không tiếp tế được. Người chủ tiệm bằng lòng và nói lúc nào cũng sẳn sàng giúp đở Nhảy Dù. Đến trưa thì có một pháo đội Biệt Động Quân Biên Phòng do một vị Thiếu Tá chỉ huy kéo vào xin đóng quân. Tôi gọi Tiểu đoàn tôi báo cho biết rồi mời vào. Tôi cũng xin lỗi vị chỉ huy này rồi nói thẳng, nếu có gì lộn xộn xin đừng chạy về hướng pháo đội tôi vì tôi sẻ trực xạ nếu Việt cộng đánh vào. Để tránh bị Việt cộng trà trộn, coi như hai vị trí pháo biệt lập, cũng không liên lạc hàng ngang bằng tần số truyền tin.
Đến lúc này thì sân Cộng Hòa đã trở thành một địa điểm tìm đơn vị bị thất lạc. Hàng ngàn nếu không nói là hàng mấy ngàn binh lính, sĩ quan của nhiều quân binh chủng mà nhiều nhất là lính Biệt Khu Thủ Đô bị lạc đơn vị nghe tin Nhảy Dù về sân Cộng Hòa nên họ tự động tìm đến. Họ đến tìm đơn vị không thấy rồi lại đi, không hiểu sao họ biết có chúng tôi ở đây mà tìm đến, có người còn súng, có người không, đa số là tay không lặng lẽ đi ngang pháo đội tôi nhìn vào, còn các pháo thủ của tôi thì súng cá nhân đã lên đạn đề phòng Việt cộng giả dạng đánh úp. Lúc này mà tôi yêu cầu những anh em còn súng và thất lạc đơn vị này hảy ở lại bảo vệ cho chúng tôi bắn, chắc chắn họ sẻ bằng lòng, nhưng tình thế hết sức phức tạp hiện nay nên không tiện yêu cầu điều này. Đến xế trưa, một chiếc trực thăng UH1B bị lạc đơn vị đáp xuống giửa sân hỏi han tin tức rồi lại bay lên ( Sau này đi tù chung gặp mặt kể lại mới biết tên là Đại úy Trần Văn Phước ở gần nhà chúng tôi). Lúc này trên bầu trời bổng có nhiều chiếc trực thăng khác bay từ biển vào hướng tòa đại sứ Hoa Kỳ rồi lại bay ra, tôi biết họ đang di tản, bỏ của chạy lấy người.
Đến tối tôi cho đóng cửa sân lại rồi leo lên khán đài chính nhìn về phía Saigon, lòng buồn vô hạn. Tôi sinh ra và lớn lên giửa lòng Thủ đô, cuộc đời tôi gắn liền với Saigon, từng hàng cây góc phố, từng con đường nhỏ thân quen tiếng gọi mì ban đêm, con đường Lê Thánh Tôn ngập lá me bay buổi sáng vẫn còn đây, dòng sông tuổi thơ của tôi trôi thật êm đềm trên hè phố sau giờ tan học vẫn còn đó, gần hơn chút nửa là ngôi trường trung học Chu Văn An thân yêu, nơi tuổi trẻ tôi ươm biết bao nhiêu mộng mơ, rốt cục cũng chìm vào cơn lốc chiến tranh. Saigon máu thịt quê hương tôi đang hấp hối. Saigon của tôi đang bị bức tử. Giờ này tôi không còn nghe tiếng đại bác ru đêm, tất cả các ngõ vào Saigon đã bị phong kín, cơn hấp hối này sẽ có tôi tham dự như một chứng nhân nếu còn sống sau chinh chiến, hay sẽ nằm xuống tức tưởi nghẹn ngào. Dòng suy nghỉ miên man đưa tôi trở về với gia đình, hai đứa con nhỏ và Thụy Trang yêu dấu của tôi đang ở cách đây chỉ khoảng mười phút xe, em giờ này chắc đang lo sợ và có thao thức như anh không, chắc em cũng hiểu tại sao đến giờ phút này anh vẫn còn cầm súng, con người ta ai cũng có số phận, và những người lính quốc gia cầm súng đang bảo vệ Thủ đô đã chọn cho mình một số phận, hiên ngang đi nốt con đường khổ nạn của dân tộc, nếu anh có bề gì thì ráng nuôi con, sau này bảo bố nó là lính Nhảy Dù, chết để bảo vệ thủ đô Saigon.

alt

Những tràng súng lẻ tẻ từ các nơi dội về, tôi leo xuống khán đài trở về đài tác xạ, giở xấp bản đồ miền Tây ra nhìn không biết bao nhiêu lần, cả Quân khu 4 vẫn còn nguyên, cùng lắm là Tiểu đoàn tôi sẻ rút về đây. Nhưng chuyện này đã không xảy ra, quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử. Có nhiều điều đã báo trước sự phản bội của Hoa Kỳ, khi Kissinger thả những quả bóng bàn ngoại giao lăn lốc cốc tại Bắc Kinh năm 1971, sửa soạn cho Tổng Thống Nixon bay qua Thượng Hải ký thông cáo chung bình thường hoá ngoại giao giửa Hoa Kỳ và Trung cộng thì mọi chuyện đã an bài, cộng sản xưa nay ký thông cáo chung bao giờ cũng phải có điều kiện, phải có món quà ra mắt, đó là lý do Hoàng Sa của Việt Nam lọt vào tay của Trung cộng ngày 19 tháng 1 năm 1974, trong khi hải quân Hoa Kỳ nằm bất động tại biển Đông, mặc dù có lời cầu cứu từ hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó, chúng tôi biết miền nam Việt Nam sẽ bị bỏ rơi, và Saigon không thể mất trừ khi có phép lạ. Anh em Nhảy Dù chúng tôi đều biết sẽ có ngày về bảo vệ Thủ đô và đánh một trận cuối đời thật oanh liệt, có chết cũng cam lòng, nhưng không bao giờ dự trù bị buông súng tại đây, và ngày đó hôm nay, đã đến..
Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều tiếng nổ lớn như là hoả tiển 122 ly về hướng phi trường Tân Sơn Nhất, bầu trời bổng nhiên thấp xuống thật u ám như sắp để tang cho một chế độ, những người lính lạc đơn vị lại kéo về sân Cộng Hòa rồi lại lủi thủi ra đi, những giờ phút cuối đời lính, họ như những con đại bàng bị tiển thương, đang cố gắng vỗ đôi cánh gẩy lần chót tìm về cái tổ ấm quân đội khét mùi thuốc súng, vì quân đội là ngôi nhà thứ hai của họ, ở đó họ mới có thể cầm súng để bảo vệ tổ quốc, họ cũng chính là tôi, là lính. Gần 10 giờ sáng, những tràng đại bác đầu tiên của Pháo Đội A và Pháo đội B của Tiểu đoàn tôi ở Trường đua Phú Thọ bắt đầu bắn, điện văn xin tác xạ từ các nơi gọi về Tiểu đoàn tới tấp. Các đơn vị của Lữ đoàn 4 Dù, của Biệt Động Quân đang đụng địch, 6 khẩu đại bác 105 ly của Pháo đội Biệt Động Quân nằm kế bên cũng đã tác xạ, khói bay ngược về phía chúng tôi. Tôi cho cả pháo đội quay nòng về hướng bắn sẳn sàng tác xạ và khẩu chuẩn đặt giửa cột gôn nạp một quả đạn khói, một lúc sau Thiếu Tá Nguyễn Kim Việt, Trưởng ban 3 cho điểm tác xạ bắn theo yêu cầu. Lúc này đạn lớn đạn nhỏ nổ ran về phía Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, hướng Bà Điểm và nhiều nhất là khu Ngả Ba Hàng Xanh, còn Dinh Độc Lập vẫn yên tĩnh. Những chiếc trực thăng Mỹ từ đệ thất hạm đội vẫn còn tiếp tục bay về hướng Toà đại sứ cùng với những chiếc Cobra bay bảo vệ nhưng không nghe tiếng bắn từ phi cơ.

alt

Mặc dầu tôi chưa bắn, nhưng Tiểu đoàn bổng ra lệnh “check fire” (ngưng bắn). Một lúc sau, tôi gọi về Tiểu đoàn nói bằng bạch văn “Hướng bắn của tôi đâu có gần mấy con chuồn chuồn, tôi thấy rỏ bằng mắt thường, bảo đảm bắn không rớt tụi nó đâu, đích thân cho tác xạ đi”. Thiếu Tá Việt bảo “Đợi”. Tôi buông ống liên hợp xuống, ngao ngán. Đến giờ phút này, chính phủ hai ngày lộ mặt phản quốc, sợ pháo binh Nhảy Dù bắn rơi máy bay Mỹ nên ra lệnh check fire, tiện thể là check fire luôn không cho bắn vào Việt cộng đang đánh vào các đơn vị phòng thủ Saigon. Tôi nhìn vào xạ bảng, những điểm cận phòng mà tôi đã chấm chung quanh Dinh Độc Lập, đã làm yếu tố tác xạ sẳn sàng như đang nhảy múa trước mắt tôi. Tôi ra lệnh cho 5 khẩu còn lại nạp đạn nổ mạnh và chờ đợi, đồng đội tôi đang ngả xuống oanh liệt để bảo vệ thủ đô, còn chúng tôi thì bị khóa họng, không yễm trợ cho họ được, giống hệt như trận Charlie năm tháng 4/1972. Đợi một lúc nữa, tôi bước ra đài tác xạ tiến về pháo đội, các khẩu trưởng hỏi nạp đạn lâu quá sao chưa bắn vậy Trung úy, tôi chỉ tay lên trời chỉ mấy chiếc trực thăng nói tại tụi nó đó.
Vừa lúc đó Hạ sĩ nhất Thạch truyền tin chạy ra gọi tôi: “Trung Úy, ông Minh đầu hàng rồi”. Tôi vội chạy vào đài tác xạ, qua radio, tiếng Tổng Thống hai ngày, Dương Văn Minh kêu gọi buông súng như một nhát dao đâm vào tim mọi người. Tôi gọi máy về Tiểu đoàn hỏi có bắn tiếp không, hay tan hàng, hoặc bàn giao? Chừng nào có lệnh trực tiếp từ tiểu đoàn tôi mới thi hành chứ không hạ nòng đâu. Thiếu Tá Việt bảo đợi đấy. Độ 5 phút sau, tôi bước ra cửa đài tác xạ nhìn ra ngoài, các quân nhân đơn vị bạn trong sân Cộng Hòa tự động tan hàng, sáu khẩu đại bác của Biệt Động Quân vẫn còn cất cao nòng, nhưng toàn thể đã lục tục rời vị trí, những người lính anh dũng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa hai tay không còn vũ khí đi ngang qua chúng tôi hết sức buồn bả. Những con đại bàng một thời oanh liệt nam chinh bắc chiến đã thật sự gảy cánh tháng tư, phát súng phát ra không phải từ Hà Nội mà từ Washington DC đã bức tử cả một quân đội anh hùng. Hai mươi mốt năm nay, Việt cộng đâu có làm gì được chúng tôi, chỉ một phản bội của đồng minh thôi đã làm tan nát cả một quốc gia. Từ năm mùa hè đỏ lửa 1972 đến nay, tại Bình Long, Kontum, Trị Thiên, một mình quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng chống lại cả một khối cộng sản tế hung hản, đánh tan tành bọn chúng, không anh hùng sao được.

alt

Lúc này, tại đây, chỉ còn pháo đội tôi, những người lính của giờ thứ 25 của cuộc chiến vẫn không chịu rời đơn vị, trừ hai người xin phép về thăm gia đình rồi kẹt luôn, còn thì hiện diện đầy đủ, hai hôm nay, họ chỉ cần bước ra khỏi sân vận động là về với gia đình, và ngay bây giờ họ cũng đã có quyền này, tại sao lại còn đứng đây? Họ là Nhảy Dù, cũng như tôi, họ đang đợi lệnh. Không ai có thể ra lệnh cho tôi buông súng trừ cấp chỉ huy trực tiếp. Ngay lúc đó, Thiếu Tá Tiểu đoàn phó, Đỗ Tiến Hóa, chạy xe Jeep đến ra lệnh cho tôi tan hàng. Tôi trở vào đài tác xạ, chấm điểm cho pháo đội quay nòng về trại Hoàng Hoa Thám để chào tạm biệt, rồi gọi Liêng vào ra lệnh :” Anh cho tất cả pháo đội, quần áo chĩnh tề, ba lô xếp thẳng hàng như ở quân trường, khi tôi ra, bồng súng chào trình diện quân số, đợi lệnh”.
Khi tôi ra trước hàng quân, pháo đội đã sẳn sàng tư thế chào kính, 6 khẩu đại bác vẫn giương cao nòng, những người lính bồng súng chào thật nghiêm trang, nét mặt họ không điểm một chút hốt hoảng hay lo sợ, họ tuân lệnh cấp chỉ huy một cách tuyệt đối. Tôi nhìn anh em và tiếc nếu có lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ lúc này, tôi đã cho cử hành lễ chào quốc kỳ ngay lập tức. Tôi cắn chặt đôi hàm răng để khỏi bật ra tiếng khóc vì trong lòng hết sức thương cảm, những người lính của tôi, có người mới về đơn vị chưa đầy hai tuần, vẫn tuân lệnh cấp chỉ huy dầu cho đứng trước hoàn cảnh tuyệt vọng như thế này. Tôi cho anh em nghỉ và nói: ” Tôi thi hành lệnh cấp trên cho pháo đội tan hàng, tôi biết việc này sẻ làm cho anh em rất đau lòng, nhưng là quân đội chúng ta phải thi hành lệnh, sau này chắc chắn là anh em sẻ gặp rất nhiều khó khăn, là chiến sĩ Nhảy Dù, anh em hảy noi theo truyền thống binh chủng, cố gắng mà sống”. Sau đó tôi cho pháo đội hạ nòng đại bác xuống và tháo đạn ra, súng cá nhân thì xếp thẳng hàng trên ba lô như thể đang nghỉ ngơi sau những giờ huấn luyện tác xạ. Các khẩu trưởng hỏi tôi có dùng lựu đạn lân tinh phá nòng đại bác hay không, tôi lắc đầu. Thạch lại hỏi tôi còn đài tác xạ thì sao, tôi cũng lắc đầu nói để nguyên.
Pháo đội tôi đâu có đầu hàng hay bị tràn ngập, bị địch tràn ngập mới phải phá súng, phá đài tác xạ, chúng tôi đã chiến đấu và đang giờ nghỉ mà, pháo đội tôi chỉ tạm nghỉ cuộc chơi. Lính quốc gia không bao giờ đầu hàng cộng sản, họ chỉ bị bức tử phải buông súng và tạm nghỉ cuộc chơi.

alt

Từng anh em binh sĩ hạ sĩ quan chào từ giả tôi, một đệ tử ruột đòi đi theo tôi trở về nhà, tôi không cho và nói đi theo tôi rất nguy hiểm. Trong khoảng khắc, sân Cộng Hòa không còn một bóng người, chỉ còn mình tôi trở vào nhà viên quản thủ sân xin một bộ đồ civil, vào đài tác xạ thay đồ trận, xong, tôi trở ra vị trí đứng nghiêm chào. Những khẩu đại bác gióng thẳng hàng bên cạnh súng cá nhân M16 và quân trang của đơn vị tôi còn đó như bật lên một sức sống mãnh liệt, một phần đời tôi ở trong đó đang thức dậy nổi căm phẩn, quê hương tôi rồi đây phải gánh chịu nổi đau mất nước về tay cộng sản khát máu, niềm uất hận này không bao giờ tan. Tôi buồn bả quay gót trở về nhà, không dám quay lại nhìn pháo đội một lần chót, vì nhìn nữa tôi sẻ khóc. Anh em quân đội chúng tôi đã cố gắng làm tròn bổn phận của mình trong giai đoạn đau thương của đất nước, nay đành bó tay, nhưng là lính không thể khóc vào lúc này, vì tôi còn phải cố gắng để sống, để viết sau này, và nhớ đó, trong bộ đồ dân sự, tôi vẫn còn là một người lính nguyên thủy.
Ba mươi chín năm qua, mỗi năm đến ngày này, nước mắt của người lính vẫn lưng tròng , không phải giọt nước mắt của những con đại bàng gảy cánh tháng tư, vì những người lính quốc gia đã tận lực làm tròn bổn phận đối với tổ quốc, được toàn dân ngưỡng mộ, và không có việc gì phải hối hận phải khóc vì không giữ được nước, vì cuộc chiến này là do quốc tế cộng sản và bàn tay lông lá đạo diễn, dân tộc ta chỉ là con cờ trên một bàn cờ đã xếp sẳn nước đi. Những giọt nước mắt của người lính quốc gia rơi xuống để khóc thương cho đất nước từ nay thống khổ dưới gông cùm cộng sản, chứ không phải than khóc cho số phận của mình, vì một khi vào quân đội dâng hiến đời mình cho tổ quốc, là chấp nhận mọi hy sinh mất mát cho bản thân mình, do đó mới bảo vệ được miền nam tự do cho đến ngày bị bức tử.
Cộng sản Bắc Việt được quốc tế dàn xếp để Dương Văn Minh ra lệnh buông súng ngày 30/4/1975, chứ đâu có tài cán gì chiếm được miền nam, 21 năm nhận lệnh của cộng sản quốc tế xâm lược miền nam, lính cộng sản chết gấp chục lần so với lính cộng hòa, còn tù binh bị bắt gấp 6 lần. Nếu tiếp tục cuộc chiến thì tất cả thanh niên miền bắc sẽ chết hết, sẽ đời đời “sinh Bắc tử Nam”. Năm 1972, sau những đợt Mỹ không kích miền bắc thật ác liệt, hồ sơ giải mật cho thấy Hà Nội đã gửi điện văn đầu hàng, nhưng Mỹ lờ đi vì nhu cầu giải quyết chiến tranh lạnh toàn cục, Mỹ bắt tay với Trung cộng để ly gián Liên Xô, và đã thành công, cộng sản quốc tế bị tan rã sau khi Nga Sô sụp đổ năm 1989 và khối cộng sản Đông Âu cũng tan tành theo sau đó.
Nếu năm 1972 Mỹ chấp nhận cộng sản Bắc Việt đầu hàng, Mỹ tất phải gánh vác cuộc chiến trầm trọng hơn nữa vì Nga Tàu sẽ đoàn kết lại, viện trợ mạnh hơn nữa để thúc đẩy cộng sản Bắc Việt tiếp tục cuộc chiến sau đó, và chiến tranh lạnh sẽ tiếp tục. Trung cộng biết được nước cờ của Mỹ và ngăn cãn Hà Nội không được chiếm Saigon, nhưng Hà Nội ngả theo Nga quyết đánh đến cùng, Mỹ phụ họa Hà Nội bằng cách ngưng viện trợ cho Saigon, làm Tổng Thống Thiệu trúng kế phải bỏ miền Trung, Mỹ có lý do rõ ràng đổ tội rằng quân đội cộng hòa không chịu chiến đấu, và kết quả đúng như bàn cờ Mỹ đả đi. Miền nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản và khối cộng sản quốc tế bị tan rả sau đó. Đồng bào cả nước ta bị bưng bít nên không nhìn thấy rỏ điều này.

alt

Sau chiến tranh, Việt cộng đã trả thù đồng bào miền nam Việt Nam hết sức khốc liệt vì đã không theo chúng, hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi,
Việt cộng đã dìm cả một dân tộc vào nghèo nàn, lạc hậu, và mất tự do, gái thì đi làm mãi dâm, trai thì đi làm cu li khắp thế giới, cái tự xưng là đỉnh cao trí tuệ loài người đang ngồi tại Hà Nội đã hèn hạ bán đất dâng biển cho Tàu cộng, quỳ gối làm tôi mọi cho chúng, bảo gì cũng phải nghe, Tàu cộng bắt tàu đánh cá của ta đòi tiền chuộc, đảng bảo dân đóng tiền chuộc, còn tàu của thiên triều bị ta bắt, đảng vội vàng thả ra vô điều kiện, rõ ràng là “hèn với giặc, ác với dân”, câu này nay đã trở nên một thành ngữ, cuộc chiến vừa qua đã không mang lại chiến thắng cho ai, chỉ có dân tộc Việt Nam là thua.

Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập (TrẻĐẹpOnline)

LTS* Có bạn đọc trước đây hỏi chúng tôi rằng sau khi nghe ông Dương văn Minh đầu hàng, sao Pháo Binh Nhảy Dù không bắn nát Dinh Độc Lập là nơi xuất phát cái lệnh quái ác này đi. Xin được trả lời chung rằng, anh em Nhảy Dù rất phẩn uất khi được lệnh buông súng, vì anh em Nhảy Dù về Saigon tử thủ để bảo vệ thủ đô. Lúc đó, nếu có một đơn vị Nhảy Dù nào mà được lệnh đánh vào Dinh Độc Lập để bắt cái chính phủ chủ hàng này, và đương nhiên sẽ xin tác xạ vào đấy, chúng tôi sẽ không ngần ngại bắn ngay. Nhảy Dù chỉ tuân lệnh cấp chỉ huy trực tiếp, bảo nhảy vào lửa để cứu dân, chúng tôi sẽ nhảy vào, trong quá khứ chúng tôi đã làm, và không có lệnh thì không làm. Còn tác hại của pháo binh trong thành phố rất lớn, cho nên khi bắn phải có Tiền sát viên (Forward Observer) hay Sĩ quan liên lạc ( Liaison Officer) xin bắn và điều chỉnh cho trúng mục tiêu, và bắn đâu là trúng đó. Bắn bừa không có điều chỉnh, đạn dễ lạc vào nhà dân, thêm trọng tội.

alt

__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

"THÁNGTƯ ĐAU BUỒN" gồm hơn 200 bài viết, 100 thơ nhạc và nhiều hình ảnh video.

$
0
0


"THÁNGTƯ ĐAU BUỒN" gồm hơn 200 bài viết, 100 thơ nhạc và nhiều hình ảnh video.




Tháng Tư Đau Buồn  

http://huongduongtxd.com/tolich_lichsu.jpg
VĂN
http://achauthoibaonews.com/blog/wp-content/uploads/2016/01/Click-23.gif
Lại Nhớ Một Ngày Buồn Tháng Tư...
Việt Cộng! Việt Cộng! - Lê Dinh

Tháng Tư Không Ánh Mặt Trời - Huy Tưởng
Ban Mê Thuột, Ngày Đầu Chiến Cuộc - Hổi Ký Nguyễn Định
Ban Mê Thuột Thất Thủ: Câu Chuyện Bên Lề - Nguyễn Định
Ban Mê Thuột Những Ngày Đầu trong tay Cộng Quân - Nguyễn Định
Bạn Tù Sơn La - Phan Lạc Phúc
A Lament for Viet Nam - Doan Van Toại --- Thổn Thức Cho Việtnam
Lon Guigoz, Hành Trang Của Người Tù Cải Tạo - Hoàng Chương
Những Chuyện Di Tản 1975 - Tiểu Tử
Những Mảng Máu Khô - Trần Mộng Tú
Đêm bên bờ Sông Ba - Trang Y Hạ
Hình Ảnh Chiến tranh Việt Nam nhìn lại
Viết cho Người Nằm Xuống - Linh Chi NTC
Anh Hùng của Những Ngày Tháng Tư
Viên Đạn Cuối Cùng - Trần Như Xuyên
Bí ẩn Ba Mươi Tháng Tư - Phạm Trần Hoàng Việt
Người Đi Non Nước Ở Lại - Chu Lynh
“Đảng Cộng sản Việt Nam, hãy cút đi !” - Phan văn Song
Nén Hương Cho Người Dưới Mộ - Người Lính Già Oregon
Thời Gian Quản Chế
Ngày Cuối Cùng của Cuộc Chiến
Tinh Khôn ở Đâu - Trần Đỗ Cung
Tâm Sự của một Cựu Nữ SV Trường Luật Saigon - Cao Đồng Phước
Chuyện Kể Bên Ly Rượu - Phan Xuân Sinh
Bài Học Đầu Tiên của Thời “Gác Kiếm” - Mai Thanh Truyết
Những Cánh Đại Bàng Sau Cơn Bão Lửa - Phạn Tín An Ninh
Ngày Quốc Hận là Ngày Quốc Hận -Trần Gia Phụng
Xem lại những đau thương ngày tàn cuộc chiến
Qua Cơn Mê - Phan Lạc Phúc
Ngày Tàn Cuộc Chiến I - Vĩnh Hiếu
Ngày Tàn Cuộc Chiến II - Vĩnh Hiếu
Ngày Tàn Cuộc Chiến III- Vĩnh Hiếu
Ngày Tàn Cuộc Chiến IVa- Vĩnh Hiếu
Ngày Tàn Cuộc Chiến IVb- Vĩnh Hiếu
Trận chiến cuối cùng của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu - Nguyễn Anh Dũng & Lâm A Sáng
Ngày Đó, Tháng Tư Năm 1975 - Tiểu Tử
Nhớ Nhà - BS Nguyễn Sơ Đông
Viết cho Các Con - BS Nguyễn Sơ Đông
Ngụm Cà Phê Tháng Tư - Trần Mộng Tú
Nói về 30 năm Cuộc Chiến Việt Nam - Lê Duy San
Khu Trục Bọc Thây - Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Nhớ về Bình Long Anh Dũng - Giao Chỉ San Jose
Ngày 30 Tháng Tư - Nguyễn Thụy Long
Cánh Dù Bay Xa - Nam Thảo
Người Lính Không Có Số Quân - Trần Như Xuyên
Hồn Tử Sĩ - Trần Mộng Tú
Ngày Buồn Nhất Đời Tôi - Huy Vũ
Tiếng Kêu Khẩn Thiết Từ Ngôi Đền Thiêng - Lê Tùng Châu
Người Lính Thủy Quân Lục Chiến bên bờ Bến Hải - Nguyễn Ngọc Ẩn
Điều Ong Tiếng Ve - Cả Ngố họ Trịnh
Số Phận Thương Phế Binh VNCH - Yoshigata Yushi
Em Cũng Muốn Tin Nhưng Không Thể - Lê Vũ Cát Đằng
Tình Saigon - Sa Mạc Hoa
Chuyện Thuở Giao Thời - Tiểu Tử
Ra Khơi - Nguyễn Quý Đại
Những Ngày Không Quên - Nguyễn Quý Đại
Quê Hương Việt Nam không còn là Chùm Khế Ngọt - Nguyễn Quý Đại
Tháng Tư Lại Về ... - Hướng Dương txđ
Tháng Ba Buồn Hiu - MX Tiểu Cần
30 Tháng Tư Ai Thắng Ai - Tôn Thất Bình
Cô Giáo Vân - Thùy Giang
Một Nỗi Niềm Riêng - Mai Hương Trần
Ý Nghĩa của Ngày Quốc Hận - Trần Thủy Tiên ---- Bản tiếng Anh
Viết cho Tháng Tư - Huỳnh Thục Vy
Ai Bán VNCH cho CS Hà Nội - Võ Long Triều
For Younger Generation: The Meaning of Black April 30
Buồn Vui Tháng Tư- Sơn Tùng
Vài Nhận Định về Ngày 30 Tháng Tư - Đông Hải NHC
Không Cho Phép Mình Quên - Nguyễn Khánh Vũ
Đốt Nén Hương Lòng - Nam Thảo
Những Kỷ Niệm Khó Quên - Ngọc Hạnh
Những Khoảnh Khắc Chưa Quên - Trang Y Hạ
Đá Nát Vàng Phai - Kim Thanh
Câu Hỏi Tháng Tư - Trần Trung Đạo
Hồi Tưởng Một Thời Đã Qua - HongNguyen/H.N.T
Bài Học Đắng Cay - Lữ Giang
Ngày Tàn của Cuộc Chiến - Lê Nguyên Bình
Thương Tiếc Không Nguôi - Tôn Thất Tuệ
Những Đồng Minh Anh Hùng - Ngô Kỷ
30-4-1975 Là Ngày Gì? - Lê Phi
Cảm Xúc Ngày 30 Tháng Tư của một Người Hà Nội - Nguyễn Văn Đại
Ký Ức Một Thanh Niên Hà Nội Về Ngày 30-4-1975 - Phạm Thắng Vũ
Tháng Tư Mùa Xuân và Những Tấm Màn - Trần Mộng Tú
Hậu Quả của Khủng Bố và Đức Hạnh của Hy Vọng - Uwe Siemon-Netto
Người Quân Cảnh Cuối Cùng Chết tại Bộ Tổng Tham Mưu
Quốc Hận 30/4 là gì? - tdhoanz
Trại Cải Tạo – Địa Ngục Trần Gian ở VN - BS Nguyễn Ý Đức
30 Tháng Tư, Vì Sao Chưa Thể Quên? - Song Chi
Sàigòn, 30 Tháng Tư, 1975 - Ngô Bắc dịch
30 Tháng Tư: Chuyện Bây Giờ Mới Kể
Đôi Mắt Phượng - Nguyễn Đạt Thịnh
Nụ Cười Người Tử Tội - Nguyễn Thiếu Nhẫn
Thằng Em Kết Nghiã - Trang Y Hạ
Hố Chôn Người Ám Ảnh - Trần Đức Thạch
Danh Mà Chi, Lợi mà Chi - Nhạc Sĩ Lê Dinh
Danh Sách Các Sĩ Quan & Quân Nhân Tuẩn Tiết --- (2)
Tù Cải Tạo: Tội Ác Chống Nhân Lọai của CSVN - Đỗ Ngọc Uyển
Những Trại Tù Cải Tạo đã In Dấu Chân Tôi - Huy Vũ
Chờ Mong Tờ Điện Tín - Nguyễn Thị Thanh Dương
Tháng Tư Nhìn Lại: Chiến Tranh Việt Nam - Nguyễn Cao Quyền
Chuyện Tháng Tư Đen - Lâm Văn Bé
Viêt Nam 39 Năm Đảng Trị: Một Quốc Gia, Hai Quốc Dân - Phan Văn Song
Ngày Trở Về - Trần Nhật Kim
Sài Gòn Chỉ Vui Khi Các Anh Về - Hoàng Hải Thủy - Nhạc Duy Trác
Ai Đã Thắng Trong Cuộc Chiến Việt Nam - Michel Chossudovsky - Ngọc Thu
Người Trí Thức Hoa Kỳ và Goulag Việt Nam - Eugène Ionesco
Tìm Sống - Luân Tế
Tại Sao Chưa Đánh Đã Đầu Hàng - Duyên Anh
Quốc Hận 30-4 là gì? - tdhoanz
Saigon Ngày Dài Nhất - Hồi Ký Duyên Anh
Cô Em Gái Nuôi - Trang Y Hạ
Giọt Nước Mắt cho Quê Hương - Uyên Hạnh
Bức Hình 27-4 Năm 1975 ỡ Paris - Phan Văn Song
Hồi Ký của Một Anh Hùng Ngã Ngựa - Vương Mộng Long
Tưởng Niệm Charlie và Đại Tá Nguyễn Đình Bảo Bài 1 --- Bài 2
Saigon 40 năm - Song Lam
Đọc Thơ Đấu




__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay"

Lối Cũ Chẳng Sao Quên

$
0
0
Hôm nay, ngày 30 tháng Tư/ 2017, một ngày tháng đau thương của đất nước và là ngày với lối cũ chẳng sao quên của đời tôi.
Mời các bạn cùng đọc.
****

                                          Lối Cũ Chẳng Sao Quên
                                                  Bích Huyền.

Ðường trần quên lối cũ
Người đời xa cách mãi
Tình trần khôn hàn gắn
thương lòng...
(Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay – Ðoàn Chuẩn-Từ Linh)

*** Vĩnh Phú, địa danh tôi muốn quên mà không thể nào quên. Trong suốt hơn mười năm qua và trong cả cuộc đời . K1, K2, K3, K4…những chữ số ký hiệu kinh hoàng. Của tôi. Của những người tù và gia đình họ. Ở rồi, đến rồi, đi rồi…mấy ai muốn quay trở lại? Vậy mà hôm nay tôi vẫn phải trở về đây. Cảnh vật không khác xưa là bao nhiêu dù thời gian trôi qua bốn năm rồi…

Những khẩu hiệu:”Chào mừng thành công Ðại Hội Ðảng 5″ ,”Ðảng Cộng sản Việt Nam – Người lãnh đạo tài tình”, “Ðảng Cộng sản Việt Nam muôn năm…” lem luốc màu đỏ vì nước mưa, chảy dài xuống như những dòng nước mắt pha máu ngoằn ngoèo trên từng bờ tường loang lổ, cũ kỹ. Ngay phía dưới lại có hàng chữ mang tính “pháp lệnh” bằng những lời thô tục “Cấm ỉa đái” . Có cả những nét chữ nguệch ngoạc chửi thề. Hình như không một ai để ý.
Ở cái ga xép èo uột gần tận cùng của đất nước này, những con người lam lũ, ngác ngơ, còn đang loay hoay với ký trà, bao gạo, rổ rá nhựa, nồi niêu xoong chảo, xấp vải Chợ Lớn hoa xanh, hoa đỏ…Che che, giấu giấu, tránh con mắt dòm ngó của bọn Công an kinh tế. Chính sách của Ðảng đổi mới rồi, tự do buôn bán nhưng người dân lại khổ vì sưu cao thuế nặng.

Theo lời chỉ dẫn, chúng tôi không đến trại Tân Lập bằng đường sông nữa.
Ðạp xe trên bờ đê. Dắt xe đi bộ qua bãi cát lổn nhổn những vỏ sò, vỏ ốc. Băng ngang qua những thửa ruộng khô cằn của vùng đất miền trung du. Cái hình ảnh “quê em miền trung du, đồng chiêm lúa xanh rì…”của một thời hoàng kim nào xa lắm, nay ở đâu? Giặc tràn về đốt phá thôn làng. Gia đình ly tán. “Vườn không nhà trống tàn hoang” còn trong trí óc non nớt của tuổi thơ tôi. Giờ đây, giặc nào đã làm cho miền Bắc điêu tàn?
Ðảng Cộng Sản Việt Nam, đỉnh cao của trí tuệ loài người! Ôi, mỉa mai thay những khẩu hiệu kêu to như những chiếc thùng rỗng! Ðảng lãnh đạo tài tình làm sao để bao nhiêu năm đời ta có Ðảng, bấy nhiêu năm Ðảng phá nát tan? Ðể những người dân quê hiền hoà cởi mở trở nên ngu ngơ câm lặng đến thế kia sao?

Dân cư ở đây rất thưa thớt. Họ sống trong những mái nhà lụp xụp, vách đất, mái tranh. Mảnh vườn. Rào thưa. Khoảng sân đất. Giếng nước. Chiếc gầu..., tất cả đều quá nhỏ bé, trơ trụi, xa lạ. Trẻ con gầy còm, ốm yếu. Quần đùi vá víu miếng nọ miếng kia. Cởi trần, ngồi nghịch đất. Không tiếng nô đùa. Không tiếng hát. Không tiếng nhạc của máy thu thanh. Không cả tiếng chim hót. Như một vùng đất chết.

Ba người anh cùng đi với tôi chuyến này đều là những thanh niên đầy nhiệt huyết của hơn ba mươi năm về trước. Thoát ly gia đình, mang tuổi trẻ của mình cống hiến cho đất nước . Ðể rồi khi biết mình bị lừa thì đã muộn. Cũng dòng sông Lô nắng vàng lấp lánh nhưng còn đâu tiếng hát rộn ràng? Cũng con đê này của những buổi chiều vai đeo ba lô từ chiến khu về, rầm rập bước chân.
Trong không gian, tưởng như xa xa thoáng một âm thanh "hồi chuông ngân nga trong chiều thu lộng gió", ba người anh tôi ôn lại một vài kỷ niệm xưa. Tiếc nuối...
Tôi làm các anh tỉnh giấc mơ: ”Phải chi ngày ấy các anh không đi theo phong trào Thanh Niên Cứu Quốc thì nay em đâu phải đi bốc mộ chồng ở một nơi đèo heo hút gió này!”
Ba người anh im lặng. Họ như muốn quên đi những năm tháng sục sôi khí thế cách mạng. Yêu tự do. Yêu tổ quốc. Ðánh đuổi giặc Pháp ra khỏi đất nước . Chiến thắng Ðiện Biên Phủ, ngày trở về giải phóng thủ đô Hà Nội. Những người bộ độ với tuổi hai mươi. Trẻ trung. Học thức. Hà Nội như đã bừng lên một sức sống mới.
Hà Nội rực rỡ cờ hoa. Hà Nội tưng bừng tiếng hát.

Không bao lâu, những cuộc đấu tố dã man diễn ra khắp nơi. Ông bác tôi bị đấu tố, dù có năm người con đi kháng chiến. Nghe tin dữ, các anh về quê xin Ðảng khoan hồng. Không những không tha, họ còn xúi giục các anh tôi: phải giác ngộ cách mạng, phải đứng vào hàng ngũ nhân dân, cùng vạch tội, chỉ tên địa chủ cường hào ác bá. Ông bác tôi bị tù. Khổ sai lao động. Thất vọng, đớn đau nhìn bố vác cây, đào đất, khiêng đá, trộn hồ…Những người tù già này làm việc suốt ngày đêm để đạt chỉ tiêu biến khu đất hoang quanh hồ Bảy Mẫu, Hà Nội, thành một công viên mang tên Thống Nhất. Ðến thập niên 1980 đổi thành công viên Lê Nin.

Cũng vì sự khổ nhục của người bác thân yêu mà bao lần ra Hà Nội là bấy nhiêu lần tôi không đặt chân vào công viên này. Cũng như tôi đã không đến vui chơi khu K4 Long Khánh, một địa điểm du lịch mới lạ của miền Nam. Vì nơi đây được tạo nên bởi những bàn tay của cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị Cộng sản tù đầy, hành hạ.
Các anh tôi, vài năm đầu “Sài Gòn giải phóng”, vì đường lối của Ðảng, hay vì muốn các em của mình ở miền Nam sớm “giác ngộ” để hoà nhập ngay với cuộc sống mới, đã có những lần tranh luận. Bao giờ cũng trở thành lớn tiếng cãi nhau. Tôi đã làm các anh nhức đầu không ít.
Lần cuối cùng, tôi không cãi lại các anh nữa. “Ðảng đã cho các anh tôi sáng mắt sáng lòng”. Ðó là một lần anh nói với tôi:”Người em không yêu làm em khổ, em đâu có đau bằng anh? Anh đã yêu, anh đã dâng hiến cả cuộc đời mà ngày nay anh bị phụ bạc, anh bị lừa dối…”. Một anh khác:”Viên gạch đã trót để vào xây tường, giờ có rút ra cũng bị vỡ tan. Thôi em ạ, không còn con đường nào khác!” Trên con đê này, giữa khung cảnh hoang vắng của buổi chiều trung du, bốn anh em đi bên nhau. Thương cho thân mình. Thương cho các anh. Lý tưởng sụp đổ tan tành. Ngày mai đen tối.

Trời chạng vạng. Tôi đã bắt đầu đi những bước thấp bước cao. Quãng đường này làm tôi nhớ lại những lần dắt theo Uyển Diễm -khi đó 5 tuổi - vượt biên, cùng gia đình chị Dung Lê Đình Điểu., với bé Hào, Y Sa, Ti trong lứa tuổi bé thơ ngây . Xuống ghe tại Nhà Bè khi thành phố còn chìm trong màn đêm. Lên bờ đi bộ băng qua bao nhiêu là thửa ruộng. Vấp ngã bao lần mà không cảm thấy đau đớn vì thần kinh đang trong tình trạng căng thẳng: hồi hộp, lo sợ.

Lần này trên cánh đồng: mệt mỏi, chán chường…
Cũng phải vài giờ nữa mới tới trụ sở Ban Chỉ Huy. Tiếng dế nỉ non. Xa xa ánh đèn leo lét. Cố lê bước tới đó để xin ngủ nhờ qua đêm. Nhìn một căn nhà tương đối khang trang, chúng tôi vào gặp chủ nhà xin ngủ đỡ ngoài mái hiên. Nhưng cũng bị từ chối. Ðang lo lắng không biết tôi có đủ sức đi tiếp hay không, thì như có phép lạ, một người đàn bà gánh lúa từ xa đi tới. Bà ta dừng lại:”Các bác tìm nhà ai thế?” Khi biết ý, bà ta mời chúng tôi về nhà. Bốn anh em mừng rỡ như người sắp chết đuối vớ được chiếc phao. Dù gánh lúa nặng trĩu trên vai, bà ta vẫn bước đi thoăn thoắt. Trong khi tôi lẽo đẽo theo sau.
Khi bà đẩy cánh cổng tre, bóng tối làm tôi không thể nhìn rõ một người đàn ông đang xếp lúa ngay đầu nhà. Ông ta không quay lại và cũng không lên tiếng đáp lại lời chào của các anh tôi. Trước thái độ lạnh nhạt đó, chúng tôi hơi e ngại. Trong lòng vẫn mừng thầm không bị đuổi ra.

Một gian nhà ba gian bằng tre sơ sài nhưng gọn ghẽ. Nhìn cách trang trí nhà cửa, nhìn bức tượng Chúa nho nhỏ trên bàn thờ cao, tôi có thể đoán chủ nhân không phải là người quê mùa. Tôi ôm bộ quần áo ra giếng. Những giọt nước mát lạnh làm tôi tỉnh táo lại. Trăng bắt đầu lên. Tôi đã nhìn rõ khung cảnh chung quanh. Mảnh sân hình chữ nhật. Khu vườn nhỏ. Chái bếp cuối sân. Ánh lửa bập bùng. Hàng cây cau vươn cao đón ánh trăng. Tôi liên tưởng tới hàng cau của khu vườn trước nhà tôi ở quê hương. Ngày còn nhỏ, tôi vẫn thường trèo lên nhanh như một chú mèo con để hái quả cau cho mẹ tôi têm trầu đãi khách. Trong không gian thoang thoảng mùi hương hoa thiên lý. Âm thanh tiếng đàn mandoline bản Valse Favorite vui tươi, tiếng hát chan chứa tình quê “Làng tôi xanh bóng tre. Hồn lắng tiếng chuông ngân. Tiếng chuông nhà thờ rung…” chợt khua động trong tôi ngày tháng êm đềm thời thơ ấu.
Tôi thở thật sâu để nén xúc cảm. Ðêm yên lặng. Ðêm mờ ảo. Tất cả đều rất mong manh. Một tiếng động nhỏ cũng đủ làm tan vỡ giấc mơ xưa thoáng đến với tôi, đưa tôi về thực tại. Tôi phải vào nhà để bàn chuyện ngày mai.

Tiếng cười nói làm tôi ngạc nhiên. Ông chủ nhà cùng ba anh tôi đang vui vẻ quây quần bên khay trà bốc khói. Thấy tôi vào, ông kéo ghế trịnh trọng mời ngồi. Tôi còn đang ngơ ngác trước thái độ thay đổi nhanh chóng thì một anh đã giải thích: “Ban đầu ông Tuyển tưởng anh em mình đi thăm nuôi tù. Bây giờ ở đây có tù hình sự (những thanh thiếu niên can tội cướp của giết người ). Tù chính trị chuyển đi từ lâu rồi. Một số về trại Hà Nam Ninh. Ða số vào Nam.”
Ông Tuyển đặt ly trà thơm phức trước mặt tôi: “Ðược biết cô từ trong Nam ra, về đây bốc mộ cho chồng, chúng tôi vô cùng cảm kích. Gia đình chúng tôi xin hết sức giúp đỡ cô và các ông anh đây.”

Vầng trán cao. Khuôn mặt chữ điền. Cách nói chuyện lưu loát cùng dáng điệu từ tốn, cử chỉ lịch sự, chứng tỏ ông Tuyển là một người có một số vốn kiến thức về học vấn cũng như về xã hội. Ông cho biết có một người anh là linh mục trong một ngôi nhà thờ vùng đất đỏ Long Khánh.
Ông Tuyển đã sắp xếp chỗ ngủ cho chúng tôi. Ðể khách được tự do, ông Tuyển dặn dò vợ con và đi vào thôn tìm người quen chuyên việc cải táng.
Gian phòng khách rộng, sơ sài nhưng ngăn nắp. Giường tre, bàn gỗ mộc mạc, thô kệch, được hình thành có lẽ do bàn tay của chủ nhà. Tượng Chúa và tượng Ðức Mẹ trên cao là một hình ảnh cảm động hiếm có trong những ngôi nhà tại miền Bắc. Theo như lời ông Tuyển, đời sống gia đình ông bắt đầu khá hơn kể từ khi hợp tác xã nhà nước tan vỡ. Lối làm ăn tập thể nhường lại cho lối khoán sản phẩm. Tuy nhiên, vẫn phải nộp đủ cho nhà nước , cả nhà xúm nhau cày cấy mới có gạo ăn.

Dưới nhà ngang, các con ông bà Tuyển đang đập lúa, giã gạo, sàng sẩy…Mọi người chăm chú làm việc, không tò mò để ý khách phương xa. Tôi mệt mỏi nằm thiếp đi trong chốc lát.
Khi tôi tỉnh dậy, trăng đã lên cao. Ông Tuyển vừa về tới. Tay cầm hai chai rượu và một bó hoa tươi. Ông cho biết đã tìm được một người rất thành thạo trong việc bốc mộ. Chai rượu này để rửa hài cốt. Tìm mua được rượu ở miền núi không phải là chuyện dễ dàng.
Bà Tuyển bưng mâm cơm từ nhà bếp lên. Chúng tôi trải chiếu ngoài hiên, ngồi ăn cơm dưới ánh trăng. Ðĩa thịt gà luộc thơm mùi lá chanh thái chỉ rắc lên trên. Tô canh rau “tập tàng”- đủ mọi loại rau hái ngoài vườn – mát ngọt. Tôi không ngờ anh em chúng tôi được đối xử như một thượng khách ở nơi đây. Thế mới biết ở một nơi tưởng chừng như không có, ta vẫn tìm thấy một tấm lòng.

Qua một đêm ngủ với nhiều mộng mị, sáng sớm hôm sau, tôi và các anh đến Bộ Chỉ Huy. Có quãng đường đi được bằng xe đạp. Có quãng đường đá lởm chởm phải dắt bộ. Chỉ huy trại là người mới. Không phải Thiếu Tá Nguyễn Huy Thùy tôi gặp lần trước. Hắn vồn vã thái quá, khiến tôi chỉ im lặng ngồi nghe. Hắn kể chuyện, có một người nước ngoài, cách đây không lâu, về đây bốc mộ bố. Cầm bình hài cốt lên xe, xe không nổ máy. Gọi xe ngựa đến kéo, con ngựa nhảy quớ lên không chịu chạy.
Nhìn hắn ba hoa, ngồi bỏ cả hai chân lên ghế, tôi hơi khó chịu. Nhất là cặp mắt hắn thỉnh thoảng lại nhìn vào mấy bao thuốc lá “555” anh tôi nhắc mua mang đến làm quà. “Ba con năm vừa nằm vừa ký”, cho nên bọn tôi mới được chấp thuận một cách dễ dàng.
Những chuyện hắn nói có thể xảy ra ở đâu, hắn nghe được. Hắn muốn nói đến đời sống tâm linh. Anh em tôi thì có rất ít thời gian. Cũng có thể sau một thời gian quá dài bị đè nén, những con người triệt để chống chủ nghĩa duy tâm ngày nay bắt đầu duy tâm hơn ai hết.

Xe Volga cọc cạch chở chúng tôi đi lên ngọn đồi, nơi an nghỉ của những quân nhân chế độ cũ. Ít ra từ ngày Việt Cộng muốn bang giao với Mỹ, đã có lúc họ bỏ được từ ngữ “ngụy quân ngụy quyền”. Nhưng tiếc tay những tên gọi này vẫn là vết hằn trong lòng người Việt.

Tôi ngồi đợi trong một căn nhà nhỏ dựng sơ sài bằng tre nứa. Nền đất lồi lõm. Trên vách nhỏ treo đủ thứ khẩu hiệu, kế hoạch công tác hàng tháng, tuần… Hình ảnh các lãnh tụ Cộng Sản thế giới và trong nước quá khổ so với bức vách, treo xộc xệch như sắp rơi. Ðây là nơi làm việc của toán công an canh gác.
Cách đây bốn năm, khi tôi đến nơi đây nhận mộ chồng, cảnh vật chung quanh gọn ghẽ hơn. Hàng ngày còn có bàn tay bạn tù săn sóc. Giờ đây cỏ cây, dây leo chằng chịt, không nhìn thấy lối đi. Hơn một giờ đồng hồ trôi qua, tên công an cầm bản đồ nghĩa trang và các anh tôi trở lại trụ sở với gương mặt thất vọng. Không tìm thấy mộ vì cỏ cây che lấp cả một vùng rộng lớn. Tim tôi như muốn ngừng lại. Chẳng lẽ lại về không?
Tôi xin mọi người hãy cho tôi đến tìm. Tôi thầm cầu nguyện cũng như ở Sài Gòn, mẹ tôi và các em tôi đã cầu nguyện cho chuyến đi của tôi được tốt đẹp.

Kỳ lạ thay! Tôi chỉ vạch lá chui vào đúng một quãng ngắn là tìm ra mộ. Tôi reo to lên. Các anh tôi đứng ngoài không tin. Ngôi mộ có hai bia đá. Tôi lầm thế nào được. Một tấm bia tôi mang từ Hà Nội lên. Một tấm bia nữa của anh em bạn tù đẽo gọt bằng tay. Nét chữ khắc vào đá mờ đi vì rêu phủ.

Trong khi người thợ cải táng chặt cây cối chung quanh, tôi thắp nhang lui cui cắm trên từng ngôi mộ. Ðêm mưa, cỏ ướt, ngửi thấy có hơi người, những con vắt nhảy ra, bám lấy chúng tôi. Máu chảy ròng ròng. Tôi muốn ngất người đi vì sợ. Cây cối quang dần. Dầu nóng tôi bôi đầy mặt, mũi, chân, tay, khiến những chú dế bé xíu cũng không dám nhảy ra đột kích nữa.
Một ít trái cây mua vội dọc đường, bó hoa ông Tuyển mua dùm, chúng tôi chỉ có những tấm lòng thành trước linh hồn người đã khuất. Người anh lớn nhất của tôi khấn thật lâu. Những cây nhang cháy rất nhanh, tàn cong vòng…khói nhang thơm toả ngát. Nhát cuốc đầu tiên bổ xuống đất, lòng tôi đau buốt. Tiếng cuốc, xẻng đều đều vang vọng giữa miền rừng núi hoang vu. Từng tảng đất bật lên, tâm hồn tôi như vỡ vụn. Cho tới lúc lưỡi cuốc đụng vào quan tài. Tôi hồi hộp. Các anh tôi nôn nóng.

Khi tôi ra đến Hà Nội, các bậc lão thành có trấn an:”Ðất miền núi khô ráo, xương cốt lâu ngày sẽ tan đi. Phải chuẩn bị tinh thần: có thể đứng trước một cái hòm chỉ có đầy cát bụi!”
Thế cho nên khi những nhát búa đầu tiên bổ xuống để nạy nắp quan tài, tôi cứ giật thót mình. Một cảm giác đớn đau như lần đầu tiên nghe thấy tiếng đóng đinh vào quan tài bố tôi lúc liệm quan…

Gỗ áo quan dầy và chắc. Khi chiếc nắp bật lên, tôi lạnh người: chiếc chăn len màu đỏ! Suốt đêm qua, người anh lớn của tôi cứ chợp mắt là nằm mơ thấy xác chồng tôi quấn bằng mảnh vải màu đỏ. Gương mặt các anh tôi xúc động. Bóc lượt chăn len ra là quần áo. Hết lớp áo này đến lớp quần khác. Bàn bè đã dồn tất cả cho người chết mang đi. Nước mắt tôi ràn rụa. Màu xanh lá cây đậm của chiếc áo len mẹ tôi mua tặng, gửi trong năm ký lô quà đầu tiên ra Bắc. Chiếc sơ-mi trắng ngà có từng sợi chỉ xanh xanh, hồng nhạt, mang về Sài Gòn sau chuyến du học tại Mỹ năm 1971. Chai dầu gió, đôi giày ba ta…tất cả tôi đã tự tay xếp vào ba lô trước ngày anh đi trình diện “học tập cải tạo”.

Không còn lầm được. Không còn ảo tưởng:”Ðã trốn trại, còn đang ẩn trốn tại một nơi nào.” Tôi mất anh thật rồi! Thế là hết. Tôi khóc nức lên. Trời như nổi gió. Cỏ cây chao đảo. Ðồi núi quay cuồng. Quanh tôi cảnh vật mờ đi…

Lâu lắm, khi tôi tỉnh dậy, đống tro tàn của áo quần vừa đốt còn âm ỉ cháy. Trong một cái sanh to bằng gang dùng thổi cơm cho trại tù đã gẫy tay cầm, các anh tôi đã đổ bột nhang thơm với rượu trắng để ngâm xương cốt. Người thợ cải táng cùng các anh tôi quấn giấy bao từng lóng xương, đặt từng mảnh vào trong nhiều túi ni-lông …
Không gian mênh mông yên lặng. Tôi lặng lẽ theo các anh tôi bước nhanh cho kịp chuyến đò cuối cùng…

(Chuyến bốc mộ vào năm 1985)
Trích tập truyện Lối Cũ Chẳng Sao Quên (The Trail I Never Forget)
Bích Huyền

*Tranh : Lê Thúy Vinh Vinh Thuy Le
Trong hình ảnh có thể có: 1 người, đang đứng



__._,_.___

Posted by: Bich Huyen 

NỖI NIỀM QUÔC HẬN 30/4/1975

$
0
0
Kính chuyển ,
Một bài nhận xét đã làm cho mọi người phải xúc động.
On Sunday, April 30, 2017 5:31 AM, "TonNuHoangHoa [Daploisongnui]"<> wrote:

 
NỖI NIỀM QUÔC HẬN 30/4/1975
Tôn Nữ Hoàng Hoa

Tuy hôm nay nhà không bị cúp điện nhưng tôi lại thích thắp đèn sáp thay vì bật điện lên. Chồng tôi thường cằn nhằn :" Em cứ thích toàn chuyện độc hại không ?" tôi hỏi:” thắp đèn sáp chứ có gì độc hại ?” “ Ngủ quên thì cháy nhà đó không độc hại là gì?”
Không biết tại sao tôi lại không bật đèn mà cứ nhìn lặng lẽ vào những gịọt lệ sáp rơi và nhìn bóng mình xiêu đổ trên tường
Đêm khuya dần dần, nhìn bóng xiêu đổ mà liên tưởng về đất nước đã mờ xa. Liên tưởng đến viễn ảnh ngày mai khi bóng dáng của Cộng Sản không còn hiện hữu trên đất nước mình

Tôi mở vội bài ca "Đêm Chôn Dầu Vượt Biển" của nhac sĩ Châu Đình An . Bài hát mà tôi ưa thích nhất vì mỗi lần nghe là mỗi lần xúc cảm tràn về

Theo tôi, đây là một ca khúc nói lên sự chết của một xã hội chủ nghĩa hung tàn, người dân uất hận mỗi ngày muốn "giải phóng"đời mình ra khỏi sự sống như vậy họ sẽ không còn luân chuyển dưới những luật lệ của rừng hoang với sự rình rập ngày đêm của thú dữ.
Do đó họ phải tìm sự chết để hy vọng trong sự chết có được một sự sống . Bổi vì chết là không còn luân chuyển, không còn di động và sẽ không còn phải chịu đựng những nín nhịn nhục nhã. Chính những nín nhịn nghiệt ngã đó đi từ tâm thức mà hầu như mọi người VN lúc bấy giờ đều muốn giải phóng tâm thừc ra khỏi những nín nhịn nghiệt ngả đau thương đó để họ giải phóng được sự thật ra khỏi sự giả dối và giải phóng thể hiện ra khỏi ước mơ .

 Vì thế:
"Đêm nay anh gánh dầu ra biển anh chôn
Anh chôn, chôn hết cả những gì của yêu thương
Anh chôn, chôn mối tình chúng mình
Gửi lại em trăm nhớ ngàn thương
Hò ơi! Hò ới! tạm biệt nước non…”
(Đêm Chôn Dầu Vượt Biển-NS Châu Đình An)

Cũng chính vì những cái nín nhịn nghiệt ngã vô cùng ấy đã khiến con người Việt Nam đang sống dưới chế đô Cộng sản đành phải vứt bỏ mọi tương giao, chôn đi những thương yêu cao qúi nhất của đời mình. Chính nỗi đau uất hận trong những cái nín nhịn nghiệt ngã đó mà con người mới mời gọi những tương phản vào sự sống của mình "Anh chôn, chôn hết cả những gì của yêu thương"

Đây không những là lời trăn trối của riêng  tác giả trước khi ra đi tìm sự sống trong sự chết mà là hàng triệu lời trăn trối của người Việt Nam khi vượt thoát hiễm hoạ cộng sản tại đất nước mình.
Tuy vậy, trong sự chết họ vẫn còn hy vọng :
"Anh phải bỏ đi thắp lên ngọn lửa hy vọng
Anh phải bỏ đi để em còn sống
Anh phải rời xa mẹ Việt Nam đau đớn
Quê mình rồi đây em có đợi chờ
Anh tạm rời xa nước non mình yêu kiều.."
(Đêm Chôn Dầu Vượt Biển-NS Châu Đình An)

Hy vọng đó của họ là thoát ra khỏi một đất nước độc tài đảng trị. Cho dù phải hy sinh cá nhân mình để cho tha nhân còn được sống “Anh phải bỏ đi để em còn sống”
 Chúng ta đang thấy rõ một tinh thần nhân bản lồng lộng trong con người Việt Nam. Lấy cá thể phục vụ xã hội , hy sinh cá thể để giữ vững căn bản gia đình. Ở VN có không biết bao nhiêu hình ảnh đau thương khi "cha đi bán máu cho con còn được sống" khi Mẹ phải đứng đường bán thân xác để nuôi chồng trong trại tù VC và đàn con nheo nhóc mà trước đây được bảo bọc dưới hình bóng cha

Ngày 30/4/75 là ngày của nhà tan, cửa nát, ngày của bài ca đầy nước mắt của trẻ thơ bơ vơ trên những vĩa hè của đất nước Việt Nam. Vì thế người dân phải tìm đường vượt biển . Vượt biển để em được sống, để con còn có cơm ăn, có chăn đắp trong những đêm rét mướt cơ hàn

Chôn dầu vượt biển trong đêm như đang đi vào sự chết. Sự chết chập chờn theo từng thùng dầu chôn cất . Con người lúc bấy giờ không thể nào nhìn ngắm được sư sống, không cần biết màu sắc sự sống ra sao khi chiếc thuyền bấp bênh trước sóng dữ mưa gào nhưng vẫn còn níu kéo hình ảnh quê hương trên những núi đồi mờ khuất
Trong biển cả mênh mông như chân trời đang tiếp nối biển khơi . Người vượt biển đã thấu đạt từ sự chết qua sự sống, từ khi khởi đến thành, đi đến nơi, đến chốn chỉ trong một cái nhìn.

Trong cái nhìn từ khi đi đến, không khí đã toả ra , trời đất tan rơi vũ trụ như thu hình lại trước sự sống của con người chết đuối . Cuộc hành trình trong sự chết  đã xoay vần định mệnh biến cải tất cả. Con người đi qua sự chết trở lại trần gian và sự sống tự nơi đâu chứa chan trở về khi sự chết cúi đầu  lủi thủi ra đi
“Đêm nay trên bản đồ có một thuyền ra đi
Hiên ngang trên sóng gào tự do đón chào
Xin chào tự do với nỗi niềm cay đắng
Nhìn lại bên bờ nước non mình muối mặn
Khóc nghẹn ngào !!!
Hò ơi! Hò ới! tạm biệt nước non”
((Đêm Chôn Dầu Vượt Biển-NS Châu Đình An)

Ôi tự do với nỗi niềm cay đắng, Ôi quê hương với bao nhiêu tủi nhục đắng cay . Ấy vậy mà VC vẫn ăn mừng chiến thắng trong khi biển là mồ chôn của hàng trăm ngàn sinh linh người dân Việt không chấp nhận chế độ hung tàn của VC
Nước mắt rơi khi đến được bờ tự do họ đã "khóc nghẹn ngào" Sự sống đã thật sự trở về nguy nga trong tiếng khóc nghẹn ngào

Ai là người khi nghe bài ca này lại không khóc. Ai là người lại nhẫn tâm ăn mừng trên xác chết của con người? Ai là kẽ phi nhân phi nghĩa khi cho NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC CƯỜNG, QUỐC CÁN. Chỉ có loài ác thú cười sặc sở trước khi ăn xác người
Tôi không quen với NS Châu Đình An và chưa bao giờ tiếp xúc. Tôi cảm nhận bài ca qua thân phận lưu vong của mình, nỗi niềm về quê cha đất tổ và khóc thương cho một mảnh dư đồ đang bị bọn VC vô thần vẽ dọc, vẽ ngang.

Trong khi đó, cũng có một số người đã quên đi nỗi niềm của đêm chôn dầu vượt biển, đã trở về vui chơi trong ngày tang lễ của hàng triệu oan hồn của người dân Việt đã bị sát hại bởi VC vô thần

Trong ngày Quốc hận 30/4/2017 chủ nghĩa CS phải ra đi để trả lại cho dân tộc VN một truyền thống dân tộc nhân bản mà cha ông đã dày công gây dựng.
Những nét phát hoạ đầy lừa bịp và giả dối như những vòng tròn ngu xuẩn mà VC lập đi lập lại đôi khi tưởng là cả vùng ánh sáng nhưng thực chất là không có gì hết của một lớp người và của một xã hội chủ nghĩa không còn cách thoát thân.
 Phải dừng ngay lại bởi vì không thể loay hoay mãi trên quá nhiều đổ vở đau thương và đây bi hận của người dân Việt./.

Trong nỗi niềm QUỐC HẬN 30/4/2017
Tôn Nữ Hoàng Hoa


__._,_.___

Posted by: Dan Vo 

Cứ tới 30/04 lại nhắc chuyện Hòa Giải Hòa Hợp Dân tộc

$
0
0


....Nhưng trong chánh trị, xưa nay, chưa bao giờ có bạn muôn thuở, thù muôn đời . Nên sau đó, Mỹ đã bán đứng trọn vẹn Miền nam Việt nam cho cộng sản Bắc việt . Và Hà nội đã vứt bỏ từ lâu đề nghị do chính họ đưa ra, áp dụng triệt để chánh sách trả thù giai cấp lên toàn dân Miền nam bởi “Người quét đường cũng có tôi với Cách mạng” (dạy trong học tập ở khu phố)


 
Cứ tới 30/04
lại nhắc chuyện Hòa Giải Hòa Hợp Dân tộc

Nguyễn thị Cỏ May

 

Gần tới tháng tư, những người việt nam lớn tuổi, tức những người đã từng trải qua tháng tư năm 1975, đều nhớ lại biến cố mất Miền nam do Lê Duẩn, dựa vào sự yểm trợ tích cực của Trung cộng, cả quyết dùng chiến dịch biển người xua quân cưởng chiếm cho bằng được Miền nam . Khi dép râu dẩm lên Miền nam thì xã hội bắt đầu đảo lộn . Gia đình bắt đầu ly tán Nhà cửa, của cải của người dân lần lược trao qua tay kẻ chiến thắng để chuộc tội tư sản .

Có người hỏi về số phận những viên chức của Chánh quyền Sài gòn, Lê Duẩn trả lời bằng cử chỉ đưa bàn tay cứa ngang cổ . Võ văn Kiệt “nhơn từ” đề nghị cho đi tập trung cải tạo để khai thác sức lao động của họ phục vụ lợi ích xã hội chủ nghĩa cho tới kiệt sức sẽ thả ra về cho gia đình chăm sóc . Chết sống sẽ do khả năng sanh tồn trong cải tạo định đoạt.
Những người may mắn thoát được ra nước ngoài, với hai bàn tay trắng, bắt đầu làm lại cuộc đời . Gian khổ nhưng được tự do . Với họ, ngày 30/04 không gì khác hơn là kỷ niệm đau thương .

Ở lại hay ra đi, cả hai đều chỉ thấy mình là người dân bị mất nước, mất tất cả, chớ không ai thấy Miền nam được giải phóng, đất nước được thống nhứt . Trong những người cộng sản, có thể có triệu người vui thật sự vì có điều kiện chiếm đoạt tài sản của dân Miền nam làm giàu, còn trìệu người kia, có lương tâm trong sáng, khi vào thấy Miền nam không như họ hiểu do bị chế độ tuyên truyền, bắt đầu đau buồn, ân hận đã cống hiến mạng sống, tuổi trẻ sai lầm, thật hoang phí . Họ là nhũng kẻ đã trao thân nhằm tướng cướp .

Khi Hà nội áp đặt chánh sách xã hội chủ nghĩa cai trị Miền nam thì xã hội Miền nam ngày càng thêm tan nát, những giá trị xã hội, đạo đức bị bứng gốc và đảo ngược . Hệ quả là thực tế ngày nay ở Việt nam .

Thực tế sau 42 năm

Rồi sự phấn khởi chiến thắng cũng lần lần lắng dịu, nhà cầm quyền bắt đầu thấy chiến thắng chỉ có nghĩa là chiếm được Mìền nam, chỉ thống nhứt về mặt hành chánh, nhân tâm ngày càng phân tán, sự bất mản chế độ ngày càng thể hiện khắp nơi trong dân chúng. Hà nội bắt đầu thay đổi thái độ, đưa ra kêu gọi “Đại đoàn kết toàn dân”, ban hành chánh sách “Hòa hợp dân tộc”. Chủ trương của nhà cầm quyền cộng sản là “Hòa hợp dân tộc”. Họ chưa bao giờ nói “Hòa giải, Hòa hợp dân tộc”.

Ngay sau Hiệp định Paris năm 1973, Hà nội đã đưa ra đề nghị “Hội Đồng Hòa giải, Hòa hợp dân tộc” gổm ba thành phần để lo tổ chức tổng tuyển cử, tái lập hòa bình . Nhưng cái “ Hội Đồng Hòa giải Hòa hợp dân tộc” kia chết chưa kịp khai tử vì họ đã dùng võ lực chiếm trọn Miền nam . Sau những năm “đổi mới”, họ thấy rỏ chỉ khi người dân nhìn nhận chánh quyền và hợp tác mới là quan trọng cho đất nước phát triển, nhứt là khối người Việt nam Hải ngoại vừa có khoa học kỷ thuật, vừa có vốn, nên nhà cầm quyền cộng sản quan tâm hơn đến vấn đề “Đại đoàn kết toàn dân”

Nhưng sau 42 năm kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược, vấn đề hoà hợp hoà giải dân tộc được nhà nước Hà nội nhắc đến nhiều lần, trong các cuộc họp Đại hội đảng cộng sản, Hội Nghị Trung ương hay bất cứ nơi nào có những người cầm quyền phát biểu, nhưng thực tế vẩn chưa  đạt dưọc kết quả mà họ mong đợi .

Sốt ruột, Hà nội ban hành nào Nghị Quyết 36 ngày 26 tháng 03 năm 2004, nào Nghị quyết 23 ngày 16 tháng 01 năm 2008, những chương trình giao lưu họp mặt do Ủy Ban nhà nước về người Việt nam ở nước ngoài tổ chức để thúc đẩy thực hiện Hòa hợp dân tộc . Thế nhưng 42 năm dài vẩn chưa đủ để cho dân tộc có thể quên đi những tổn thương quá nặng nề do chánh sách cộng sản tạo ra và để lại

Người cộng sản vẫn còn suy nghĩ ta/địch, cách mạng/ngụy . Họ kêu gọi hòa hợp dân tộc, chớ chưa bao giờ họ nói “Hòa giải” bởi họ cho rằng họ nắm trọn chánh nghĩa . Hòa hợp là mọi người xếp hàng về dưới trướng của đảng cộng sản vì đảng cộng sản đã mở rộng vòng tay đón nhận những “người con hoang” trở về . Tức không hề có chuyện Hòa giải, hai bên nhìn lại để thấy đúng/sai mà thật lòng sửa đổi vì một tiêu chung là quyền lợi đất nước, dân tộc . Có hòa giải thật lòng tự nhiên có ngay hòa hợp .

Hòa giải, Hòa hợp dân tộc


Hiệp định Paris qui định “Hội Đồng Quốc gia Hòa giải Hòa hợp dân tộc” gồm ba thành phần ngang nhau, và công nhận hai thực thể chánh trị ngang nhau ở Miền nam là Chánh quyền Sai gòn và Chính phủ Cách mạng Lâm thời ; hai chính thể này phải tiến đến một giải pháp chính trị trong tình trạng có đầy đủ các quyền dân chủ và không có sự can thiệp của Mỹ . Có một điều khoản qui định “tất cả tù chính trị đều phải được thả trên tinh thân “hòa giải và hòa hợp dân tộc, nhằm chấm dứt thù hằn, giảm bớt đau khổ và đoàn tụ các gia đình”.
Nguyên văn như sau :

Ngay sau khi ngưng bắn, hai bên Miền nam Việt nam sẽ :

Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia;

– Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín nguỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh. ...” .

Nhưng ba ngày trước khi ký Hiệp Định Paris, Kissinger còn tuyên bố tại một cuộc họp báo rằng chính sách của chính phủ Mỹ là không “áp đặt một chính phủ liên hiệp hay một chính phủ liên hiệp trá hình trên nhân dân Việt Nam”. Ngày 23 tháng Giêng năm 1973 Nixon tuyên bố trên các đài truyền thanh và truyền hình Mỹ rằng Hoa Kỳ “vẫn tiếp tục công nhận chính phủ Cộng Hòa Việt Nam như là chính phủ chính danh độc nhất ”. 

Nhưng trong chánh trị, xưa nay, chưa bao giờ có bạn muôn thuở, thù muôn đời . Nên sau đó, Mỹ đã bán đứng trọn vẹn Miền nam Việt nam cho cộng sản Bắc việt . Và Hà nội đã vứt bỏ từ lâu đề nghị do chính họ đưa ra, áp dụng triệt để chánh sách trả thù giai cấp lên toàn dân Miền nam bởi “Người quét đường cũng có tôi với Cách mạng” (dạy trong học tập ở khu phố) .

Không thể có “Hòa giải và Hòa hợp” với cộng sản

Khi nói “Hòa giải và Hòa hợp” với cộng sản không có gì khác hơn nói “ Hòa giải và Hòa hợp” với Thiện và Ác . Hoặc nói “tư tưởng Dân chủ Tự do Nhơn quyền” có thê hòa giải và hòa hợp với “Chủ nghĩa lý luận không có con người và chủ nghĩa vô nhơn bản” được không ?
Hồ Chí Minh tin tưởng tuyệt đối ở bác Xít và bác Mao là hai người không thể sai lầm nên đã học tập nhuần nhuyễn tư tưởng của Mao . Xin trích vài nét nổi bậc trong tư tưởng chánh trị của Mao :
“ Làm chánh trị như làm chiến tranh . Không thể có xây dựng nếu không có phá bỏ, hủy diệt .
Trước hết, và căn bản, Mao chủ trương phá bỏ, hủy diệt Quốc tế cộng sản . Vì có làm như thế thì Trung quốc mới bình đẳng với Nga, Mỹ và xây dựng thế giới mới 3 cực
Tần Thỷ Hoàng không có gì ghê gớm cho lắm vì hắn chỉ chôn sống có 460 nho sĩ . Chúng ta sẽ chôn sống ít lắm cũng phải 46 000 trí thức tiểu tư sản

Phải thực hiện vườn không, nhà trống triệt để về vật chất và tinh thần . Mỗi người phải như một tờ giấy trắng, không được quyền sở hữu tài sản, nhà đất, và không được có kiến thức, tri thức.Tất cả phải thành“không”,sạch bách ! Những người dân như vậy mới thông minh” (M.H.Bernard, Mao Tsé-toung , 1893-1976 , VOIX , Paris 2003) .

Mao chủ trương chánh trị độc tài tuyệt đối như vậy để duy trì chế độ lâu dài . Bởi Lê-nin dạy rỏ “Một chế độ sẵn sàng thực thi khủng bố vô giới hạn thì không thể nào bị lật đổ (Simon LEYS , Essais sur la Chine , Robert Laffont , Paris 1998, trg 4.)

Nhơn đây tưởng cũng nên nhắc lại một chuyện xưa thời còn biên giới Thạch hản để thấy cộng sản không chỉ xem Chánh quyền là kẻ thù (Ngụy quân, Ngụy quyền), mà cả người dân bình thường cũng là kẻ thù cần phải tiêu diệt . Trần Đĩnh kể trong Đèn Cù II (trang 461-462) : “Sông đã lấp thành tên , mà báo cứ ca ngợi cô Lý oằn lưng chèo lái . Hầu hết nghe đều cười . Tự giễu và rộng lượng . Nhưng khi Sinh nói ở Vĩnh Linh , anh đã chứng kiến những người ở phía bên Nam kia bị ta bắt sang chôn sống kêu rất lâu dưới huyệt , tôi lại thấy mọi người lạnh mặt lại . Sẵn sàng bao dung với ta và hóa đá với địch” . Phải chăng việc tàn sát tập thể ở Huế năm Mậu thân 1968 chỉ là tiếp nối truyền thống man rợ này của Quân đội nhân dân ?

Phải có Dân chủ mới hòa giải và hòa hợp

Cho tới nay, Hà nội chỉ kêu gọi mọi người về dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản nên trong vài tháng qua đã xảy ra lắm chuyện ỏ Việt nam nói rỏ không thể có “Hoà hợp, Hòa giải dân tộc” nếu không có Dân chủ .
Những bài hát tinh cảm đang hát bổng bị cấm . Sách vở biên khảo về lịch sử đã phát hành bị thu hồi vô cớ (về Trương Vĩng Ký của Nguyễn Đình Đấu) .

Về lịch sử, văn hóa, những kiến trúc cổ ở Sài gòn bị phá để bán địa điểm cho doanh nhơn ngoại quốc xây cơ sở mới . Hà nội không cần thấy người dân Sài gòn thương tiếc  đó là một phần ký ức đời sống của họ bị Hà nội thêm một lần nữa cướp mất . Họ không thể thấy đó là chương trình phát triển đô thị . Không chỉ riêng với Miền nam nơi bị cưởng chiếm 30/04/75, mà với cả Miền Bắc, người cộng sản cũng chủ trương biến đầu óc mọi người phải sạch như tờ giấy trắng để họ nhồi nhét đìều họ muốn . 

Những trận đánh Gạc Ma, chiến tranh biên giới hoàn toàn không tồn tại trong sách giáo khoa lịch sử thời Xã hội chủ nghĩa. Người trẻ chỉ còn tìm kiếm qua thông tin trên mạng, để họ kêu gọi nhau trân trọng những gì vốn dĩ thuộc về sự thật và lịch sử dân tộc .

Không thừa nhận lịch sử thì làm sao hòa giải và hòa hợp dân tộc được ?

Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã, trả lời đài BBC, cho rằng một trong những yếu tố quan trọng để dẫn đến hoà hợp hoà giải dân tộc, đó là thừa nhận vai trò của Việt Nam Cộng Hoà :“Theo tôi bất cứ một giai đoạn lịch sử nào cũng có vai trò của nó. Nếu thừa nhận vai trò đó, của hai bên, nó sẽ dễ dàng hoà hợp .Các nhà nghiên cứu, làm sử đặt ra vấn đề là phải thừa nhận Việt Nam Cộng hoà là một thực thể. Trong giai đoạn đó có một thực thể, trong đó có vấn đề đối nội đối ngoại, có những điểm tốt, không tốt, lịch sử phải khách quan. Ví dụ như trong vấn đề Hoàng Sa, phải chấp nhận là Việt Nam Cộng hoà đã có trách nhiệm, và Hoa Kỳ cũng đã có phản ứng. Mà khi có phản ứng tức là Trung Quốc đã xâm lược. Đó là một điều phải khẳng định” .
Nên thấy bất cứ một giai đoạn lịch sử nào cũng có vai trò của nó. Nếu thừa nhận vai trò đó, của hai bên, thì mới có thể hoài giải và hoà hợp được
  
Khi chỉ có người Bắc mới thông minh, mới có lý luận nên mới lãnh đạo đảng được, như Nguyễn Phú Trọng nói, thì mọi người chỉ còn biết phải đặt mình dưới trướng đảng độc tài thối nát mà thôi .

Nguyễn thị Cỏ May
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Tai sao không giử lời hứa vơi me tôi

$
0
0

---------- Forwarded message ----------
From: Li
Date: 2017-05-05 23:51 GMT+10:00
Subject: Người Ở Lại Charlie, Đại Tá Nguyễn Đình Bảo
To:



Tai sao không giử lời hứa vơi me tôi




(Click attached link với nhạc phẩm “ người ở lại Charlie”)



TẠI SAO KHÔNG GIỮ LỜI HỨA VỚI MẸ TÔI?
 
LTS - Rất đông độc giả liên lạc tòa soạn, hỏi về gia cảnh cố Ðại Tá Nguyễn Ðình Bảo, người mà chúng ta đã quá quen thuộc qua nhạc phẩm “Người Ở Lại Charlie,” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết gia đình bà quả phụ Nguyễn Ðình Bảo hiện sinh sống tại Sài Gòn. Bà Nguyễn Ðình Bảo nay 76 tuổi, vẫn minh mẫn và khỏe mạnh. Hai ông bà có ba người con. Trưởng nam, Nguyễn Bảo Tường, là một bác sĩ Nhi Khoa. Thứ nữ, Nguyễn Bảo Tú, làm việc tại Tòa Lãnh Sự Anh Quốc tại Sài Gòn. Con trai út, Nguyễn Bảo Tuấn, kiến trúc sư và đang giảng dạy tại một đại học ở Sài Gòn. Dưới đây là bài viết hồi năm 2012 của anh Nguyễn Bảo Tuấn, về thân phụ mình. Tòa soạn tìm thấy bài viết này trên trang Facebook riêng của Nguyễn Bảo Tuấn, xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.


 *******
Trên FB tôi thấy đại đa số thường chọn hình mình hoặc hình con mình để làm avatar, ít hơn một chút thì lấy hình của người yêu, vợ hoặc chồng, hoặc một hình gì đó mà mình yêu thích. Riêng tôi thì tôi lại chọn một đối tượng khác mà hình như tôi thấy chưa một ai chọn giống như tôi: Một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.


 Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba bão táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo thì chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày cứ 5 giờ sáng phải chạy lên Gò Vấp để lấy bánh đậu xanh về đi bỏ cho các tiệm bánh rồi mới về đi học trong suốt 7 năm trời, từ năm học lớp 11 đến hết năm thứ 6 Y Khoa. Khó khăn là vậy nhưng tôi vẫn trưởng thành một cách đầy kiêu hãnh. Ðôi khi nhìn lại tôi tự hỏi là điều gì đã giúp tôi mạnh mẽ mỗi khi đương đầu với những khó khăn? Và câu trả lời là do trong huyết quản tôi vẫn đang mang một dòng máu nóng trong mình và tôi đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người đã cho tôi dòng máu ấy: Một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.
 

Tôi cũng không biết tại sao tôi và người đó chỉ gặp gỡ và tiếp xúc trong có vài chục ngày, chính xác là từ ngày 6 tháng 1, 1972 đến ngày 25 tháng 3, 1972, mà tôi lại luôn luôn thương mến, cảm phục, tự hào và luôn lấy người làm tấm gương soi để tôi có đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn. Có lẽ là do cuộc sống của người quá vĩ đại và tôi đã được thừa hưởng một phần của nó. Mặc dù khi ra đi người đã không thực hiện được một lời hứa với mẹ tôi mà cho tới bây giờ tôi vẫn hỏi: “Tại sao?”

 
Charlie, tên nghe quá lạ!
“Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ... Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt...
Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy.
 

Mùa Hè năm 1972 - Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện.
Nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972 thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum.
Charlie, “Cải Cách,” hay “C,” đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Ðường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.”
(Trích trong “Mùa Hè Ðỏ Lửa” của Phan Nhật Nam)

"Charlie bỗng trở thành một địa danh được nhắc nhớ từ sau 4,000 quả đạn pháo tới trong một ngày, từ sau người mũ đỏ Nguyễn Ðình Bảo nằm lại với Charlie." 
(Trích lời giới thiệu trong CD Chiến Tranh và Hòa Bình của Nhật Trường Trần Thiện Thanh)

 

Cho đến bây giờ cũng ít người biết rằng tôi chính là “đứa bé thơ” với “tấm khăn sô bơ vơ “ trong bài hát “Người Ở Lại Charlie” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Và tôi lớn lên cùng với ký ức về một người Cha hào hùng như vậy.
 

Tôi không thần tượng Cha tôi từ một bài hát viết về người, cũng không thần tượng từ một hai trận đánh trong cuộc đời binh nghiệp của người, mà tôi thần tượng Cha mình từ chính cuộc đời của Người. 

Trải qua biết bao thăng trầm đời binh nghiệp và cuối cùng người đã được giao làm tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn “Song Kiếm Trấn Ải” (biệt danh của Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù), một trong những tiểu đoàn được xem là thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Cha tôi là một người khát máu hung tàn, mà ngược lại hoàn toàn, mọi người đều nhớ về hình ảnh Cha tôi như là một võ sĩ đạo đúng nghĩa: Giỏi võ, dũng cảm và cao thượng.

 Thời bấy giờ có mấy ai dám đánh một sĩ quan của Mỹ, vậy mà Cha tôi đã làm điều đó khi người sĩ quan đó dám làm nhục một người lính Việt Nam (chuyện này tôi được nghe bác ruột tôi kể lại). Có tiểu đoàn nào trong quân đội mà luôn gọi Tiểu Ðoàn Trưởng bằng tên thân mật “Anh Năm”?, nhất là trong binh chủng Nhảy Dù, việc phân chia cấp bậc luôn được tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Vậy mà trong Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù, tất cả mọi người, từ lính đến sĩ quan, chẳng ai gọi Cha tôi là Trung Tá cả, mà luôn gọi là Anh Năm, và “Anh Năm” thường hay nói với mọi người trong tiểu đoàn rằng: “Tụi mày thì chẳng biết mẹ gì, nhưng tất cả tụi mày tao đều coi là em tao hết.”

 

“Anh Năm,
“Ngoài đời anh sống hào sảng, phóng khoáng và thật ‘giang hồ’ với bằng hữu anh em, còn trong quân ngũ, anh như một cây tùng ngạo nghễ giữa bão táp phong ba, Anh không nịnh cấp trên đè cấp dưới, anh chia sẻ vinh quang buồn thảm với sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp.
“Anh sống hùng và đẹp như thế mà sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!?

“Tôi về lại vườn Tao Ðàn, vẫn những hoa nắng tròn tròn xuyên qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lão làm vườn vẫn lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa móng rồng và những bụi hồng đầy màu sắc. Bên gốc cây cạnh căn lều chỉ huy của anh hồi tháng trước khi còn đóng quân ở đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn trắng. Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gõ khô cứng của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lão ngẩng đầu và nhận ra tôi. Siết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng xuống nỗi tiếc thương, chòm râu bạc lưa thưa phất phơ trước gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết anh đã ra đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa anh.

 Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng manh của điếu thuốc nhà binh quện trong tiếng nói:
“- Thuốc lá ông Quan Năm cho, tôi vẫn còn đủ dùng cho đến cuối năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt mà sao ông Trời bắt đi sớm như vậy!?”
(Trích trong “Máu Lửa Charlie” của Ðoàn Phương Hải)

 

Cha tôi đã sống như thế nào mà những người ít ỏi còn sống sót trở về sau trận chiến tại đồi Charlie đều nói là họ thật hối tiếc khi không được nằm xuống cùng Cha tôi ở đó.
“Tô Phạm Liệu cảm thấy lẻ loi ở cái đại hội y sĩ có nhiều những người ‘mặc quần mới áo đẹp’ và ‘ăn to nói lớn,’ thích ‘nhảy đầm’ và ‘xếp hàng để lên hát’... Trong cơn say, anh nói là phải chi trước kia, mười mấy năm trước kia, anh được ‘ở lại Charlie’ với Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo, với các bạn nhảy dù thì ‘sướng hơn nhiều.’”
(Trích trong “Tô Phạm Liệu: Người trở lại Charlie” của Phạm Anh Dũng)

 

Viên sĩ quan cố vấn Mỹ Duffy cho tới tận bây giờ vẫn còn luôn mang trong người những hoài niệm về Cha tôi và trận chiến tại Charlie. Mỗi lần tham gia các cuộc gặp gỡ của Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam (trong đó có một số hiện đang là tướng lãnh cao cấp trong quân đội Mỹ) ông ta đều hỏi mọi người, “Tụi mày có từng tham gia trận Charlie không, tụi mày có ai từng chiến đấu cạnh Colonel Bao (Trung Tá Bảo) chưa? Thế thì tụi mày còn xoàng lắm. Và hàng năm cứ mỗi lần sinh nhật của mình, ông ta đều đặt một ổ bánh kem làm hình một ngọn đồi và ghi chữ Charlie lên đó. (Chuyện này do chú Ðoàn Phương Hải khi về Việt Nam năm 2011 thuật lại cho tôi nghe).
Cha tôi đã sống như thế nào để một người Mỹ phải luôn khắc trong tâm khảm những hoài niệm như vậy?
Tôi chỉ có thể kết luận một câu: “Cuộc đời của Cha thật vĩ đại.”

Ngày hôm nay khi viết về Cha, tôi không biết viết gì hơn, chỉ xin dâng về hương hồn Cha một vài câu thơ nói về khí phách của Người và nơi mà Cha đã gửi lại thân xác vĩnh viễn cho núi rừng Charlie. Ở đây tôi xin dùng từ “Cởi áo trần gian” vì tôi tin rằng Cha vẫn đang khoác một chiếc áo khác và vẫn đang nhìn tôi từ một nơi rất xa...

Lặng lẽ ngàn năm chẳng danh xưng
Bỗng chốc một hôm hóa lẫy lừng
Charlie gầm thét trong lửa đạn
Gọi mãi tên người nước mắt rưng

Trai thời nỗi chết tựa trên lưng
Khí phách hiên ngang bước chẳng dừng
Charlie vẫy gọi người ở lại
Cởi áo trần gian tặng núi rừng
(Kính dâng tặng hương hồn Cha)

 
Sinh nhật mẹ tôi ngày 11 tháng 4. Trước khi hành quân vào Charlie ngày 25 tháng 3, Cha tôi đã đặt một chiếc bánh sinh nhật cho mẹ với lời hứa là sẽ về dự sinh nhật mẹ. Ðến ngày sinh nhật, mẹ đã không tổ chức mà vẫn chờ Cha về, và cho đến tận bây giờ mẹ vẫn chờ...


Tuy nhiên Cha đã thất hứa với mẹ vì ngày 12 tháng 4 Cha đã cởi áo trần gian và nằm lại vĩnh viễn với Charlie. Còn tôi, tôi chỉ biết hỏi là tại sao Cha lại không giữ lời hứa với mẹ tôi? Tại sao và tại sao...?





Posted by: Bich Huyen 

NỘI DUNG BÀI NÓI CHUYỆN CHO ĐỒNG HƯƠNG TẠI OAKLAND, CA NHÂN DỊP KỶ NIỆM NGÀY 30 THÁNG 4, 1975

$
0
0


Subject : Bài Nói Chuyện

Thân gửi quí anh chi:
Tôi kèm theo Nội Dung Bài Nói Chuyện ngày 30/4 để quí anh chị đọc.
Thân,
Nguyễn văn Canh
 
NỘI DUNG BÀI NÓI CHUYỆN  CHO ĐỒNG HƯƠNG TẠI OAKLAND, CA NHÂN DỊP KỶ NIỆM NGÀY 30 THÁNG 4, 1975
                                                                                                                                                           Nguyễn văn Canh                              C hủ Nhật 30 tháng 4 năm 2017

I. HIỆN TÌNH TẠI VIỆT NAM.
1.  Chế độ toàn trị của CSCN đã bị đào thải và  đã được thay thế bằng chế độ độc tài chuyên chế man rợ.
Vì  bế tắc về kinh tế, và bất lực  giải quyết các vấn đề xã hội do nạn độc quyền  cai trị của Đảng gây ra, chế độ này  tự  thay đổi để sống còn. Một khi  thay đổi các  chính sách  kinh tế đế phó với tình thế khó khăn, thì hậu quả tất yếu là xã hội sẽ đổi thay. Để ứng phó với tình thế mới, Đảng CSVN  phải bám víu vào  các biện pháp độc tài của thời kỳ toàn trị để ngồi lại. Vì mất phương hướng, Đảng này gặp phải nhiều lúng túng, tiến hay thoái, dù  chỉ biết dùng cảnh sát để đàn áp mọi đòi hỏi của dân chúng.  
Trong tinh thế này, Xã Hội Dân Sự mọc mầm và lớn mạnh để đi tới xóa bỏ Chế độ ấy.

Trước  hết là  một số quyền tự do xuất hiện, dù là hạn chế như tự do đi lại, phát biểu tư tưởng, hội họp, tư do kinh doanh v.v. 
Kế  đến là Đảng  bị dồn vào thế phải từ bỏ lần lần độc quyền thực thi các vấn đề xã hội, giáo dục, tôn giáo, nhân đạo……  để người dân tham dự và thay thế.
Rồi đến thay đổi về cơ cấu xã hội: giai cấp trung lưu xuất hiện. Giai cấp này  tự nó đối kháng mạnh mẽ với tàn dư của chế độ toàn trị vì quyền lợi của nó, nên nó  góp thêm phần đẩy lui chế độ này của CS cho đến khi tan vỡ.

Trong những năm gần đây,  tiến trình  suy thoái của Đảng có phần mau lẹ hơn:

Sự phản kháng mạnh nhất là các đòi hỏi  cải cách của khoàng 20,000 dân ở Thái Bình vào năm 1997. Vụ Đoàn văn Vương ở Hải Phòng là một bước tiến xa hơn trong tiến trình đối kháng, chống lại chế độ này.  Vài năm trước đây, có những  vụ  như  dân  xã Dương nội  chống lại Đảng về vụ Đảng cướp đất; vụ Văn Giang, Hưng yên dân chúng tập hợp công khai thách thức nhà cầm quyền về việc  cướp đất canh tác của dân xã làm EcoPark….
Hiện nay vụ  dân xã Đồng tâm nổi lên,  bắt giữ  và giam cầm 38 công an làm con tin,  cũng chống lai Đảng  cướp đất của nông dân để giao cho công ty Vietel  của quân đội xây xưởng sản xuất điện thoại di động. Tại thôn Đông Phong, Lai Châu,  hiện CS cũng dùng  biện pháp mạnh để khống chế dân  phản đối Đảng trong một vụ cướp đất.

Tại Miền Trung, vào tháng 5, 2015, TC đặt gian khoan dầu HD 981 trong thềm lục địa của Việt nam tại Hoàng Sa, dân chúng đã nổi lên đốt xưởng của TC tại Hà tĩnh. Ít nhất 4 công nhân TC bị chết.  Vụ Formosa tại Hà tĩnh là nguyên động lực cho các đòi hỏi mạnh  mẽ của người dân. Cũng tại đây, vào  tháng 4 năm 2016, vụ Công ty này thải chất độc ra biển  là nguyên nhân của nhiều cuộc biểu tình lớn đã xảy ra trong gần 1 năm qua.  Tại huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh), vào ngày 30 tháng 3 vừa qua, cả ngàn người đứng lên đòi minh bạch trong vụ bồi thường cho ngư dân mà Formosa chuyển qua chính quyền 500 triệu MK để trả cho các nạn nhân. Ngày 15 tháng  4, có tới 30,000 người tham dự cuộc biểu tình ôn hoà  tại Vinh đòi đuổi Formosa ra khỏi Việt nam.

Tại Miền Nam, nhất là ở Bình dương có những vụ đốt phá xưởng của Tàu cộng nhân vụ TC đặt giàn Khoan HD 981 ….
Trong tuần lễ vừa qua, sự công phẫn của dân chúng lên rất cao: Có người đốt cháy cơ xưởng của vài xí nghiệp ở Long An , Bình Dương. Những chống đối dữ dội hiện đang xảy ra ở xã Phước Hoà, An Giang nhân đám giỗ của một cư sĩ Hoà hảo. Chống đối  lại Đảng có cả tại Phú Quốc, một đảo xa đất liền.
  
Nói chung, tình trạng bất ổn đang lan tràn trên toàn quốc và Đảng lâm vào tình thế thụ động và không kiểm soát nổi tinh thế. Không ai chịu trách  nhiệm về công tác của chính quyền, không ai chú tâm và tím cách giải quyết  những nhu cầu cấp bách mà dân chúng đòi hỏi…
Tại  mỗi địa phương, Đảng tập hợp nhau lại như một đám “ sứ quân”, nhiều nơi chỉ  nhằm vào  đàn áp nhân dân, và cướp đất.
Hậu quả là Dân chúng tự đứng lên  thách thức gồm cả nhục mạ Đảng. Nỗi sợ về trấn áp của Đảng như thủ tiêu, đánh đập man rợ một cách công khai  mới chỉ cách đây vài năm nay không còn; sợ bị  bắt về đồn bót cảnh sát để tra tấn, cô lập….. đã qua rồi. Và nhiều kẻ cầm quyền chuyên lo việc trấn áp cũng đã tìm cách trốn tránh  công tác được giao phó, để khỏi bi trách niệm về sau. Chủ tịch huyện Quỳnh Lưu quì lạy xin bà con ngư dân tha tội cho  các đàn em vì đã đánh ngư dân và cướp vật dụng của một linh mục.

 Hiện nay, giới trẻ  đã vượt qua các nỗi sợ hãi do VC khủng bố gây ra và đã can đảm công khai phản kháng chế độ. Họ điều khiển hay  tham gia các cuộc biểu tình bất bạo động. Có  nhiều thanh niên, thanh nữ lập ra một phong trào ca nhạc rộng rãi. Họ  ngang nhiên công khai thách thức Đảng và kêu gọi mọi người đứng lên đòi hỏi tự do cho dân tộc.
  
Guồng máy khống chế dân bằng bạo lực càng ngày càng yếu ớt.

2.  Tranh chấp nội bộ.
Trong chế độ toàn trị, Đảng Cộng sản  độc quyền cai trị: mọi hoạt động/sinh hoạt đều do Đảng nắm  giữ, thực hiện, từ tôn giáo đến giáo dục,  công tác xã hội như cứu đói v.v. . Ngay cả đến công tác từ thiện cũng vây. Không một lực lượng  nào được phép tồn tại. Không một cá nhân công dân  nào có quyền sở hữu tài sản riêng. Mọi tài nguyên quốc gia nằm  gọn  tay Đảng, có nghĩa là thuộc quyền sở hữu của Đảng, nói khác đi  là của nhóm nhỏ lãnh đạo Đảng.

Chính vì “một mình một chợ”,  nhóm lãnh đạo Đảng với quyền hành vô giới hạn và được xử dụng các biện pháp chuyên chính vô sản, nghĩa là có đặc quyền được trấn áp, kể cả thủ tiêu kẻ khác nếu thấy có triệu chứng chống lại,  đương nhiên đi tới lạm quyền. Và quyền hành lại đi đôi với quyền lợi. Vì vậy mọi người thi đua vận dụng mọi thủ thuật để chiếm quyền hành để làm giàu cho cá nhân mình.
Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt nam hiện nay đang trải qua một giai đoạn giành giật quyền hành một cách khốc liệt. Nhiều kẻ cấu kết với nhau thành các nhóm cướp đoạt tài sản quốc gia, của dân chúng, từ trung ương tới  mỗi địa phương. Một màn được xử dụng nhiều nhất, tràn lan trên toàn quốc là lãnh đạo Đảng nhân danh thực hiện các dự án  có lợi ích công trưng dụng đất đai của nông dân, rồi  sau đó đem bán cho các công ty ngoại quốc xây dựng cơ sở đầu tư để kiếm lời cho cá nhân.  Tại mỗi địa phương,  Đảng uỷ  tranh nhau bán đất cho Tàu như nhiều khu vực thuộc thị xã Đà nẵng, Đảo Lý Sơn thuộc Quảng Ngãi, một khu công nghiệp Vĩnh Phúc để làm nhà máy ráp điện thoại. … Rất  nhiều nơi  như vậy  là các khu vực “an toàn”  hay “tô giới’ của Tàu. Các cơ quan  an ninh của Đảng không được phép vào.
Cũng có  nhóm lãnh đạo hàng đầu CS bán tài sản quốc gia cho ngoại bang để  chúng khai thác các tài  nguyên như khoáng sản……
Chả thế, Bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá  Trịnh văn Chiến có tài sản lên  tới hàng tỉ Mỹ Kim. Ở cấp trung ương, nhiều người có số tài sản trị giá hàng chục tỉ MK.

Nhóm này cướp được nhiều  hơn nhóm khác, nên gây ra xung đột dữ dội nhằm loại nhau khỏi hệ thống quyền hành. Đã có bắn giết nhau như vụ Yên Bái mới đây. Rất nhiều trường hợp kẻ đang ở vị trí cầm quyền  thủ tiêu cả thành viên trong  nhóm của chính mình bằng cách dàn dựng “cái chết” có  vẻ ”hợp pháp” để che giấu tội phạm như trường họp tướng Phạm quí Ngọ, Dương chí Dũng…

Tại trung ương, đang có cuộc khủng hoảng lãnh đạo khốc liệt vì lý do tranh nhau cướp đoạt tài sản của quốc gia hiện nay rất trầm trọng, tới mức có thể có thanh toán đẫm máu, bằng cách này hay cách khác; cũng có lý do tranh  nhau trở thành  tay sai TC,  bao thầu việc thực thi chính sách của Tàu tại VN.  Trong nhiều tháng qua, chúng liên tục tố cáo các tội nhũng lạm nghiêm trọng  của  nhau cho công chúng biết, vói hy vọng hạ bệ nhau, dù công chúng nghiễm  nhiên  nay được trở thành ‘quan toà bất đắc dĩ’, dù thực sự  công chúng sẽ xử  chúng sau này về những tội ác của chúng.

Trong những ngày tới tại Hôi nghị Trung Ương Đảng kỳ V đã được dự trù họp vào  ngày hôm nay, 30 tháng 4, nhưng có thể dời sang  tháng 5, để chị định chức Tổng Bí Thư của Đảng . Vì các phe phái còn đang bận gờm nhau, chúng phải kéo dài thêm ít ngày  nữa để có thì giờ tìm cách  hạ đối thủ hay  chiếm thế thượng phong,  hầu chiếm vị thế lãnh đạo số  một của Đảng.

Sự giành giật , chống đối lẫn nhau sẽ trở thành khốc liệt. Đó sẽ là cái mốc đánh dấu một biến cố lớn trong tiến trình tan rã của Đảng.

3.  Vai trò của Trung Cộng.
Từ trước đến nay, Đảng Cộng Sản Trung Hoa đóng một vai trò rất lớn trong việc cử đảng viên Đảng CSVN vào các chức vụ lãnh đạo Đảng này. Chúng dùng mọi thủ thuật để thực hiện mục tiêu đó, kể cả tiền bạc. Những VC được đưa vào giữ các chức vụ then chốt sẽ trở thành tay sai cho TC.

Hầu hết cá nhân lãnh đạo hàng đầu của VC trong nhiều năm qua đều là loại người này.

Tháng 4 năm 2011, Tướng Quách bá Hùng, Phó chủ tịch Quân Uỷ Trung Ương của Quân Đội TC sang gặp hầu hết lãnh đạo VC. Mục  tiêu chính là giao phó công  tác cho các VC này thực hiện có  liên quan đến việc chuyển giao lần lần  và êm thấm Biển Đông cho TC, và cũng còn là đặt quân đội VC, lực lượng an ninh, toà án v.v.  của VC dưới sự chỉ đạo và kiểm soát của TC, không những ở  Trung ương mà còn cả ở địa phương. Đó là về mặt Đảng.

Về mặt chính quyền, các công tác này được đặt dưới sự điều khiển của Uỷ Ban Hợp Tác Song Phương giữa 2 quôc gia. Hiện nay, Uỷ Viên Quốc Vụ Viện Dương khiết Trì và Phạm đình Minh là đồng chủ tịch điều khiển tổ chức này.

TC xâm nhập vào rất nhiều cơ quan trọng yếu quốc gia, về kinh tê, an  ninh , quốc phòng. Trên thực tế, nền  hành chánh, an ninh và kinh tế VN hiện nay hầu như bị TC khống chế, và đang hoạt động như để phục vụ mục tiêu của TC. Hệ thống quân đội, an ninh, cảnh sát, tòa án của VC nay được mặc nhiên coi như các bộ phận  chính quyền của TC, chưa kể đến rất nhiều dự án kinh tế của TC được thiết lập tại khắp nơi trên lãnh thổ Việt nam qua hình thức các công ty, xí nghiệp, ở trong đó TC  bố trí công nhân từ TC  đưa sang để làm nội ứng khi cần….Ngòai ra, các khu vực ‘rừng đầu nguồn’  được Đảng đã cho Tàu ‘thuê’ dài hạn tại  14 tỉnh ở các vi trí quan trọng trên toàn lãnh thổ Việt nam. Tôi nhấn mạnh rằng đây là các khu vực hiểm yếu về quốc phòng  từ biên giới phía Bắc vào tới Cà mâu- được coi là các khu vực bất khả xâm phạm của Tàu. Các nơi này được canh giữ nghiêm ngặt và  các viên chức chính quyên Cộng Sản Việt nam không được phép vào thăm.

Trong nhiều năm qua, nhiều viên chức hàng đầu của Đảng CSVN và  của chính quyền Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa VN đã được  TC tuyển dụng và công khai hành động như kẻ Thái Thú, cai trị dân Việt thay cho giặc. Chúng thẳng tay đàn áp những ai chống lại giặc ngoại xâm dù chỉ tuyên bố Hoàng Sa Trường Sa là của Việt nam. Những nạn nhân này bị ngược đãi dã man trên đường phố, bị bắt và đánh đập trong đồn bót của cảnh sát, bị toà án xét xử  và bị giam cầm dài hạn trong các nhà tù……

Tình trạng mất nước đã gần kề.

II. CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?
         Người Việt hải ngoại có một vai trò quan trọng trong việc cứu nguy tổ quốc, vì lẽ những thành phần yêu nước trong nước bị khống chế. Họ  bị kiểm soát chặt chẽ bởi hệ thống Đảng, nhất là tại địa phương,  bởi Cảnh Sát, Dân Phòng và côn đồ đo Đảng chỉ huy Kỹ thuật xử dụng là đe doạ, đánh đập, cô lập, áp lực với gia đình, tòa án, chiêu dụ đầu hàng….

Chúng ta ở hải ngoại có một ưu thế. Đó là ngoại vận. Ngoại vận giỏi, chúng ta có thể giúp đẩy mau tiến trình sụp đổ của VC. Lý do là VC phải dựa vào quốc tế để sống còn hay kéo dài sự sống. Chúng là một lọai ký sinh trùng nguy hiểm. Ngoại vận là  liều thuốc trụ sinh để làm tê liệt  chúng. Đây phải là công tác ưu tiên của chúng ta, ngoài việc yểm trợ cho các phong trào chống đối ở  trong nước.

Cộng Sản nói chung cũng như CSVN sống và tồn tại là do Quốc tế hỗ trợ, từ tài chánh cho đến yểm trợ ngoại giao. Bất hạnh thay là rất nhiều hỗ trợ này lại đến từ cái gọi là “ quốc gia tư bản.”   Các quốc gia tư bản này là nguồn cung cấp chính,  tạo ra sức mạnh cho chúng. Một thống kê trước đây cho biết rằng để vận động tìm kiếm sự yểm trợ của Tư Bản Chủ Nghĩa, Liên Bang Sô Viết đã bỏ ra 80% ngân sách ngoại vận cho mục tiêu này. 
Người Việt hải ngoại nên cố gắng tập trung sức mạnh của mình vào công tác vận động này đối với VC. Nếu VC mất sự  hậu thuẫn của quốc tế, thì chúng không thể sống còn.

Chúng ta có nhiều mục tiêu trong công tác này. Có thể là truyền thông quốc tế, Tổ Chức có uy tín quốc tế về nhân quyền, cá nhân các nhân sĩ có tiếng v.v.  là mục tiêu giúp chúng ta làm công việc  này. Các dân biểu, nghị sĩ đại diện của đơn vị bàu cử của mỗi người trong chúng ta, các viên chức chính quyền  (hành pháp) v.v.. là những người quan trọng. Chúng ta đừng quên rằng  người Việt tị nạn cũng là mục tiêu quan trọng khác, không thể quên vì lẽ nhiều người Việt lại là kẻ tiếp tay cho  kẻ thù của chính họ: Có năm ‘Việt kiều’  gửi về VN hơn 10 tỉ MK. Chính họ đã  vực dậy và nuôi dưỡng (1)  VC và tạo sức mạnh cho VC từ 1990 đến nay, trước khi tư bản bỏ tiền vào giúp chúng. Nếu không có Việt kiều hà hơi, thì VC đã chết từ năm 1991 rồi.

Một thí dụ về ảnh hưởng quốc tế đối với VC  là trước đây, vào đầu thập niên 1980, tôi đã thúc đẩy Hội Ân Xá Quốc Tế (AXQT) cần có hành động cụ thể về trường hợp một người bạn của tôi là tù nhân lương tâm: Thẩm phán tối cao Pháp Viện Mai văn An.  AXQT giao trách nhiệm, ấy cho một Thẩm Phán Ấn Độ. Ông này đòi VC cho đến thăm  và gặp mặt Thẩm Phán An, một ‘đồng nghiệp’ là Thẩm Phán của ông ta -dù không quen biết nhau-, đang bị  giam tại trại cải tạo Hà Nam Ninh.

 Vào lúc đó dù  còn rất mạnh và cứng rắng dưới sự che chở của Liên Bang Sô Viết, VC rất lúng túng (2) về việc này. Mọi người đều hiểu  là tại sao chúng lúng túng, tại sao chúng sợ, dù chỉ có  một Thẩm Phán  ngoại quốc nêu vấn đề dù có tính cách cá nhân. Nếu chúng ta  liên tục tạo ra  nhiều áp lực với VC ( nhất là  vào lúc này  chúng rất yếu),  chúng ta đạt được 2 mục tiêu: a) VC lâm vào thế lúng túng hơn, chúng phải thận trọng hơn,và chùn bước đàn áp hơn; đồng thời sự hậu thuẫn của quốc tế cho Đảng CS bị cắt đi,  b) Dân chúng và những người đấu tranh trong  nước  phấn khởi hơn vì sự  yểm trợ ấy và  có  thêm nhiều người khác tiếp tay với họ để phong trào chống đối vươn lên.

Như một  định luật, Xã hội Dân Sự càng  phát triển, càng mạnh-, thì đòi hỏi của dân chúng càng nhiều để thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của  họ. Đặc biệt là đòi hỏi của giai cấp trung lưu vì giai cấp này nay đã có vị thế vững chắc  trong xã hội thì phản kháng  càng lớn. VC càng lui vào chân tường,  và chính ở nơi đây sẽ có một bộc phá làm cho chế độ sụp đổ.

Tôi kêu gọi mọi người Việt hải ngoại, nhất là giới trẻ đóng góp vào công tác trọng đại này để cho tiến trình tan rã của Đảng xảy ra sớm hơn. Như thế cơ may cứu dân tộc ra khỏi vòng nô lệ của Tàu mà Đảng CSVN  trong bảy mươi năm qua đã âm thầm góp sức giúp cho giặc ngoại bang  xâm chiếm  nước Việt của chúng ta./.   

(1)  Với kế hoạch kinh tế ngũ niên IV, từ năm 1986 đến 1991, Liên Bang Sô Viết ( Nga) viện trợ cho VC khoảng 14.5 tỉ MK, trung bình là 2.9 tỉ/ năm. Đến năm 1990, Nga hết tiền, nên  chỉ viện trợ cho VC 100 triệu MK không bồi hoàn.  Các viện trợ khác phải được trả bằng tiền mặt, bằng MK . Thí dụ nếu VC gửi  một bộ phận như đầu máy bay phản lực MIG 19 sang  Nga để trùng tu, Nga sô sẽ tính tiền để VC trả.
(2)  Hết nguồn tài chánh từ Nga, VC được Việt kiều ‘vục dậy’ để  tiếp tục sống. Sau đó là quốc tế đổ tiền vào.
Hiện nay, các lãnh đạo VC đã đục khoét ngân sách đến nỗi trống rỗng, dù  trong  nhiều thập niên qua, hàng năm Việt kiều của người tị nạn CS tiếp tục gủi về trên dưới 10 tỉ MK.
(2) Những ai bị giam trong các trại cải tạo đều biết sự lúng túng của VC  mỗi khi có phái đoàn ngọai quôc đến thăm trại ( điều tra vi phạm nhân quyền); họ đều chứng kiến các màn trình diễn do VC sắp xếp để che giấu sự thật về ngược đãi tù nhân.





__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng

$
0
0





Một mặt trận hai kẻ thù
Giặc cộng bán nước, giặc tầu xâm lăng.

12304511_1669198556631541_1088409358794526136_o.jpg

Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng

Trong thập niên 1960, tại Miền Nam, trong dân gian đã truyền tụng câu “Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng,” nói lên lòng ngưỡng mộ của người dân đối với bốn vị tướng lãnh trong sạch, thanh liêm của QLVNCH.

alt

Trong thập niên 1960, tại Miền Nam, trong dân gian đã truyền tụng câu “Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng,” nói lên lòng ngưỡng mộ của người dân đối với bốn vị tướng lãnh trong sạch, thanh liêm của QLVNCH.

Nhứt Thắng 
Vị tướng được kể tên trước nhứt là Trung Tướng Nguyễn Ðức Thắng (1930- ).

alt
Ông sinh vào tháng 1-1930 tại tỉnh Cao Bằng, Bắc Việt, theo hoc Khóa I Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Ðịnh khai giảng ngày 1-10-1951 nhưng sau 2 tuần lễ được chuyển vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, và tốt nghiệp ngày 11-6-1952 với cấp bậc Thiếu Úy ngành Pháo Binh. Ông lần lượt thăng cấp như sau:(1)· Thăng cấp Trung Úy vào tháng 2-1953· Thăng cấp Ðại Úy vào tháng 10-1954· 

Thăng cấp Thiếu Tá vào năm 1955· Thăng cấp Trung Tá tạm thời vào năm 1958· Thăng cấp Trung Tá thực thụ vào ngày 26-10-1959· Thăng cấp Ðại Tá tạm thời vào tháng 2-1961· Thăng cấp Chuẩn Tướng vào ngày 11-8-1964· Thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức vào ngày 1-11-1965· Thăng cấp Trung Tướng nhiệm chức vào ngày 3-6-1968 Tướng Thắng đã từng được bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh của một số đại đơn vị của QLVNCH như sau:· Sư Ðoàn 1 Bộ Binh: từ ngày 1-1-1961 đến ngày 15-10-1961· Sư Ðoàn 5 Bộ Binh: từ ngày 16-10-1961 đến ngày 19-12-1962· Quân Ðoàn IV: từ ngày 29-2-1968 đến ngày 1-7-1968Ông cũng từng tham chính trong hai chính phủ liên tiếp:· Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ: Ủy Viên Xây Dựng Nông Thôn, từ ngày 1-10-1965 đến ngày 8-11-1967· 

Chính phủ Nguyễn Văn Lộc: Tổng Trưởng Xây Dựng Nông Thôn từ ngày 9-11-1967 đến ngày 23-2-1968Trong dân chúng VNCH đã truyền tụng khá nhiều câu chuyện, giai thoại về tính cương trực, thanh liêm của ông. Một số giai thoại về đức tính trong sạch, thanh liêm và yêu lính, yêu dân của ông đã được kể lại như sau:
“Có lần tướng Thắng đã cầm đầu một phái đoàn đi tham quan ngoại quốc. Trên nguyên tắc, tùy thời hạn, mỗi sĩ quan trong phái đoàn đều được đổi mỗi người một ít ngoại tệ để tiêu xài và chánh phủ cho riêng một ít tiền túi. Còn ông tướng trưởng phái đoàn thì có thêm một ngân khoản gọi là “ngân sách tiếp tân.” Khi ra nước ngoài, tướng Thắng đã không xử dụng số tiền tiếp tân của chánh phủ cấp phát. Lúc về nước, ông đã đem trả đủ số tiền không chi tiêu ấy vào ngân sách cho chánh phủ… Vốn là một sĩ quan to con, khoẻ mạnh, hiếu động, tướng Thắng thích tự thân xông pha với các chiến sĩ của ông trong những cuộc hành quân bình định đại qui mô. Những dịp này, nếu có đồng bào hay thường dân từ trong những vùng quê xa xôi, hẻo lánh, mất an ninh, bồng bế, dắt díu nhau đi ra, tướng Thắng thường làm gương cho binh sĩ là đi bộ, nhường xe vận tải chở thường dân, nhất là đàn bà và trẻ thơ… Hôm ấy là dịp tướng Thắng, tư lệnh vùng, đi thị sát lãnh thổ trách nhiệm và hội họp bộ tham mưu tại tiểu khu Rạch Giá. Như thế, tất nhiên vị tiểu khu trưởng kiêm tỉnh trưởng địa phương, theo lệ thường, phải khoản đãi quan khách một bữa ăn thịnh soạn. Bữa ăn đó thường diễn ra trong tỉnh đường và do công quỹ đài thọ. Nhưng tướng Thắng đã không dự tiệc, mà lại ra ngồi ngoài xe Jeep, gân cổ lên “quạp” ổ bánh mì thịt to tổ nái.”

2Người Mỹ cũng nghe danh ông là một vị Tướng lãnh trong sạch, thanh liêm, và làm việc đàng hoàng, nghiêm túc, nên họ rất kính phục, ngưỡng mộ ông Chính vì vậy các giới chức quân sự và dân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam rất tích cực ủng hộ ông. Một tác giả Mỹ đã ghi nhận như sau: “Thang had a reputation for honesty and hard work, which won him not only the respect of his American civilian and military advisors but also substantial American support for his revolutionary development campaign.” 3 (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau:“Thắng nổi tiếng lương thiện và làm việc tích cực, điều này giúp ông có được không những sự kính trọng của các cố vấn dân sự và quân sự của ông mà còn cả sự hỗ trợ đáng kể của Hoa Kỳ đối với công cuộc vận động xây dựng nông thôn của ông.”). 

Cơ Quan Trung Ương Tình Báo của Hoa Kỳ (Central Intelligence Agency = CIA), trong nhiều báo cáo hàng tuần của họ về tình hình tại VNCH (Weekly report on the Situation in South Vietnam) cũng đã có những nhận xét rất tốt về con người, tác phong làm việc cũng như những suy nghĩ của ông về vấn đề xây dựng nông thôn. Báo cáo hàng tuần của CIA, đề ngày 24-10-1966, ghi nhận như sau trong phần II, Revolutionary Development (xây dựng nông thôn):
He was particularly critical of the “new life hamlet program” which was designed to provide security from Viet Cong incursions and to provide a “new life” to the peasant. Thang maintains that the latter goal of the program has not been successfully achieved and in his words, “has not provided a new life for the people in the hamlets.” There has been no true social revolution, he asserted and “the Communists… have not been wiped out.” Thang implied that government interference in the life of the peasants must be minimal and that hamlet residents should control their own programs. The Revolutionary Development Cadres, which he claims have started to take hold in the provinces, should act mainly as an “emotional bridge” between the peasant and the government, according to Thang.”4
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Ông đặc biệt chỉ trích “chương trình ấp tân sinh” được thiết kế nhằm đem lại an ninh chống lại các xâm nhập của Việt Cộng và tạo ra “một đời sống mới” cho nông dân. Thắng tin rằng mục tiêu thứ nhì của chương trình đã không được thực hiện thành công và, theo lời ông, “đã không đem lại một đời sống mới cho dân chúng trong các ấp.” Ông cũng xác nhận “Đã không có một cuộc cách mạng xã hội, và, bọn Cộng sản đã không bị tiêu diệt.” Thắng ngụ ý rằng sự can thiệp chính phủ vào cuộc sống của nông dân nên giữ ở mức tối thiểu và nên để cho người dân trong các ấp quyền kiểm soát các chương trình sinh hoạt của họ. Theo ông các Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, mà ông tin là đã bắt đầu bám rể được tại các tỉnh, chỉ nên giữ vai trò làm “nhịp cầu giao cảm” giữa nông dân và chính quyền mà thôi.”) Vì bản tính trong sạch, thanh liêm, vì cách làm việc thẳng thắn, nghiêm túc, với những tư tưởng về xây dựng nông thôn tích cực đó, lại được sự ủng hộ mạnh mẻ của các giới chức Hoa Kỳ như vậy, Tướng Thắng không thể tránh khỏi bị các tướng lãnh khác của VNCH nghi ngờ và ganh ghét, khiến cho ông có lúc đã nghĩ đến việc từ chức. Một báo cáo hàng tuần của CIA đã ghi nhận điều này như sau:“There is some indication that Minister of Revolutionary Development General Nguyen Duc Thang may be thinking of resigning his post because of criticism from other members of the Directorate… Part of the difficulty in Thang’s relationship with other members of the Directorate may stem from the fact that he has received a great deal of support and praise from American advisers, which has probably generated envy and suspicion.” 5(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Có một số dấu hiệu cho thấy Ủy Viên Xây Dựng Nông Thôn Tướng Nguyễn Ðức Thắng có thể đang nghĩ đến việc từ chức vì sự chỉ trích từ các thành viên khác của Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia… Một phần của khó khăn trong mối quan hệ của Thắng với các thành viên khác của Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia có thể bắt nguồn từ việc ông nhận được rất nhiều ủng hộ và ca ngợi từ các cố vấn Mỹ, một điều có thể đã tạo ganh tỵ và nghi ngờ.”)

Ðầu năm 1968, ông bàn giao Bộ Xây Dựng Nông Thôn cho Trung TƯớng Nguyễn Bảo Trị, và ngày 29-2-1968 ông nhận chức Tư Lệnh Quân Ðoàn IV thay cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vốn dĩ không thích Tướng Thắng từ khi Tướng Thắng đại diện cho các tướng lãnh thuộc phe Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã khuyên ông Thiệu rút lui đừng ra tranh cử tổng thống hồi giữa năm 1967,6đã bị áp lực từ phía Hoa Kỳ phải chấp nhận việc bổ nhiệm Tướng Thắng là một tướng lãnh được tiếng thanh nliêm làm Tư Lệnh Quân Ðoàn IV để thay thế cho Tướng Mạnh đã bị tiếng tăm quá nặng nề về tham nhũng. Vì vậy, Tướng Thắng đã không giữ được chức vụ này lâu. Tướng Thắng phải bàn giao chức Tư Lệnh Quân Ðoàn IV cho Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh vào ngày 1-7-1968. Sau đó ông giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh một thời gian ngắn trước khi về Bộ Tổng Tham Mưu ngồi chơi xơi nước trong chức vụ Phụ Tá Kế Hoạch cho Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên. Năm 1973 ông xin nghĩ dài hạn không ăn lương để đi học lại và cuối năm đó ông được cho giải ngũ. Cuối tháng 4-1975, ông được tái trưng dụng nhưng chưa kịp được bổ nhiệm chức vụ gì trong quân đội thì VNCH đã sụp đổ. Sau ngày 30-4-1975, ông định cư tại tiểu bang Connecticut, Hoa Kỳ.

Nhì Chinh
Vị tướng được kể tên thứ nhì là Trung Tướng Phan Trọng Chinh (1930-2014)
alt

Ông sinh ngày 1-2-1931 tại tỉnh Bắc Ninh, Bắc Việt, theo học Khóa 5 Trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt, mãn khóa ngày 24-4-1952 với cấp bậc Thiếu Úy, và lần lượt thăng cấp như sau:7·
Thăng cấp Trung Úy vào tháng 1-1954·
Thăng cấp Ðại Úy ngày 29-9-1954·
Thăng cấp Thiếu tá vào tháng 9-1956·
Thăng cấp Trung Tá vào tháng 12-1963·
Thăng cấp Ðại Tá nhiệm chức vào ngày 6-3-1965·
Thăng cấp Ðại Tá thực thụ vào ngày 1-11-1965·
Thăng cấp Chuẩn Tướng nhiệm chức năm 1966·
Thăng cấp Chuẩn Tướng thực thụ năm 1967·
Thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức năm 1968·



left align image
































Thăng cấp Trung Tướng thực thụ năm 1973

Hình ảnh Trung Tướng Phan Trọng Chinh cùng Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đến dự lễ mãn khoá của SVSQ tại trường Bộ Binh Thủ Đức ( Ngày 4 Tháng 12, Năm 1971 )

Trong thời gian 1954-1956, ông là vị Tiểu Ðoàn Trưởng đầu tiên của Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù. Cuối tháng 9-1956, ông thăng cấp Thiếu Tá và đảm nhận chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Ðoàn (đến năm 1959 đổi tên thành Lữ Ðoàn) Nhảy Dù. Ngày 26-10-1960, ông rời Lữ Ðoàn Nhảy Dù và đảm nhận chức vụ Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân. Ngày 11-11-1960, ông tham gia cuộc đảo chánh của lực lượng nhảy dù dưới sự lãnh đạo của Ðại Tá Tư Lệnh Nguyễn Chánh Thi. Cuộc đảo chánh thất bại, ông bị bắt giam và bị Tòa án mặt trận Sài Gòn xử 18 năm khổ sai và đày ra Côn Ðảo.

Sau khi cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 thành công, lật đổ được chính phủ Ngô Ðình Diệm, ông được Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng trả lại tự do, xóa bản án, thăng cấp cho ông lên Trung Tá, và bổ nhiệm ông làm Tỉnh Trưởng Pleiku. Ngày 6-3-1965, ông thăng cấp Ðại Tá nhiệm chức và được bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh.Chính trong thời gian nắm giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh này, Tướng Chinh đã để lại những dấu ấn rõ rệt về các đức tính tốt đẹp của ông: trong sạch thanh liêm, không bao giờ lợi dụng chức vụ để lo cho gia đình, tận tâm trong công việc và nhiệm vụ, thương yêu, gần gủi và chia xẻ mọi hiểm nguy với binh sĩ dưới quyền. Dưới đây là một số giai thoại về các đức tính đó của ông đã được truyền tụng trong dân gian:
“Trong suốt mấy năm liền đảm nhiệm trọng trách đó, tôi thấy tướng Chinh không mấy khi về Sài Gòn thăm gia đình vợ con và bạn bè. Ông bận lo thị sát chiến trường, thanh tra các địa phương. Một đặc điểm đáng nêu lên đây là tướng Chinh đi thanh sát toàn bằng xe, di chuyển trên đường bộ, mặc dù vùng ông trấn đóng rất nguy hiểm. Bọn CS địa phương thường hay đặt mìn, bắn sẻ và phục kích từng toán lẻ tẻ. Thỉnh thoảng về thăm gia đình, vợ con, ông cũng dùng xe chớ không bao giờ dùng trực thăng như đa số các vị tướng lãnh khác. Đoàn xe của tướng Chinh di chuyển thường chỉ gồm có một chiếc Dodge 4×4 trí súng đại liên với mấy tay xạ thủ, một jeep ông ngồi cùng với tài xế và đại úy Đoàn, sĩ quan tùy viên của ông.” 8“Khoảng năm 1966-67, đường Saigon – Đức Hòa còn là đường đất bụi. Hôm đó, tôi trên xe cứu thương, trương cờ Hồng Thập Tự mà chạy. Xe tôi đi sau một đoàn xe của quân đội, tôi bóp kèn, thì tất cả đều dạt vào trong. Nhưng đến xe đầu tiên thì tôi biết là xe của ông Tướng (vì có gắn ngôi sao), xe tôi không dám vượt qua. Nhưng tôi thấy Tướng Chinh vỗ vai người tài xế, và xe ông dạt vào trong cho xe tôi chạy. Đến tối, tôi xin gặp Trung Tướng và xin lỗi. Nhưng Tướng Chinh nói: “NGÔI SAO CỦA TÔI KHÔNG THỂ BẰNG SINH MẠNG CỦA MỘT THƯƠNG BINH”. Câu nói đó đã chạm vào tim tôi, nước mắt tự rơi không kềm được. Một câu nói thật ngắn, gọn, nhưng sao hay trong văn chương, đẹp trong tình người đến như vậy???. Sau đó ông hỏi tôi: “Cô có biết tại sao Trung Tướng Chinh là ông Tướng duy nhất không dùng trực thăng khi đi hành quân hay không? Dạ, lúc đó cháu còn nhỏ nên không biết điều đó ạ! Tại vì ông muốn chia xẻ tất cả những nguy hiểm, gian khổ cùng chiến sĩ, chứ không như các ông Tướng khác cô à. Nước mắt tôi lại rơi cho điều vô cùng tốt đẹp ấy. Có người còn kể: “Tướng Chinh thường nói: “Là lãnh đạo, lúc nào cũng phải đi tiên phong. ” 9

Với bản chất cương trực như thế, ông không tránh khỏi đã có những đụng chạm với một số cố vấn Mỹ khi những vị cố vấn này có những cử chỉ hay hành động có tính cách khinh thường hay nhục mạ QLVNCH. MỘt sĩ quan trong bộ tham mưu Sư Ðoàn 25 Bộ Binh đã kể lại cuộc đụng độ nẩy lửa giữa Tướng Chinh và viên sĩ quan đại tá cố vấn Mỹ như sau:
“Những chuyến đi thanh sát như thế, không mấy khi tướng Chinh đem viên đại tá Mỹ cố vấn trưởng sư đoàn đi theo. Việc ấy không ngờ đã khiến cho tên cố vấn Mỹ, có máu thực dân phong kiến và xấc láo, tên Hê-Li-Cớt, để tâm hiềm khích. Hôm ấy tướng Chinh về nhà thăm gia đình một đêm. Sáng hôm sau, ông lên bộ chỉ huy sư đoàn như thường lệ. Các bạn quân nhân nào đã từng phục vụ trong vùng Hậu Nghĩa đều biết chuyện này. Mỗi sáng, trước khi cho phép xe cộ lưu thông, gồm cả xe nhà binh lẫn xe dân sự, xe vận tải, xe đò, v.v…tiểu đoàn 25 công binh phải lo mở đường xong xuôi để bảo đảm an toàn cho mọi người. Đoàn xe mở đường thường gồm có một chiếc GMC và 1 chiếc Dodge 4×4 chở đầy các chuyên viên rà mìn. Bởi thế, không một xe nào, dù là xe của ông tướng tư lệnh có thể vượt qua luật lệ ấy. Khi tướng Chinh vừa bước vào văn phòng tư lệnh sư đoàn, viên đại tá Mỹ Hê-Li-Cớt, từ phòng bên cạnh đã bước sang, hạch hỏi tướng Chinh, tại sao đến giờ này ông mới đến văn phòng. Trước thái độ hỗng hách ấy, tướng Chinh đã dạy cho hắn biết bài học về quân phong và quân kỷ, đồng thời cũng nhắc cho anh ta biết rằng, dù sao anh ta cũng chỉ là một đại tá đang đứng trước một vị tư lệnh sư đoàn. Nhưng viên đại tá Mỹ phách lối này đã chẳng biết phục thiện, về sau lại còn tỏ ra xấc láo hơn nữa, nên tướng Chinh đã phải ra lệnh trục xuất tên cố vấn Mỹ ấy ra khỏi văn phòng làm việc, sát vách với văn phòng của ông. Tướng Chinh đuổi tên Hê-li-Cớt qua vùng Compound của Mỹ. Nhưng Hê-Li-Cớt cũng bướng, không chịu dọn đi. Tướng Chinh liền ra lịnh cho trung tá Trà, chỉ huy trưởng tổng hành dinh sư đoàn 25, dọn dùm đồ đạc của hắn qua bên Compound Mỹ, dưới sự bảo vệ của quân cảnh VN. Bên phía Mỹ, chẳng hiểu viên đại tá thực dân này đã nói gì vơi binh sĩ Mỹ dưới quyền của y, người ta thấy bọn quân cảnh Mỹ cũng lên súng M.16 và gờm sẵn trong tư thế chiến đấu. Nhưng rất may đã không xảy ra vụ sô sát đáng tiếc nào giữa binh sĩ Mỹ và binh sĩ VNCH thuộc sư đoàn 25BB. Dù vậy, báo chí Mỹ và báo chí Việt Nam cũng đã bình luận sôi nôi một thời về hành động cứng cỏi, để bảo vệ danh dự của quân đội VNCH và thể diện dân tộc.” 10

Sau cuộc đụng độ nảy lửa đó, các giới chức Hoa Kỳ tỏ ra không thích Tướng Chinh, và vì vậy trong các báo cáo, tài liệu của Hoa Kỳ, Tướng Chinh không được đánh giá tốt. Sau đây là một bằng chứng về nhận xét lệch lạc của CIA về Tướng Chinh:“The controversial commander of the ARVN 25th Division, General Phan Trong Chinh has stepped-up the tempo of hamlet construction to one month, and consolidation phases to one and one-half months. Chinh’s order has been issued in an apparent attempt to make the pacification effort in his area look good.” 11(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Viên tư lệnh gây tranh cải này của Sư Ðoàn 25 QLVNCH, Tướng Phan Trọng Chinh, đã tăng nhịp độ xây dựng các ấp lên một tháng, và các giai đoạn củng cố các ấp lên một tháng rưởi. Lệnh của Chinh đã được ban hành thấy rõ là nhằm giúp cho cố gắng bình định trong khu vực của ông ta có vẻ tốt đẹp.”).

Dĩ nhiên, nhận xét như vậy của người Mỹ về Tướng Chinh chắc chắn đã có ảnh hưởng không tốt đến cấp lãnh đạo của VNCH. Sau đây là một bằng chứng rõ rệt về việc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định không bổ nhiệm Tướng Chinh vào chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn II vào tháng 4-1972:“MR 2 commander Gen. Ngo Dzu simply panicked and fled from Corps headquarters at Pleiku to coastal Nha Trang, leaving the de facto leadership of ARVN forces in the interior to MR 2 senior adviser John Paul Vann… Thieu was considering replacing him with a known incompetent named Phan Trong Chinh. Acting on an ostensibly spontaneous impulse, Bunker sent Thieu a list of candidates on which Chinh’s name did not appear. Thieu picked one that did, that of Gen. Nguyen Van Toan.” 12(xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Tư Lệnh Vùng II Tướng Ngô Dzu hoảng hốt bỏ bộ tư lệnh Quân Ðoàn ở Pleiku chạy về Nha Trang ở duyên hải, trên thực tế giao quyền chỉ huy các lực lượng của QLVNCH trong nội địa lại cho cố vấn trưởng Vùng II Jean Paul Vann… Thiệu đang tính thay thế hắn [tức là Tướng Ngô Dzu] bằng Phan Trọng Chinh, một người đã được biết là không có khả năng. Hành động theo phản ứng liền lập tức, Bunker[đại sứ Mỹ tại VNCH lúc đó] gửi đến Thiệu một danh sách của những ứng viên trong đó không có tên của Chinh. Thiệu chọn một tên có trong danh sách, đó là Tướng Nguyễn Văn Toàn.”).

Sau khi rời chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh, Tướng Chinh đã liên tục đảm nhận các chức vụ sau đây:· Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn III, 1968· Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quân Huấn, 1969-1973· Chỉ Huy Trưởng Trường Chỉ Huy và Tham Mưu từ năm 1974 đến năm 1975. Sau ngày 30-4-1975, ông định cư tại thành phố Rockville, tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ. Ông qua đời ngày 17-11-2014 tại thành phố Vienna, tiểu bang Virginia, Hoa kỳ, hưởng thọ 85 tuổi. Lễ an táng của ông đã được cử hành rất trọng thể và theo đúng lể nghi quân cách dành cho một tướng lãnh của QLVNCH.

Tam Thanh

Vị tướng được kể tên thứ ba là Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh (1931-1970)
alt

 
Ông sinh ngày 31-3-1931 tại Tân An, Long An, theo học Khóa 4 Trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt, mãn khóa ngày 1-12-1951 với cấp bậc Thiếu Úy, và lần lượt thăng cấp như sau: 13· Thăng cấp Trung Úy tháng 12-1953 · Thăng cấp Ðại Úy năm 1955 · Thăng cấp Thiếu Tá tạm thời ngày 26-10-1959 · Thăng cấp Trung Tá nhiệm chức năm 1964 · Thăng cấp Ðại Tá nhiệm chức ngày 9-10-1965 · Thăng cấp Ðại Tá thực thụ tháng 12-1965 · Thăng cấp Chuẩn Tướng nhiệm chức ngày 19-6-1966 · Thăng cấp Chuẩn Tướng thực thụ ngày 19-6-1967 · Thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức ngày 19-6-1968 Ông cũng đã chỉ huy các đơn vị tác chiến sau đây: · Trung Ðội Trưởng, Trung Ðội 12, Ðại Ðội 51, Tiểu Ðoàn 15 Việt Nam vào tháng 12-1951 · Ðại Ðội Trưởng, Tiểu Ðoàn 15 cuối năm 1952 · Tiểu Ðoàn Trưởng, Tiểu Ðoàn 707 ÐỊa Phương vào năm 1953 · Trung Ðoàn Trưởng, Trung Ðoàn 12, Sư Ðoàn 7 Bộ Binh năm 1962 · Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh ngày 9-10-1965 · 

Tư Lệnh Quân Ðoàn IV ngày 1-7-1968 Tướng Thanh nổi tiếng trong QLVNCH là một sĩ quan gương mẫu và trong sạch, thanh liêm với khá nhiều giai thoại về đức tính liêm khiết và tận tụy với quân vụ của ông, như trong lời kể lại sau đây:
“Vào giữa năm 1968, Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV. Lúc đó tôi làm Tổng Thư Ký Hội Đồng Tái Thiết Phát Triển kiêm Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Điều Hợp Tỉnh Kiên Giang. Hàng tháng tôi thường về họp tại Trung Tâm Điều Hợp Quân Khu do Đại Tá Phạm Văn Út làm Trung Tâm Trưởng và thỉnh thoảng có ghé qua thăm Thiếu Tướng Thanh. Nhân một buổi họp cuối năm, tôi có chở theo vài món đặc sản Rạch Giá như nước mắm nhĩ Phú Quốc, khô cá thiều và một ít bánh ú lá dừa biếu gia đình ông. Vì biết tôi có quà cho Tướng Thanh nên Trung Tá Tỉnh Trưởng Kiên Giang cũng nhờ tôi chở theo một số quà biếu Tư Lệnh. Ông nghe tiếng Thiếu Tướng Thanh rất thanh liêm, không ưa vụ biếu xén quà cáp, nên ông không dám đích thân đi biếu mà nhờ tôi là chỗ thày trò cũ, may ra được nhận chăng? Hôm đó sau buổi họp ở văn phòng Đại Tá Út, tôi qua thăm Tư Lệnh. Thiếu Tướng Thanh niềm nở tiếp tôi, hỏi thăm chuyện vợ con, hỏi thăm Thiếu Tướng Khuyên, rồi ông nói: “Bây giờ cũng trưa rồi, Quý qua bên nhà ăn cơm với vợ chồng tôi nhé, ăn chay đó.” Tôi thưa: “Cám ơn Thiếu Tướng, hôm nay đàn em không xin được trực thăng, phải đi đường bộ, về trễ sợ nguy hiểm, lần sau sẽ xin ghé tư dinh thăm chị luôn.” Tôi tranh thủ trình bày vụ biếu quà, ông bảo: “Thôi được, món nào của anh thì tôi nhận, nhưng chỉ lần này thôi nhé. Còn của anh Tỉnh Trưởng thì anh đem về nói là tôi rất cám ơn, nên đem mấy món quà đó tặng cho anh em thương bệnh binh nhân dịp Tết cho họ mừng. Đó là điều mà cấp chỉ huy nên làm.” Bất giác tôi chợt nhớ đến cái Tết 10 năm trước ở Vĩnh Bình. Sáng mồng một Tết, ông cùng Thiếu Tá Khuyên vào bệnh viện tỉnh thăm thương bệnh binh. Rồi suốt ngày mồng hai Tết, ông hết đứng lại ngồi đăm chiêu trước bản đồ hành quân để nghiên cứu địa hình và tình hình địch. Hình như ông nóng lòng trông cho mau đến ngày mồng 3, hết hạn hưu chiến để tổ chức hành quân Bình Định. Cuộc đời của ông chỉ biết phục vụ, phục vụ và phục vụ, chí công vô tư, xả thân vì nước.” 14

Ngoài đức tính cương trực và thanh liêm giống như hai Tướng Thắng và Chinh, Tướng Thanh còn một đặc điểm nữa là gần gủi và chăm lo cho dân rất nhiều trong thời gian ông đảm nhiệm chức vụ Tỉnh Trưởng tại 2 tỉnh Long An (1961) và Gò Công (1963). Do đó mới có một chuyện xảy ra như sau ngoài sức tưởng tượng của mọi người như trong lời kể lại của chính Chuẩn Tướng Hoa Kỳ William R. Desobry (1918-1996), Cố Vấn Trưởng Vùng IV:“Vị Tướng Cố Vấn Quân Đoàn IV đã kể chuyện Tướng Thanh được ái mộ như thế nào: Trong một dịp, lúc đó Tướng Thanh còn làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV ở Cần thơ, ông cùng vị Tướng Cố Vấn bay lên Bản Doanh BTL Sư Đoàn 7 Bộ Binh ở Mỹ Tho. Hai vị Tướng ăn cơm trưa một cách kín đáo trong một nhà hàng ở Thị Xã; người ta xầm xì rỉ tai và mọi người cuối cùng rồi cũng hay tin. Dân chúng và binh sĩ ùn ùn kéo đến chào mừng vị Tư Lệnh cũ của họ. Trong suốt cả tiếng đồng hồ, Tướng Thanh phải gật đầu, bắt tay liên tục cả trăm người.” 15

Ngoài đức tính cương trực, thanh liêm, lúc nào cũng chăm lo cho đời sống của binh sĩ và dân chúng trong vùng trách nhiệm của mình, Tướng Thanh còn được cấp dưới kính trọng vì sự dũng cảm gần như huyền thoại của ông trong trận mạc.

 Ông là một trong số rât ít những tuớng lãnh của VNCH được Chính phủ Hoa Kỳ ban thưởng huy chương cao quý Silver Star khi đã là một tướng tư lệnh vùng như chúng ta thấy trong bản tuyên dương sau đây:

alt


Bản Tuyên Dương Kèm Theo Huy Chương Silver Star Trao Tặng Thiếu Tướng
Nguyễn Viết Thanh Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 Do Hành Ðộng Dũng Cảm Phi Thường


Ngày 24-2-1969 Tại Tân Châu(Xin tam dịch sang Việt ngữ như sau: “Tồng Thống Hoa Kỳ, được phép do Ðạo Luật của Quốc Hội ngày 9-7-1918, hân hạnh ban thưởng huy chương Ngôi Sao Bạc cho Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vì sự dũng cảm phi thường trong hành động vào ngày 24-2-1969, gần Tân Châu, trong lúc đang phục vụ với tư cách Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Vào ngày hôm đó, Chi Ðội A, thuộc Chi Ðoàn 1 của Thiết Ðoàn 12 Kỵ Binh và Ðại Ðội 226 Ðịa Phương Quân đụng nặng với Tiểu Ðoàn Mười Trí. Việt Cộng đã bắt đầu cuộc tấn công ác liệt với rốc-kết, bích kích pháo, và các súng liên thanh nhỏ vào cánh phải của đơn vị kỵ binh. Tướng Thanh phản ứng ngay lập tức bằng cách thiết lập liền một căn cứ yểm trợ hỏa lực và sau đó ra lệnh cho cạnh trái phản công để tái lập thế trận. Ðịch quân phản công và đẩy lui quân bạn. Hoàn toàn bất kể sự an nguy của bản thân, Tướng Thanh xông lên giữa trận, kêu gọi và cỗ vũ binh sĩ của mình, tiếp đó ông sử dụng một thiết vận xa để tiến về phía Ðại Ðội 226 Ðịa Phương Quân, tập họp họ lại và ra lệnh phản công. Tướng Thanh từ trên nóc chiến xa chỉ huy cuộc phản công mãnh liệt vào địch quân. Ðịch quân bị đẩy lui với rất nhiều thương vong, và quân ta chiếm lại trận địa. Sư hiện diện của ông tại mặt trận, vào lúc quyết định nhứt của trận đánh, là tác nhân trực tiếp khôi phục lại sức chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sự anh dũng nổi bật trong hành động của Tướng Thanh phản ánh rõ rệt công trạng của ông cũng như của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.”). 

Ngày 2-5-1970, lúc 1 giờ 40 trưa, trong khi đang thị sát mặt trận tại biên giới Việt-Miên, ông đã tử nạn khi chiếc trực thăng chở ông bị rớt vì đụng phải một chiếc trực thăng Cobra. Ông được Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu truy thăng lên cấp Trung Tướng và truy tặng Ðệ Nhị Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.

Tứ Trưởng 
Vị tướng được kể tên thứ tư là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (1929-2007)
https://s-media-cache-ak0.pinimg.com/236x/81/f6/cc/81f6cc523636fa3e3e28a6b19ae12681.jpg
Ông sinh ngày 13-12-1929 tại tỉnh Bến Tre (sau đổi tên là Kiến Hòa), theo học Khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, mãn khóa ngày 1-6-1954 với cấp bậc Thiếu Úy, tình nguyện vào Binh chủng Nhảy Dù, và là một Trung Ðội Trưởng của Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù. 

Ông đã lần lượt thăng cấp như sau:16·
Thăng cấp Trung Úy ngày 1-12-1955 ·
Thăng cấp Ðại Úy năm 1961 ·
Thăng cấp Thiếu Tá năm 1964 ·
Thăng cấp Trung Tá tháng 4-1965 ·
Thăng cấp Ðại Tá nhiệm chức ngày 19-6-1966 ·
Thăng cấp Chuẩn Tướng nhiệm chức ngày 4-2-1967 ·
Thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức ngày 3-6-1968 ·
Thăng cấp Trung Tướng nhiệm chức ngày 1-11-1971 .
Ông nổi tiếng là một tướng lãnh rất gương mẫu về quân phong, quân kỷ, rất tận tụy với trách nhiệm, và luôn luôn có mặt tại những điểm nóng trong khu vực thuộc trách nhiệm của mình, như đoạn văn mô tả sau đây: “Tư-Lệnh Quân-Ðoàn I & Quân-Khu I Ngô Quang Trưởng được hầu hết mọi người khâm-phục. Ông đã dành nhiều tâm-trí, công-sức, và thì-giờ vào các cuộc hành-quân hơn là vào công việc văn-phòng. Ông thường-xuyên mặc chiến-phục, đội mũ sắt, mang áo giáp, bay đến tận từng đồn , chốt khắp Quân-Khu, để quan-sát, nghiên-cứu tình-hình tại chổ, và kiểm-tra tác-phong, kỷ-luật của các cấp quân-nhân.
Bản-thân ông ít thích truy-hoan, nên cấm sĩ-quan thuộc quyền đến khiêu-vũ ở các nhà hàng ca vũ nhạc, khiến các Tỉnh-Trưởng và Thị-trưởng cấm luôn cả các phòng trà ca-nhạc tổ chức khiêu-vũ cho bất cứ giới khách hàng nào.”
17 

Ông cũng nổi tiếng là một tướng lãnh trong sạch, thanh liêm, và không dung túng cho cấp dưới làm bậy, xâm phạm tài sản của dân chúng, như trong giai thoại sau đây:
“Trong giữa năm 1974, Ông đã có một hành động rất ngoạn mục. Lính của một sư đoàn tại vùng I đã lùa một đàn bò của dân chúng, đem cất giấu tại thung lũng Quế Sơn. Khi nghe dân chúng tố cáo, ông đích thân bay đi tìm và đem trao trả cho khổ chủ. Số bò còn thiếu, ông trừ lương từ Trung Ðoàn Trưởng đến binh sĩ, lấy tiền mua bò trả đủ số cho dân, không dung dưỡng bao che các việc làm mờ ám của thuộc cấp, như một số các vị chỉ huy khác.” 18


Ông cũng là một trong số rất ít các tướng lãnh hoàn toàn không có tham vọng chính trị và không bao giờ dính líu vào các âm mưu, biến cố chính trị. Ông dành toàn thời gian cho quân vụ. Cũng như Tướng Thanh, Tướng Trưởng là một trong số ít các vị tướng lãnh của QLVNCH đã chỉ huy các đơn vị tác chiến từ cấp thấp nhứt đến cấp cao nhứt: · Trung đội trưởng: tháng 7-1954 (một trung đội của Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù) · 

Ðại đội trưởng: đầu năm 1955 (Ðại Ðội 1, Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù) · Tiểu đoàn trưởng: năm 1961 (Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù) · Tư lệnh sư đoàn: năm 1966 (Sư Ðoàn 1 Bộ Binh) · Tư lệnh quân đoàn: năm 1972 (Quân Ðoàn IV và Quân Ðoàn I) Ông đã tham dự nhiều trận đánh quan trọng khi còn phục vụ trong Binh chủng Nhảy Dù, nhưng nổi tiếng nhất là trận Hắc Dịch vào tháng 2-1965. Lúc đó ông còn mang cấp bậc Thiếu Tá và là Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù.

Hắc Dịch là một mật khu của Công Trường 7 (tức Sư Ðoàn 7) của Việt Cộng nằm trong một khu rừng ở phía Bắc Núi Ông Trịnh thuộc tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa). Cuộc hành quân tấn công vào Hắc Dịch do Bộ Tư Lệnh Vùng III tổ chức để càn quét các lượng Cộng quân đã gây thiệt hại nặng cho Tiểu Ðoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) trong trận Bình Giả (gần khu vực mật khu Hắc Dịch, vào cuối năm 1964 đầu năm 1965). 

Cuộc hành quân này được đặt tên là Chiến dịch Nguyễn Văn Nho (đặt theo tên của vị Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 4 TQLC đã tử trận trong trận Bình Giả) và bắt đầu vào ngày 9-2-1965. Tham gia cuộc hành quân có Chiến Ðoàn II Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Trương Quang Ân (về sau thăng cấp Chuẩn Tướng, làm Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, và tử nạn trực thăng vào ngày 8-9-1968). 

Chiến Ðoàn II Nhảy Dù gồm 3 tiểu đoàn trong đó Tiểu Ðoàn 5 của Thiếu Tá Ngô Quang Trưởng là chủ lực. Tiểu Ðoàn 5 đã gây thiệt hại rất nặng nề cho 2 Trung Ðoàn Q761 và Q762 của Công Trường 7, với “hằng trăm xác cộng quân tràn ngập chung quanh tuyến phòng thủ, đầy dẫy hằng trăm vũ khí đũ loại từ AK47, súng trường CKC, súng chống chiến xa B40, B41 đến trung liên nồi, đại liên 12.8 ly, cối 61 ly, đạn dược quân trang quân dụng nhiều vô kể.” 19 

Thiếu Tá Ngô Quang Trưởng được vinh thăng lên Trung Tá đặc cách tại mặt trận và được ban thưởng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương. Sau trận này, ông rời Tiểu Ðoàn 5 về làm Tham Mưu Trưởng Lữ Ðoàn Nhảy Dù, và qua năm sau, 1966, khi Lữ Ðoàn Nhảy Dù được nâng lên thành Sư Ðoàn, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Phó Tư Lệnh. 

Tuy nhiên, đối với gần như tất cả quân dân VNCH, ông nổi tiếng nhứt về chiến công giữ vững được Huế và tái chiếm Quảng Trị trong trận Tổng Tấn Công của Cộng sản vào Mùa Hè năm 1972 khi ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn I thay thế Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Giữa trưa ngày Thứ Năm, 30-3-1972, trong Mùa Lễ Phục Sinh, Cộng quân bắt đầu cuộc Tổng Tấn Công trên khắp lãnh thổ của VNCH. Riêng tại vùng giới tuyến ngay phía Nam vĩ tuyến 17, sau một loạt pháo kích dữ dội, 3 sư đoàn chủ lực của Bắc Việt (các Sư Ðoàn 304, 308, và 320B), vượt Vùng Phi Quân Sự, tấn công vào phía Bắc và phía Tây của tỉnh Quảng Trị. Phòng thủ lãnh thổ của tỉnh Quảng Trị là trách nhiệm của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh dưới quyền tư lệnh của Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai (tốt nghiệp Khóa 10 Trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt), gồm có 3 trung đoàn (2, 56 và 57) và được tăng viện với 2 lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến (Lữ Ðoàn 147 TQLC và Lữ Ðoàn 258TQLC). 

Tất cả các căn cứ đóng quân và căn cứ hỏa lực của Sư Ðoàn 3 lần lượt thất thủ rất bi thảm, trong đó có vụ đầu hàng của cả Trung Ðoàn 56 tại trại Carroll dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Phạm Văn Ðính (tốt nghiệp Khóa 9, Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, năm 1960) làm chấn động QLVNCH và Ðồng Minh. Ngày 1-5-1972, tỉnh Quảng Trị thất thủ, Sư Ðoàn 3 Bộ Binh tan rã, tháo chạy về Huế ở phía Nam, dân chúng thạy theo, bị địch quân truy kích rất tàn bạo, tạo ra “Ðại Lộ Kinh Hoàng”trên đoạn Quốc Lộ 1 giữa Quảng Trị và Thừa Thiên (Huế), và kế tiếp gây ra cảnh hỗn loạn ngay trong thành phố Huế, với một số binh sĩ QLVNCH rời bỏ đơn vị, vô kỷ luật, cướp bóc , hà hiếp dân. Trong cảnh hỗn loạn này, người dân Huế còn có thêm nổi lo sợ Huế có thể sẽ lại rơi vào tay Cộng quân và họ nhớ lại trong kinh hoàng vụ tàn sát hồi Tết Mậu Thân 1968, và họ không còn cách nào khác hơn là tìm mọi cách thoát ra khỏi Huế, làm cho tình hình rối loạn tại Huế càng tệ hại thêm.

 Ngày 3-5-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm Trung Tướng Ngô Quang Trưởng làm Tư Lệnh Quân Ðoàn I thay cho Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Ngay buổi chiều hôm đó, Tướng Trưởng cùng bộ tham mưu của ông bay ra Huế liền lập tức. Ngày hôm sau, ông ban hành 2 lệnh quan trọng:
1) Thiết lập Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn I ngay tại phía Bắc thành phố Huế với nhiệm vụ chận đứng tất cả các cuộc tấn công của Cộng quân; và,
2) Tất cả quân nhân, lạc đơn vị, bỏ đơn vị, hay không còn đơn vị nữa đều phải lập tức trình diện tại những nơi có các cấp thẩm quyền quân sự; quân nhân nào bất tuân lệnh này sẽ bị bắn bỏ tại chổ.

Trật tự lập tức được vãn hồi ngay. Ðồng thời, dân chúng Huế rĩ tai nhau là “Tướng Trưởng đã về” và tất cả mọi người yên tâm không bỏ chạy nữa. Chuyện này không có gì lạ vì người dân Huế hết sức tin tưởng Tướng Trưởng vì họ đã biết quá rõ tính cương quyết và tài dụng binh của ông trong Trận Mậu Thân 1968 khi gần như toàn thành phố Huế đã lọt vào tay Cộng quân ông vẫn tiếp tục chiến đấu cùng với quân nhân các cấp của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh mà ông là Tư Lệnh và giữ vững được tổng hành dinh tại Mang Cá trong Thành Nội Huế, và sau đó phản công giải phóng Huế. 

Trong suốt lịch sử của VNCH và chiến tranh Việt Nam, chưa bao giờ có hiện tượng này: một cá nhân có thể làm thay đổi diễn tiến của cuộc chiến một cách rõ rệt như vậy. Sau khi ổn định tình hình và chận đứng được cuộc tấn công của Cộng quân vào tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế, Tướng Trưởng lập tức lên kế hoạch phản công để chiếm lại Quảng Trị.20 Ðịch quân cố thủ trong Cổ Thành Quảng Trị chống trả mãnh liệt. 

Tướng Trưởng phải sử dụng đến 2 đại đơn vị thiện chiến nhứt của QLVNCH là Sư Ðoàn Nhảy Dù và Sư Ðoàn TQLC để tấn công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Trận đánh này trở thành trận đánh gây thương vong nhiều nhứt cho cả 2 phía trong Chiến tranh Việt Nam. Sau cùng chính các binh sĩ của Ðại Ðội 2, Tiểu Ðoàn 3, Lữ Ðoàn 147 TQLC đã thượng kỳ VNCH trên Cổ Thành Quảng Trị “vào lúc 12 giờ 45 ngày 16/9/1972 sau 51 ngày đêm nhận lãnh trách nhiệm mà Sư Ðoàn Dù giao lại và sau 78 ngày cuộc Hành quân tái chiếm Quảng trị được khởi sư.”21

Khả năng lãnh đạo và điều quân ở cấp đại đơn vị của Tướng Trưởng không phải chỉ nổi tiếng trong hàng tướng lãnh của QLVNCH mà nay cả các cấp tướng lãnh của quân đội Hoa Kỳ đã từng tham chiến tại VNCH cũng đều khâm phục. Lời phẩm bình sau đây của một tác giả Mỹ đã mô tả một cách ngắn gọn nhưng vô cùng chính xác về con người và tài năng quân sự của Tướng Trưởng:
“He was considered one of the most honest and capable generals of the South Vietnamese army during the long war in Southeast Asia. General Bruce Palmer described him in his book The 25-Year War as a “tough, seasoned, fighting leader” and “probably the best field commander in South Vietnam.22 

(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Ông được xem như là một trong những vị tướng lãnh lương thiện nhứt và có khả năng nhứt của quân đội Nam Việt Nam trong cuộc chiến dài tại Ðông Nam Á. Trong tác phẩm “Cuộc chiến tranh 25 năm” của ông, Tướng Bruce Palmer [là Trung Tướng Phó Tư Lệnh MACV dưới quyền tư lệnh của Ðại Tướng Westmoreland] mô tả Tướng Trưởng như là một nhà lãnh đạo cứng cỏi, dày kinh nghiệm, và, có lẻ là vị tướng cầm quân giỏi nhứt của Nam Việt Nam.”).

Sau ngày 30-4-1975, Tướng Trưởng định cư tại tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ. Ông mất ngày 22-1-2007 tại thành phố Fairfax, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ và tang lễ của ông đã được cộng đồng người Việt trong vùng tổ chức rất trọng thể với đầy đủ lễ nghi quân cách dành cho một tướng lãnh của QLVNCH. Theo ý nguyện của ông, tro hài cốt của tướng quân Ngô Quang Trưởng đã được gia đình ông mang về Việt Nam và rải trên Ðèo Hải Vân.23
Thay Lời Kết

Lịch sử VNCH chỉ khoảng 20 năm và gần như lúc nào cũng ở trong tình trạng chiến tranh. Trong dân chúng, gần như không có gia đình nào không có con em trong quân đội. Càng gần cuối cuộc chiến, vai trò của các tướng lãnh ngày càng quan trọng hơn. Một số không nhỏ các tướng lãnh đã tham nhủng và làm giàu, nhiều khi là trên xương máu của chính binh sĩ dưới quyền mình. Dân chúng rất bất mãn với tình trạng tham nhủng này. 

Do đó họ đặc biệt quan tâm theo dõi các vị tướng trong sạch thanh liêm, và, sau cùng, đã “xếp hạng” 4 vị tướng trong sạch nhứt của QLVNCH: ‘Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng.”Cả 4 vị tướng được dân chọn đều rất xứng đáng với lòng tin của dân chúng VNCH.
__________________________
Ghi Chú:
1. Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy, Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.California: Hương Quê, 2011. Tr. 203-204.
2. Những Giai Thoại Sạch của Tướng Thắng, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.generalhieu. com/ndthang-u.htm
3. Clarke, Jeffrey J., United States Army in Vietnam: advice and support: the final years, 1965-1973. Washington, D.C.: U.S. Army Center of Military History, 1988, tr. 256.
4. “CIA report on the Situation in South Vietnam as of 10/24/66,” tài liệu mật của CIA, đề ngày 24-10-1966, giải mật ngày 4-3-1994, gồm 15 tr., có thể truy cập trực tuyến và toàn văn từ cơ sở dữ liệu Declassified Documents Reference System (DDRS), các tr. II-1 và II-2.
5. “CIA report on the Siituation in South Vietnam covering period 10/31-11/6/66,” tài liệu mật của CIA, đề ngày 7/11/1966, giải mật ngày 16/12/1993, gồm 24 tr., có thể truy cập trực tuyến và toàn văn từ cơ sở dữ liệu DDRS, các tr. II-1 và II-2.
6. Lâm Vĩnh Thế, Việt Nam Cộng Hòa, 1963-1967: những năm xáo trộn. Hamilton, Ont.: Hoài Việt, 2010. Tr. 192.
7. Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy, Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sđd, tr. 127-128.
8. Nguyễn Ðức Thắng, Phan Trọng Chinh, Lê Minh Ðảo, Lý Tòng Bá, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://vanghe.blogspot. ca/2011/09/ng…-chinh-le.html
9. Tưởng nhớ Trung Tướng Phan Trọng Chinh, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://vietnamcuongthinh. blogspot.ca…ong-chinh.html
10. Tướng Phan Trọng Chinh, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.generalhieu. com/ptchinh-u.htm
11. “Intelligence report on the situation in South Vietnam,” tài liệu mật của CIA, đề ngày 19-12-1966, giải mật ngày 16-6-1998, gồm 24 tr., có thể truy cập trực tuyến và toàn văn từ cơ sở dữ liệu DDRS, tr. II-4.
12. Ahern, Thomas L., Jr., CIA and the generals: covert support to military government in South Vietnam. Langley, Va.: CIA, 2009. Tr. 113.
13. Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy, Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sđd, tr. 199-202.
14. Nguyễn Mậu Quý, Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.generalhieu. com/nvthanh-u.htm
15. Hai vị tướng tác chiến giỏi: Ðỗ Cao Trí và Nguyễn Viết Thanh, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.banvannghe. com/a2347/tuon…ong-chuyen-ngu
16. Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy, Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sđd, tr. 235-237.
17. Lê Xuân Nhuận, Biến-loạn Miền Trung: hồi ký. Alameda, Calif.: Xây Dựng, 2012. Tr. 285.
18. Minh Dũng, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng: Tư Lệnh Quân Ðoàn I và Vùng I Chiến Thuật, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:http://www.luanhoan.net/danang/htm/danang10_12.htm
19. Trận Hắc Dịch: ngày 9 & 10/2/1965, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://nhaydu.com/index_83hg_files/l…ranHacDich.pdf
20. Ngô Quang Trưởng, The Easter Offensive of 1972. Washington, D.C.: U.S. Army Center of Military History, 1980. (Indochina Monographs). Tr. 15-77.
21. Giang Văn Nhân, “Tiểu đoàn 3/TQLC dựng cờ trên Cổ Thành Quàng Trị 15/9/1972,”trong Tuyển tập 2: hai mươi mốt năm chiến trận của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam (1954-1975). Santa Ana, Calif.: Tổng hội TQLC/VN tại Hoa Kỳ, 2005, tr. 438-450.
22. James H. Willbanks, “The most brilliant commander”: Ngo Quang Truong, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.historynet. com/the-most-b…ang-truong.htm
23. Hà Giang, Cố Trung Tướng VNCH Ngô Quang Trưởng đã về nhà, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đậy: http://aihuubienhoa.com/a1532/co-tru…e-nha-ha-giang

Lâm Vĩnh Thế
Ngày 30-11-2016


“Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng”
http://lhccshtd.org/LHCCSHTD_ IM/CV3SD/quankyLQVNCH_730x530. jpg https://s13.postimg.org/ 72go7nxrb/qlvnch_6dieu...



__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay"<

Hoan hô gia đình anh Vương Văn Thả


ĐÔNG HẢI: Vài kỷ niệm về=>Khu Rừng Lá Buông.

$
0
0
Forwarded Message -----

From:DONG-HAI NDH
Sent:Thursday, 11 May 2017, 14:34
Subject: Vài kỷ niệm về=>Khu Rừng Lá Buông.

Đã hơn 40 năm! Vào năm 1976, chúng tôi được chuyn t khám ln Chí Hoà đến tri Th Đc.  đây, qua nhiu du tích, trên thân cây, trên tường nhà giam...chúng tôi biết được đây là tri giam ca n tù chính tr trước 1975!

"Chúng tôi" là tp hp ca nhng thành phn đng phái, tình báo, các cp trong chính quyn cũ t Xã đến trung ương, dân biu Thượng-H Ngh Vin...ri rác là mt vài người nghi là"chng đi" trong lúc giao thi...

Tri Th Đc này được chia thành 2 khu, nam và n. Khu nam gm nhà 1, nhà 2 và nhà 3. Nhà 1 và 2 dính lin nhau là 2 căn nhà trt. Nhà 3 có tng trt và lu 1. Khu n nm ngay bên cnh, kín cng cao tường là khu mà hu hết là tình báo Ph Đc U (Thiên Nga) do ch (Thiếu Tá) Nguyn Thanh Thu làm đi trưởng. Tng cng 2 khu có khong 150 người...Tri giam thuc qun lý ca B Ni V (Công An qun lý) và người cán b trc tiếp ca tri chúng tôi thường gi là ông Sáu, ông thường nói ln tiếng và chúng tôi gi là"Ông Sáu La". Ông không phi t min Bc mà là người min Nam (Trung k?), là người ca Mt Trn Gii Phóng (MTGP) và hình như lúc đóông mang cp bc Trung Uý hay Thượng Uý Công An... 

Cui năm 1976 hoc đu năm 77, khu nam chúng tôi b gh nng, tri đt nhiên lnh hơn các năm trước rt nhiu, nhiu người b gh đến không thy da, ra sân, qun mình trong lp vi b, nm, ngi..phơi nng la lit và đt nhiên, cũng trong thi gian này nhiu người ngã qu, không th đng lên đi (triu chng thiếu vitamin B1 trm trng)...Mi s ri cũng qua đi vì ít tháng sau, chúng tôi được viết thư v gia đình và nhn được thuc men t gia đình và đa ch được ghi trên bì thư là Tri Th Đc 16NV...

Khong gia năm 1977, có khong vài chc người - trong đó có tôi - đt ngt được đưa v"Khu Rng Lá Buông" này. Lúc đó ch là "Khu Rng Lá Buông", không người, không nhà...Chúng tôi được lnh khai hoang, ly "mt bng". Ban ngày thì cht ng các cây buông, ban đêm ngi dính chùm vào nhau, ly lá buông ph li và...ng gia sương tri đôi khi mưa gió...ban đêm nếu mun đi v sinh thì c hô to gia đêm: "Tôi tên...xin đi I..." và dĩ nhiên, 24/24 "cán b bo v" ôm súng đng "bo v t b"...

Thế ri, chúng tôi cũng dng được "căn nhà" đu tiên, làm khuôn mu cho nhng căn kế tiếp đ to thành K1 ca tri Z30D, căn c 5 Rng Lá, Hàm Tân, Bình Tuy. "Căn nhà" đó cha được ti 120 người; mái lá buông, vách tre l, gm li đi  gia, song song 2 bên là 4 dãy sp ng, 2 s dưới và 2 s trên. 2 sp dưới cách mt đt khong na thước và 2 sp trên cách 2 sp dưới khong 1.5m. Sp nm được kết ni bi nhng cây tre l ô ch làm 2, lt úp và buc vào sườn sp bng lt tre...Chúng tôi t"xây nhà tù" cho chính chúng tôi!Đêm đu tiên được nm ng trên nhng sp tre l  này là đêm ng"thoi mái và sung sướng" như chưa tng được ng thoi mái và sung sướng trong đi bi sau c tháng ng ngi gia rng buông sương gió vi lá buông ph kín nhưng mui..."chp chùng".

Thế ri, K1 được thành lp vi hàng tre l  bao quanh và vi cán b trc tri là ông Sáu La. Các anh em t ThĐc 16NV và Long Giao, Sui Máu Biên Hoà...ln lượt được chuyn ti. K1 có khong 10 "căn nhà"; 1 trm Y tế và 1 nhà n (đi ch Thu). Trưởng trm Y tế là anh Y tá Thanh, nhân viên gm Y sĩ Đi Tá Nguyn Văn Hc, "Tiến sĩ Y khoa" Tôn Tht Hưng (tôi đ Tiến sĩ Y khoa trong ngoc kép vì có người cho rng anh Hưng mo nhn). 

T Long Giao, Sui Máu Biên Hoà...là thành phn "Trình din Hc Tp Ci To" gm các sĩ quan cp Uý và cp Thiếu Uý Cnh Sát. Nơi đây tôi được gp Biên Tp Viên Trn Ngc Ánh (Đi Uý Cnh Sát) b bt làm tù binh trong trn Bình Long, Phước Long (?) t năm 1974 (?). Long Giao, Sui Máu Biên Hoà...(và t nhng tri khác được chuyn đến sau này [c Hoàng Liên Sơn, Nam Hà...v..v.]) đu do "BĐi Qun Lý" nên sinh hot trong các tri đó có v thoi mái hơn nhng tri do B Nôi V Qun Lý (Công An "Bò Vàng") nên chúng tôi cũng được hưởng s thoi mái đó t khi nhóm do "BĐi Qun Lý" đến và nhp chung. Tđó, chúng tôi cũng được "nu nướng" thc ăn như rau rng hoc nhng gì bt được t rng và được thăm nuôi mi 3 tháng 1 ln nếu "hc tp ci to tt". đây, tôi cũng xin m mt du ngoc v"Trình din đi hc tp ci to" và thành phn "b bt" trong K1 ngày. Chúng thường tôi "gho" các anh "Trình din đi hc tp ci to" là"Đóng tin xin đi tù" vì vào năm 1975. Sĩ quan cp Úy phi đóng mt s tin và mang theo đ dùng cá nhân đến nhng đa đim trình din "làm th tc" đ được đi hc tp 1 tun. Sĩ quan cp Tá thì cũng thế nhưng thi gian hc tp là 1 tháng...

Cũng trong năm 1977 đó, ti K1 tôi được thy anh Võ Văn Tưng (Trung Uý sưđoàn 7 hay 9 gìđó); anh b nht trong mt "thùng đn" đ sân K1. Khi được dt đi tm, tôi thy anh Tưng xương  gn c, trên ngc và xương 1 chân nm lòi ra ngoài, da d xanh xao, bước thp, bước cao chm chp. Nghe nói rng, sau khi trình din vào hc tp ci to, anh đòi chính quyn phi thc hin 1 điu khon nào đó trong Hip đnh Paris 1973 là"không tr thù (cm tù) đi phương" và t đó b nht riêng trong "thùng đn" và 1 đêm nào đó, người ta nghe thy 1 băng đn AK bn vào "thùng đn" ca anh Tưng; sáng ra, anh em thy máu chy ra ngoài đng cng li như sương sâm nhưng anh Tưng vn sng dù không được chăm sóc y tế (?)...Ngày tôi được v (cui năm 1982) anh Tưng vn "sng trong thùng đn" dù trước đó, nhiu ln, các "cán b" đã đến và nói vi anh đi khái là: "Anh ch cn lên tiếng rút li li nói đó (v Hip đnh Paris) thì anh sđược ra khi thùng đan, người nhà sđến thăm ngay" nhưng...anh Tưng vn không đng ý. Tôi có lén nói chuyn vi anh mt ln và nhn thy hình như tâm trí ca anh không còn bình thường lm do thi gian quá dài trong "thùng đn"...

V vic nm trong "thùng đn" thì tôi cũng có kinh nghim bn thân mình tuy thi gian rt ngn. S là mt ngày vào bui giao thi ca năm 1975 đó, t nhiên có khong hơn 10 người trên 3 chiếc xe díp vào nhà tôi, dùng dây thng trói 2 tay tôi ra sau, phn dây còn li qun quanh người tôi t tht lưng lên ti ngc, sau li ln tiếng ca mt người trong nhóm: "Bó nó li"; h lc soát khp trong nhà tôi, xong, h dùng khăn bt mt tôi li, dn ra xe và đi...vào "thùng đn" nm trong khuôn viên xã Phú Th Hoà, Qun Tân Bình, Gia Đnh. Cái "thùng đn" này bng st, làm tăng sc nóng ban ngày và tăng đ lnh  ban đêm. Ngày nóng ca cái nóng x nhit đi. Đêm lnh và "chiến đu" vi by mui đói; mt bàn chân được "thò" ra ngoài qua 1 cái l duy nht 1 cnh bên trên sàn thùng đn và"huyn" t bên ngoài (huyn=cùm) vi mc đích là h thy bàn chân còn đó thì người tù còn đó...khong 1 tháng sau thìđược ra khi thùng đn vào 1 phòng riêng bit, trong đó không có gì c ngoài 1 cái bô và cũng khong 1 tháng sau thì v khám ln Chí Hoà...vìđược min chết vàđược đi "hc tp ci to"...

Tôi b bt và phi đi ci to hơn 7 năm vì mt ti-không-phi-ti. S là ngày y, trước 1975, sinh viên thiên t hot đng quá mnh trong các Đi hc SaiGon, thi Thiếu Tướng Nguyn Khc Bình mà Chun Tướng Hunh Thi Tây làm Trưởng khi Đc Bit (PhĐc y Trung Ương Tình Báo) vi các nhân viên "Phượng Hoàng", "Thiên Nga"...là nhng nhân viên tr, có dáng hc tròđược đưa vào gi làm sinh viên trong chiến dch "n Đnh Đi Hc"..."H" thy tôi thường đi chung vi các sinh viên gi ny (dĩ nhiên, lúc đó tôi không biết "các bn" tôi là"sinh viên gi") mà bt tôi. Có l sau này hđã biết tôi là"sinh viên tht", bi tôi được tha sau hơn 7 năm nhưng nhng b"sinh viên githì mười my năm chưa "nhúc nhích"...


Nhân đây, tôi cũng mun nói v các "Hi Cu Tù Nhân Chính Tr" hi ngoi...Tôi vượt biên vàđược đnh cư ti Úc năm 1983 và thy ti Úc có "Hi Cu Tù Nhân Chính Tr". Trong Hi, t Hi Trưởng đến thành viên hu hết là thành phn "Trình Din Ci To" mà chúng tôi thường gho là"Đóng tin xin đi tù" nhưđ cp trên?! Hu hết đu là cu quân nhân?! Hi nên có danh xưng là Hi Cu Tù Nhân Cng Sn Vit Nam mi đúng? Làm sao li là "Hi Cu Tù Nhân Chính Tr"?! Có hot đng chính tr và b bt tùđâu mà li là"Tù Nhân Chính Tr"? Nên danh chính thì ngôn mi thun?!

Tôi được v sau Nhc Sĩ Vũ Thành An và Nhà Văn Duyên Anh-Vũ Mng Long...

Đông Hi-Nguyn Đc Hin
N.S.W 5/2017  

---------- Forwarded message ----------
From: châu nguyen thuy chau
Date: 2017-04-29 10:34 GMT+10:00
Subject: Fwd: ​ Khu Rừng Lá Buông.
(Khu Rừng Lá Buông )

Xin kính dâng một nén hương lên hương linh cố Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai, một vị Tướng cùng hàng triệu quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã một thời lẫy lừng dưới lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.

Khu rừng trưa nay thật tĩnh mịch, có lẽ vì nó nằm khuất sau một dẫy những hàng cây Buông và xa hẳn khu vực sản xuất và lao động của các đội bên hình sự. Nơi đây chỉ có một căn chòi nhỏ được cất lên tạm thời với thân cây và lá rừng như những căn chòi khác, nhưng tôi thấy nó thật đặc biệt bởi vì đó chính là “trụ sở” của đội 23, nơi chúng tôi vào để tạm dùng bữa trưa đạm bạc và nghỉ lưng mỗi ngày. Căn chòi lá cây rừng đơn sơ đó chỉ đủ che những trưa nắng Hè gay gắt oi bức, nhưng không đủ che những khi mưa rừng đổ ập xuống, và những người tù cuối cùng, dù ngồi trong căn chòi, vẫn phải dùng tấm nylông của mình để tránh những giọt mưa nặng hạt đang quất ngang khu rừng hoang vắng không một bóng người.

Họ là những người tù chính trị, tất cả hai mươi người còn lại sau đợt thả đầu năm 1992 tại trại giam Hàm Tân Z-30D trong tỉnh Thuận Hải, miền Nam. Hai mươi người bao gồm bốn ông tướng Lê Minh Đảo, Trần Bá Di, Đỗ Kế Giai, và Lê Văn Thân, cùng với mười sáu sĩ quan viên chức khác của nên Đệ Nhị Cộng Hòa, từ cấp bực đại tá cho đến một thiếu úy, hai dân sự, và một hồi chánh viên. Họ là những người cuối cùng còn sót lại trong tù “cải tạo” của Cộng Sản trong số hàng triệu quân dân cán chính VNCH đã phải vào các trại tập trung mà Hà Nội vội vã dựng lên sau “chiến thắng” nhanh chóng ngoài dự liệu vì Hoa Kỳ đã quyết định đơn phương bỏ rơi đồng minh Nam Việt Nam để bắt tay với Bắc Kinh. Trên vai mỗi người tù cuối cùng đó là mười bẩy năm kinh hoàng của những tra tấn, thù nghịch, nhọc nhằn, đầy mồ hôi, máu và nước mắt uất hận - mà kẻ “thắng trận” từ Hà Nội đã chủ trương thực hiện qua chiêu bài “Khoan Hồng Nhân Đạo”. 

Sau khi miền Nam sụp đổ ngày 30-4-1975, trong khi thế giới tưởng rằng các sĩ quan viên chức chế độ cũ sẽ được hưởng sự “khoan hồng” từ nhà nước chế độ mới, là lúc những quân dân cán chính chế độ cũ đang trải qua những năm tháng tối tăm, ô nhục nhất trong cuộc đời mình vì chính sách “khoan hồng” đó. Một chính sách thâm độc nhằm đánh lừa dư luận thế giới, trong khi ở trong nước ngấm ngầm tiêu diệt các tinh hoa của chế độ cũ qua hình thức bỏ đói, tra tấn cả tinh thần lẫn thể xác người tù qua lao động khổ sai và các lời nói và tuyên truyền và nhục mạ họ trong tù. Nhổ cỏ thì nhổ cả rễ, các cán bộ địa phương Cộng Sản còn kỳ thị, xách nhiễu, và trù dập gia đình những người tù này nữa ngoài xã hội. Ý đồ này cũng nằm trong sách lược của Hà Nội nhằm phá vỡ hết các căn bản gia đình của người dân ngõ hầu dễ cai trị theo đường lối mà họ vạch ra, và tận diệt các mầm mống chống đối ngay từ trong trứng nước.

Trong bốn năm cuối cùng tại trại Hàm Tân (1988-1992), tôi có dịp sống chung trong một khu vực với các ông tướng. Trước đó trong mười hai năm lưu đầy ngoài Bắc, chúng tôi và các ông tướng bị cách ly. Sau tháng 2-1992, đội 20 giải tán và được sát nhập vào đội 23 của mấy ông tướng và đại tá nên mỗi ngày chúng tôi cùng xuất trại đi lao động chung với các vị tướng và đại tá trong khu rừng lá Buông và trở nên thân thiết hơn. Hơn thế nữa, các đàn anh và huynh trưởng đều muốn chúng tôi đổi cách xưng hô nên từ đó chúng tôi gọi các vị tướng và đại tá của mình bằng “anh”, không còn gọi theo cấp bậc nữa, và tình huynh đệ chi binh lại càng gắn bó hơn.

Tháng 5 năm 1988, chúng tôi, chín mươi người tù cuối cùng còn ở lại trại Nam Hà ngoài Bắc sau hai đợt thả lớn vào tháng 9-1987 và tháng 1-1988, được chuyển trại vào trong Nam, hội nhập với khoảng trên sáu mươi người nữa còn trong trại Hàm Tân thành một trăm sáu mươi người tù cuối cùng sau 13 năm giam cầm. Trong bốn năm tại Hàm Tân, sau nhiều đợt thả lẻ tẻ, đến tháng 2-1992, chỉ còn lại đúng hai mươi người.

Trại Hàm Tân Z-30D là một trại giam khá đặc biệt và có lẽ không giống bất kỳ một trại giam nào khác của Cộng Sản. Trước năm 1975, nơi đây là vùng trú đóng và họat động của Việt Cộng (VC) thường được gọi là khu rừng Lá, mà VC vẫn thường từ khu rừng này ra ngoài lộ phục kích đặt mìn các xe đò, bắt thường dân vào trong bưng để tuyên truyền rồi thả về, nhằm gây thanh thế cho họ, và reo rắc sợ hãi và bất an trên các tuyến đường.

Sau năm 1975, các lán trại được sử dụng và mở rộng thành một trại giam khổng lồ có thể giam giữ nhiều ngàn người. Nhiều lán trại sau đó được thay thế bằng những buồng giam, những nhà giam kiên cố hơn bằng xi măng và gạch ngói, và dùng để giam cả tù hình sự lẫn tù chính trị. Đó là một trong những trại giam trong miền Nam nổi tiếng về hung bạo và có số lượng tù nhân chết nhiều nhất.

Khi chúng tôi từ miền Bắc chuyển trại vào trong Nam năm 1988 thì Hàm Tân đã như lột xác thành một trại giam đặc thù dưới sự chỉ huy của Thiếu Tá Nhu, một con người đã biết biến trại giam thành một nơi để kinh doanh thương mại. Chẳng bao lâu sau ông ta đã trở thành tỷ phú nhờ vào sức lao động và kinh doanh trên thân xác hàng ngàn người tù hình sự - cả nam lẫn nữ. Một nguồn thu lợi không kém phần quan trọng khác qua căng tin bán các thức ăn nước uống, và bán vé cho các tù nhân xem các loại phim chưởng của Đài Loan Hồng Kông vào mỗi tối, sau giờ lao động.

Khu vực dành cho tù chính trị nằm ngay bên trái khi vừa bước qua cổng trại, bao gồm hai buồng giam lớn, một nhà kho và một căn nhà trên thềm cao cuối dẫy. Chúng tôi ở trong hai căn buồng giam đó và các tướng ở trong căn nhà trên thềm. Đặc biệt căn nhà này có nhiều phòng nhỏ và nhiều giường cá nhân, mỗi ông tướng được ngủ trên giường, trong khi chúng tôi vẫn còn ngủ trên sàn xi măng hay ván gỗ. Mãi sau này khi chỉ còn 20 người cuối cùng, chúng tôi dời qua căn nhà kho và được cung cấp mỗi người một giường cá nhân, và sau 17 năm nằm đất mới được lên giường, là một cảm giác thật khó quên.

Một trong các kỷ niệm đáng tự hào của những người tù cuối cùng tại Hàm Tân là sự vị nể của vị chỉ huy trại giam này dành cho họ. Nhiều hôm các cán bộ trại và tù hình sự đều ngạc nhiên khi thấy Thiếu Tá Nhu có mặt tại cổng, khi các đội lao động về đang nhập trại, chờ đội 23 của Tướng Đảo để đến tặng cho các “bố” vài bao thuốc lá ngoại quốc để các “bố” hút cho vui. Hoặc các tự giác và trật tự của trại luôn lễ phép với bên tù chính trị và dành riêng ba hàng ghế đầu chính giữa cho tù chính trị đến xem phim miễn phí tại hội trường mỗi tối chiếu phim Hồng Kông hay Đài Loan, có thể hiểu ngầm là lệnh từ tay chỉ huy trường này. 

Trong khi hàng ngàn tù hình sự phải chen chúc nhau mua vé xem phim mỗi tối, vì đó là giải trí duy nhất cho họ, cả nam lẫn nữ, được ra khỏi buồng giam, ra ngoài trong vài tiếng đồng hồ ban đêm, ngồi bên nhau, thì các tự giác và trật tự luôn đứng sang một bên nhường đường cho chúng tôi ung dung vào xem, không hề bao giờ soát vé.

 Nhiều tối vào xem trễ, chúng tôi vẫn thấy ba hàng ghế đầu chính giữa luôn bỏ trống trong khi hàng ngàn tù hình sự ngồi chật bao quanh cả hội trường, Điểm đáng chú ý nữa là khu vực bên hình sự khóa cửa các buồng giam lúc 6 giờ chiều trong khi bên tù chính trị được ở ngoài sân cho đến 9 giờ đêm. Đầu năm 1992, khi chỉ còn 20 người, lần đầu tiên trong suốt 17 năm tù tội, cửa của căn nhà trên thềm dành cho các tướng và căn nhà kho dành cho chúng tôi đã không bị khóa bên ngoài. Đúng 9 giờ đêm, các cảnh vệ đi tuần bên ngoài hàng rào ra dấu cho chúng tôi vào buồng và khép cửa lại, họ không bao giờ tiến vào trong khu của tù chính trị. Đó là những sự thay đổi lớn lao 180 độ.

Trong bốn năm ở chung trong một khu với các vị tướng của mình, chúng tôi mới có dịp trò chuyện và hiểu về các niên trưởng của mình nhiều hơn sau mỗi ngày lao động. Trại phân chia khoảng 160 người tù cuối cùng này thành ba nhóm khác nhau. Một nhóm gồm các anh phụ trách chăn bò, nuôi heo hay trông coi lán trại thì ở ngoài trại giam. Nhóm thứ hai gồm các người dưới 55 tuổi và cấp bậc dưới đại tá thì xung vào Đội 20 với lao động nặng hơn. Nhóm thứ ba gồm những người trên 55 tuổi hay mang cấp bậc đại tá và tướng thì xung vào Đội 23 và lao động nhẹ hơn. Trong thời gian ở ngoài Bắc rất hiếm khi nào nhìn thấy hay nói chuyện được với các tướng, cho đến lúc cùng trong một khu tại Hàm Tân chúng tôi mới thực sự có dịp hàn huyên tâm sự với các niên trưởng và đàn anh này, nhất là khi chỉ còn 20 người cùng chung một đội 23.

Chúng tôi đã có dịp gặp Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, nói chuyện nhiều với Tướng Mạch Văn Trường, Tướng Khôi, Tướng Tất, Tướng Bá, nhưng thân thiết nhất vẫn là bốn tướng cuối cùng khi chúng tôi được sát nhập vào cùng đội 23 trong bốn tháng cuối cùng tại Hàm Tân. Nhiều buổi chiều, sau bữa ăn đạm bạc trong sân của tù chính trị, tôi thường thả hồn mình theo tiếng đàn và tiếng sáo của Tướng Lê Minh Đảo và Tướng Lê Văn Thân trong khi nắng đã tắt và bóng chiều dần xuống bao phủ khu rừng lá Buông. 

Có lúc hai Tướng Trần Bá Di và Đỗ Kế Giai bắc chiếc ghế đẩu ra sân cùng ngồi nghe hay đứng trên bực thềm nhìn xuống hai nghệ sỹ đang đàn và thổi sáo. Tướng Di bao giờ cũng nở nụ cười tươi tán thưởng và Tướng Giai luôn gật gù cười mỉm chi như vừa tìm ra được một điều gì rất lý thú. Một trong các bài hát tôi thích nhất là bài “Nhớ Mẹ” của Th/Tg Đảo và Đại Tá Đỗ Ngọc Huề. Lời nhạc như trải cõi lòng của người tù trên bước đường lưu đầy nhớ về Miền Nam thân yêu và nhớ về người mẹ già mỏi mắt trông chờ con nơi phương xa, trong một quê hương điêu linh khốn khổ vì giặc thù:

“Những chiều buồn trên đất Bắc, con hướng về Nam con nhớ mẹ nhiều. Mẹ ơi sao bao năm tháng cứ trôi cứ trôi cho bạc mái đầu. Quê hương điêu linh con vẫn khóc, trông chờ ngày về con vẫn thắp. Mẹ ơi mẹ biết không? Còn sống mãi trong con những lời mẹ cầm tay nói Nắng sẽ về đẩy lùi Bóng Tối, và Yêu Thương và Tự do sẽ còn mãi mãi, nhé con...nhé con...”

Nắng đã tắt trên những ngọn Buông, màn đêm đang phủ xuống núi đồi, thung lũng của khu rừng Lá, chim chóc đã bay về tổ, nhưng những người tù còn ngồi đây nghe khúc hát về Mẹ mà nhớ về Sài Gòn với một trái tim đã tan nát, nhớ về thủa nào oai hùng trên chiến trường, nhớ về một miền Nam đầy nắng ấm và tình người nay không còn nữa.

( Ảnh ,Tướng Đỗ Kế Giai )

( TG, Phạm Gia Đại )





__._,_.___

Posted by: AnNam 

An Lộc, chiến trường đi không hẹn

$
0
0

An Lộc, chiến trường đi không hẹn

"Hổ Xám" Phạm Châu Tài


(Viết cho những chiến hữu của tôi đã một thời vào sanh ra tử trên khắp chiến trường sôi bỏng để bảo vệ đất nước).


Tác Giả, Cựu Thiếu Tá Hổ Xám Phạm Châu Tài, cùng 2 cựu Sĩ Quan Võ Bị Dalat. Hình từ trái qua phải: Cựu Thiếu Tá Phạm Châu Tài, cựu Đại Tá Phan Văn Huấn (Khóa 10 VB, nguyên Liên Đoàn Trưởng LĐ 81 Biệt Cách Dù) và thi văn sĩ Quốc Nam (Khóa 22 VB, Chủ Tịch HĐQT An-Lộc Foundation, Tác giả 21 tác phẩm đã xuất bản trước & sau năm 1975, trong số này có 2 thi tập Tình Ca Lính Alpha Đỏ xb 1968 & Bản Thánh Ca Alpha Đỏ xb 2012). Photo by Việt Long.


Mùa hè năm 1972 đi qua như cơn ác mộng mà khi tỉnh dậy người ta vẫn còn bàng hoàng như đang mê sảng.

Mùa hè đến với những cơn lốc bạo tàn, với những trận cuồng phong kinh hãi, sẵn sàng huỷ hoại tất cả những gì gọi là sự sống của con người, mà những tiếng kêu thương, bi ai thống khổ nhất vẫn còn âm vang cho đến ngàn sau.

Mùa hè đến với bão lửa ngụt trời, bão lửa cuồn cuộn vút lên như hoả diệm sơn bao trùm khắp bầu trời Miền Nam Việt Nam, bão lửa hừng hực thiêu đốt muôn vạn sinh linh đang sống an lành, tự do phía Nam vĩ tuyến 17.

Ðau đớn thay, ác mộng kinh hoàng ấy, cuồng phong và bão lửa ấy lại do chính con người gây nên, con người mang nhãn hiệu Cộng Sản, lãnh đạo bởi một lũ người cuồng tín đã bán linh hồn cho quỷ đỏ đang ngự trị tại Hà Nội.

Người ta được biết, sau khi tiếp nhận sự chi viện khổng lồ không giới hạn về các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân nhất từ phía Cộng Sản Nga - Tàu, Hà Nội điên cuồng tung vào Miền Nam ba cuộc tấn công vũ bão vào Tỉnh Quảng Trị của vùng giới tuyến, vào Tỉnh Kontum của Tây Nguyên và vào Tỉnh Bình Long thuộc miền Ðông Nam Phần.

Cuộc chiến bùng nổ khốc liệt chưa từng xẩy ra từ ngày Cộng Sản phát động cuộc chiến tranh gọi là giải phóng vào thập niên 60. Lửa, máu, nước mắt hoà với bom đạn đã cầy xới và tràn lan khắp quê hương Miền Nam tự do, tuy nhiên Cộng Sản miền Bắc phải trả một giá rất đắt về hành động điên cuồng, dã man của chúng để nhận sự thất bại đắng cay: Quảng Trị vẫn đứng vững, Kontum vẫn kiêu hùng quật khởi và Bình Long vẫn anh dũng hiên ngang phất cao ngọn cờ chính nghĩa.

Trong chiến tranh, tấn công xâm chiếm mà không lấy được mục tiêu, bị thiệt hại nặng nề là thất bại hoàn toàn. Trái lại, phòng thủ quyết tâm chống trả, dù phải chấp nhận ít nhiều tổn thất hy sinh mà vẫn giữ vững phần đất quê hương thì được gọi là chiến thắng.

Với lý lẽ căn bản nêu trên, ba cuộc tấn công của Cộng Sản Bắc Việt vào mùa hè năm 1972 trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà thì Cộng Sản Việt Nam là kẻ chiến bại, và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà là người chiến thắng.

Phát động tấn công xâm chiếm vào đầu tháng 04 năm 1972, tính đến tháng 09 năm 1972, thiệt hại nhân mạng của Cộng Sản Bắc Việt được ước lượng khoảng 100 ngàn người!

100 ngàn vong linh của những người “sinh Bắc tử Nam” trở thành lũ âm binh lạc loài, vất vưởng tha hương mà gia đình họ không bao giờ biết được.

Giành lấy chiến thắng một cách kinh hoàng và oai hùng nhất trong ba cuộc tấn công của Cộng Sản Bắc Việt vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà có thể nói là chiến thắng Bình Long, mà trận chiến vô cùng khốc liệt đã bùng nổ tại Thị Xã An Lộc. Một tài liệu chính thức của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà được ấn hành sau mùa hè năm 1972 đã công bố: “Tại mặt trận An Lộc cuộc tấn công đầu tiên của quân Cộng Sản khởi đầu vào ngày 13-04-1972 bằng toàn bộ của các Sư Ðoàn 5, 7, 9 và Sư Ðoàn Bình Long với tổng số vào khoảng 50 ngàn người”. Cộng Sản ước tính sẽ đánh chiếm An Lộc từ 5 đến 10 ngày và dự trù ngày 20-04-1972 sẽ ra mắt chính phủ “Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam” tại thành phố An Lộc.

Thật vậy, lực lượng Cộng Sản Bắc Việt tại Bình Long, ngoài 4 Sư Ðoàn với quân số mỗi Sư Ðoàn là 10,400 người, còn có một Trung Ðoàn Ðặc Công, 2 Trung Ðoàn Pháo Binh và Phòng Không và hai Trung Ðoàn xe tăng. Hơn nữa, sự bổ sung quân số dễ dàng từ Mimot, Snoul bên kia biên giới Miên là nguồn nhân lực chính mà người ta khó ước tính được con số chính xác.

NHẬN DIỆN CHIẾN TRƯỜNG

An Lộc là quận châu thành Tỉnh Bình Long, cách thủ đô Sài Gòn khoảng 100 cây số về hướng Tây Bắc, với diện tích bề dài 1,800 thước và bề ngang đo được 900 thước, một Thị Xã nhỏ bé đìu hiu, chung quanh là rừng cao su ngút ngàn đến tận biên giới. Bình Long có ba quận hành chánh, cực Nam là quận Chơn Thành và cực Bắc là quận Lộc Ninh.

Quốc lộ 13, con đường huyết mạch nối liền từ Lai Khê của Tỉnh Bình Dương đi qua các quận lỵ, xã ấp của Tỉnh Bình Long. Cách An Lộc 18 cây số về hướng Bắc là Lộc Ninh và cách An Lộc 30 cây số về hướng Nam là Chơn Thành.

Từ Chơn Thành xuôi quốc lộ 13 về hướng Nam khoảng 30 cây số là Lai Khê, nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà.

Cơ sở hành chánh và quân sự Tỉnh Bình Long đặt ngay trong quận châu thành An Lộc dưới sự điều hành của viên Tỉnh Trưởng là Ðại Tá Trần Văn Nhựt.

Trước khi trận chiến bùng nổ, quận Lộc Ninh được tăng cường với Trung Ðoàn 9 thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, một khẩu đội pháo binh đặt tại căn cứ yểm trợ hoả lực Alpha cách Lộc Ninh khoảng 8 cây số về hướng Bắc và một Chi Ðoàn Thiết Giáp thuộc Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh Việt Nam Cộng Hoà. Tại An Lộc, ngoài một số Ðịa Phươhg Quân, Cảnh Sát, và các cơ sở hành chánh Tỉnh mà nhân số không quá 200 tay súng, còn có pháo đội 105 ly, Chi Ðoàn Thiết Giáp, Trung Ðoàn 7 thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, và Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân Ðể đánh chiếm Bình Long, Cộng quân cắt đứt quốc lộ 13 từ Lai Khê đi Lộc Ninh, đồng thời phong toả bầu trời Bình Long bằng một hệ thống phòng không để ngăn chặn sự can thiệp của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà.

TRẬN CHIẾN BÙNG NỔ

Ba giờ sáng ngày 05 tháng 04 năm 1972 Trung Ðoàn Pháo có bí danh E.6 bắn phủ đầu vào các cứ điểm phòng ngự của Trung Ðoàn 9 Bộ Binh do Ðại Tá Trần Công Vĩnh chỉ huy bằng hàng ngàn quả đạn pháo đủ loại, sau đó Cộng quân tung Sư Ðoàn 5 Cộng Sản Bắc Việt có xe tăng yểm trợ bắt đầu tấn công. Mặt khác, Cộng quân sử dụng Trung Ðoàn 272 thuộc Sư Ðoàn 9 Cộng Sản Bắc Việt phục kích quốc lộ 13 từ An Lộc đi Lộc Ninh để tiêu diệt đường rút lui của quân trú phòng.

Mặc dù có sự can thiệp hữu hiệu của Không Quân, căn cứ yểm trợ hoả lực Alpha, phi trường Lộc Ninh và cứ điểm quân sự của Trung Ðoàn 9 Bộ Binh bị tràn ngập sau hơn hai ngày chống trả mãnh liệt. Lộc Ninh được ghi nhận hoàn toàn mất liên lạc lúc 19 gìờ ngày 07-04-1972.

Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh kịp thời nhảy vào An Lộc với hai Tiểu Ðoàn của Trung Ðoàn 8, tăng cường cho mặt phòng thủ phía Bắc Thị Xã ngày 06-04-1972 và tuyên bố tử thủ An Lộc.

Hai tiếng tử thủ lần đầu tiên được nhắc nhở nhiều lần trong chiến tranh Việt Nam qua lời tuyên bố của vị Tướng Tư Lệnh chiến trường, biểu lộ ý chí sắt đá của người chiến binh Việt Nam Cộng Hoà, quyết tâm chiến đấu để bảo vệ, gìn giữ mảnh đất quê hương.

Hai tiếng tử thủ như lời thề cùng sông núi, lời hứa hẹn với tiền nhân đã ra công dựng nước và giữ nước.

Hai tiếng tử thủ đã làm rung động con tim nhân dân miền Nam và cả nước hướng về An Lộc !

Chiếm xong Lộc Ninh, Cộng quân tiến về phía Nam và bắt đầu tấn kích An Lộc rạng sáng ngày 13-04-1972. Thực ra kể từ ngày 08-04-1972, Cộng Sản Bắc Việt đã dùng pháo binh rót vào An Lộc, Chơn Thành và Lai Khê để cầm chân sự tiếp viện của Việt Nam Cộng Hoà.
LỰC LƯỢNG TĂNG VIỆN CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ

Lực lương đầu tiên được tăng viện đến Lai Khê ngày 05-04-1972 là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù do Ðại Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy gồm ba Tiểu Ðoàn và Pháo Đội Nhảy Dù.

Lực lượng tăng viện thứ hai là Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù do Trung Tá Phan Văn Huấn chỉ huy gồm 4 Ðại Ðội xung kích và 4 toán thám sát.

Ngoài ra, Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng Hoà quyết định sử dụng toàn bộ Sư Ðoàn 21 Bộ Binh từ vùng đồng bằng sông Cửu Long tăng cường cho mặt trận Bình Long, giải toả quốc lộ 13.

Ngoài quân bộ chiến nêu trên, Sư Ðoàn 5 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà đã yểm trợ cho chiến trường từ những ngày đầu chiến sự bùng nổ tại Lộc Ninh với những phi vụ tấn công và yểm trợ xuất phát từ căn cứ không quân Biên Hoà và Tân Sơn Nhất. Hai đơn vị Không Quân của Không Lực Hoa Kỳ có mặt tại Quân Khu III Việt Nam Cộng Hoà là Lữ Ðoàn 7 Kỵ Binh Không Vận và Lữ Ðoàn 1 Không Vận cũng góp phần vào việc yểm trợ cho chiến trường Bình Long một cách đắc lực và hữu hiệu.

Với nhiệm vụ cắt đứt quốc lộ 13 ngăn cản sự tiếp viện của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà từ Lai Khê, Sư Ðoàn 7 Cộng Sản Bắc Việt được tăng cường pháo binh và phòng không tổ chức chằng chịt các vị trí phục kích, chốt chặn, chốt kiềng, giật sập cầu, phá đường mong biến quốc lộ 13 thành một sạn đạo, có đi mà không đường trở lại.

Ngày 12-04-1972, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù mới đặt chân đến quận Chơn Thành sau 7 ngày chạm trán với Cộng quân để giải toả một khoảng đường không quá 30 cây số.


MỞ MÀN TRẬN CHIẾN TẠI AN LỘC

“Tiền pháo hậu xung” là một chiến pháp dùng để tấn kích một căn cứ quân sự, một đồn binh hay một trại lính có pháo đài, có công sự chiến đấu, có nhiều lớp rào kẽm gai làm chướng ngại vật và hệ thống mìn bẫy giăng mắc chung quanh.

An Lộc không phải là một căn cứ quân sự. An Lộc chỉ đơn thuần là một Thị Xã nhỏ bé, có nhà, trường học, bệnh viện và đường phố tấp nập người đi. An Lộc là một phố thị mà dân cư nhiều hơn lính chiến.

Áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung” để đánh chiếm An Lộc, Cộng Sản Bắc Việt đã hiện nguyên hình là loài quỷ đỏ điên cuồng bắn hàng ngàn quả đạn pháo 130 ly, 155 ly, súng cối 120 và hoả tiễn 122 ly vào phố thị đông người để sát hại dân lành vô tội

Pháo! Loại đạn vòng cầu có tầm phá hủy kinh khủng nhất đã rót liên tục vào Thị Xã, ngày cũng như đêm, pháo từng hồi, từng phút, từng giờ biến An Lộc bỗng chốc trở thành hoả ngục. Nhà cửa, nhà thờ, chùa chiền, cao ốc, bệnh viện tất cả đều thay hình đổi dạng, sụp đổ hoang tàn.

Trú ẩn trong nhà cũng bị thương vong, chạy ra đường cũng chết. Sự chết đau thương và đến bất chợt theo tiếng ầm vang của pháo, theo tiếng gió rít của tầm đạn đi. Sự chết hãi hùng, chết không kịp nhắm mắt, chết không toàn thây, chết vô thừa nhận đầy dẫy khắp nơi trên đường phố. Ngay khi mưa pháo thưa dần và chấm dứt, Cộng quân tung vào trận địa Sư Ðoàn 9 và Sư Ðoàn Bình Long với sự yểm trợ của chiến xa T54.

Tuyến phòng thủ phía Tây Thị Xã do Trung Ðoàn 7 Bộ Binh đảm nhiệm và phía Ðông do Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân án ngữ, chống trả mãnh liệt, khi thì dãn ra, lúc co cụm lại, nhưng vẫn đứng vững, trong khi tuyến phòng thủ phía Bắc do hai Tiểu Ðoàn thuộc Trung Ðoàn 8 vừa đến tăng cường đã bị chọc thủng. Ðặc công, xe tăng và quân bộ chiến Cộng Sản Bắc Việt tuôn vào thành phố như nước vỡ bờ. Ác chiến diễn ra trên thành phố, đạn bay súng nổ, thây người gục ngã, dân lành bồng bế, dìu dắt nhau bỏ chạy, chạy đi đâu để tránh thương vong… Nỗi khổ, nỗi lo và niềm hy vọng mong manh để được sống đã đến với người dân An Lộc sao quá bi thương, sao lắm đọa đầy!

Xe tăng Cộng quân rú gầm nhiều nơi trong thành phố, chạy ngang chạy dọc, tiếng xích sắt ken két nghiến trên đường tráng nhựa hoà lẫn với tiếng nổ ì ầm bắn ra từ đại bác 100 ly trên pháo tháp nhắm vào các cao ốc, và những bức tường nhà hiển hiện trên hướng tiến của chúng.

Trên bầu trời Thị Xã, Không Quân, bất chấp hiểm nguy, nhào lộn và len lỏi qua mạng lưới phòng không, tung ra những tràng đại liên và những quả bom chính xác vào vị trí giặc thù. Bom nổ làm rung chuyển thành phố như cơn địa chấn, từng cột khói đen bốc lên cao cuồn cuộn.

Giây phút nao núng ban đầu khi thấy xe tăng Cộng Sản xuất hiện tan biến nhanh chóng trong lòng những người lính tử thủ. Bây giờ đã đến lúc vùng lên bắn hạ những con quái vật đó, phải biến chúng thành những khối sắt bất động, không còn tác yêu tác quái nữa Một đoàn 4 chiếc tăng T54 từ hướng Bắc theo đường Nguyễn Trung Trực nối đuôi nhau tiến vào phía sau khu Chợ Mới. Một anh lao công đào binh tạo được công đầu bằng một quả lựu đạn tung vào thùng xăng phụ đèo sau đuôi xe tăng T54. Lựu đạn nổ, xe tăng bốc cháy! Việt Cộng từ trong xe tăng mở nắp pháo tháp chạy thoát ra ngoài bị thanh toán ngay tại chỗ, thây nằm vất vưởng bên thành xe. Chiếc thứ hai xuất hiện sát Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5. Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ Tư Lệnh Phó liền bắn một quả M.72 vào chiến xa T54. Vì bắn quá sát nên đạn M.72 không nổ, chiếc T54 bỏ chạy liền bị một chiếc trực thăng Cobra từ trời cao lao mình xuống phóng liền hai trái hoả tiễn trúng chiêc tăng đi đầu nổ tung. Ba chiếc tăng còn lại lúng túng, rú gầm trên khoảng đường bề ngang quá hẹp không xoay sở được, dễ dàng biến thành mục tiêu của hoả tiễn cầm tay M.72 được phóng ra từ quân trú phòng. Bây giờ người ta mới biết sức công phá mãnh liệt của loại hoả tiễn cầm tay M.72, một loại vũ khí chống tăng lợi hại mà bấy lâu nay bị người ta coi thường. Những chiếc tăng T54 đầu tiên bị bắn hạ tạo nên sự phấn khởi dây chuyền trong hàng ngũ quân trú phòng, họ xông vào xe tăng địch như một đợt thi đua lập chiến công. Hai khẩu pháo 105 ly của Thị Xã đặt tại sân vận động cạnh đại lộ Trần Hưng Ðạo hạ nòng bắn trực xạ vào xe tăng Cộng Sản, bắn lật tung pháo tháp xuống đất, bắn đứt xích, gẫy nòng và biến chúng thành những con cua rang muối, hừng hực đỏ lửa. Ðây là hai khẩu pháo cuối cùng của An Lộc đã bắn hết đạn trước khi tắt thở. Và bắt đầu từ đó, sự yểm trợ của hoả lực cơ hữu vào Thị Xã hoàn toàn bất khiển dụng.

Trận đánh khởi đầu từ mờ sáng đến xế chiều dưới ánh nắng chói chan của mùa hè vùng nhiệt đới, dưới sức tàn phá kinh hoàng của đạn bom, mà mỗi giờ mỗi phút đi qua đều mang theo hình ảnh của sự huỷ diệt.

Sự can thiệp của Không Quân gây ít nhiều thiệt hại cho Cộng quân, nhiều chiếc xe tăng T54 bốc cháy ven rừng trước khi vào thành phố.

Ngoài ra, sự xuất hiện của pháo đài bay B.52 được coi như khắc tinh của chiến thuật biển người, đã gây nhiều nỗi khiếp đảm và làm tổn thất nặng nề cho 4 Sư Ðoàn Cộng quân đang bủa vây An Lộc.

Pháo đài bay B.52, một vũ khí chiến lược của Không Lực Hoa Kỳ phát xuất từ Thái Lan và đảo Guam đã can thiệp vào chiến trường Bình Long theo yêu cầu của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà thực hiện 17 phi vụ đánh bom, mỗi phi vụ gồm 3 phi cơ bay trên thượng tầng khí quyển mà mắt thường ít khi nhìn thấy, chỉ nghe tiếng ù ù xa xăm của động cơ mà không biết bom sẽ nổ nơi nào. Mỗi phi vụ mang 42 quả bom nặng 500 ký và 24 quả bom nặng 250 ký đồng loạt rơi xuống chính xác mục tiêu đã ấn định. Vài giây đồng hồ trước khi bom nổ, người ta phát hiện tiếng gió rít ghê rợn của hàng loạt bom đang rơi, tiếng rít gió ào ào như trận cuồng phong, như tiếng kêu của tử thần. Bom chạm mục tiêu, nổ hàng loạt, nổ từng chuỗi dài, tiếng nổ làm rung chuyển mặt đất, lửa và khói đen bốc cao, từng luồng khí nóng hừng hực toả ra với vận tốc cực nhanh, 500 thuớc bề ngang và 1,000 thước bề dài trong tầm sát hại của bom rơi, tất cả đều biến thành bình địa.

Trong trận chiến An Lộc, B.52 đã đánh bom, có khi chỉ cách tuyến phòng thủ 900 thước, theo tin tức tình báo được kiểm nhận, có cả một Trung Ðoàn Cộng quân bị biến mất trong lúc bao vây thành phố.

Sau ba ngày đêm chống trả dữ dội, khu vực phía Bắc thành phố, kể cả đồi Ðồng Long, một cao điểm chiến thuật quan trọng đã lọt vào tay giặc. Từ đồi Ðồng Long, Cộng quân quan sát và nhìn rõ mọi hoạt động trong thành phố, hơn nữa nơi dây là cao điểm lý tưởng để tổ chức các vị trí súng phòng không 12 ly 8, đại bác 23, 37 ly và hoả tiễn địa không SA-7 đã khống chế và làm giới hạn sự can thiệp của Không Quân. Tuyến phòng thủ An Lộc càng lúc càng thu hẹp dưới sức ép của pháo binh và tấn công liên tục của Cộng Sản.

Quốc lộ 13 chưa được giải toả, do đó sự tiếp viện bằng đường bộ hoàn toàn bị tê liệt. Sự yểm trợ bằng Không Quân cũng gặp khó khăn. Hơn 80% đồ tiếp liệu như đạn dược, thuốc men và thực phẩm được thực hiện bằng phương tiện thả dù đã rơi vào vùng địch kiểm soát. Những đơn vị cơ giới và pháo binh của An Lộc hoàn toàn bất khiển dụng, phân nửa lực lượng phòng thủ bị loại ra khỏi vòng chiến.

An Lộc đang hấp hối, nhưng chưa tắt thở. Trong tình trạng chiến đấu tử thủ hôn mê đó, An Lộc vẫn củng cố niềm tin vào kế hoạch giải vây sẽ được bùng nổ vào giờ thứ 25. Không, An Lộc không thể chết tức tưởi như Lộc Ninh. An Lộc cần phải được mở một nút thoát hơi để thở. Các nhà lãnh đạo quân sự Việt Nam Cộng Hoà đã khẳng định điều đó và đã dự trù một kế hoạch để đối phó trong tình huống xấu nhất xảy ra để cứu nguy An Lộc!


THEO CHÂN ÐOÀN QUÂN MA

Theo kế hoạch giải vây, hai đơn vị thiện chiến được sử dụng đến là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù.

Cả hai đơn vị này đều nhảy thẳng vào An Lộc với hai nhiệm vụ khác nhau, một phía trong và một phía ngoài Thị Xã.

Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù sẽ quét sạch hành lang vây khốn bên ngoài chu vi phòng thủ và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù mở đường máu đánh thẳng vào An Lộc tiếp tay với quân trú phòng bên trong, chiếm lại phân nửa thành phố đã mất.

Người ta nghĩ kế hoạch này là một ván cờ liều, một kế hoạch đánh xã láng, “thí chốt để tiến xe” và những đơn vị thi hành sẽ là những con thiêu thân bay vào ánh lửa.

Ðúng vậy, họ là những con chốt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, những con chốt đã sang sông và đã nhập cung, trở thành một pháo đài sừng sững trước mặt quân thù.

Ngày 14-04-1972, từ Chơn Thành, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù và một pháo đội được trực thăng vận vào một địa điểm cách An Lộc bốn cây số về hướng Ðông Nam.

Từ ấp Shrok Ton Cui, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù chiếm lĩnh cao điểm 176 còn được gọi là Ðồi Gió, đặt 6 khẩu 105 ly dễ yểm trợ cho Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn cùng Tiểu Ðoàn 5 và 8 Nhảy Dù tiến về hướng An Lộc.

Linh động và bất ngờ là hai yếu tố quan trọng trong binh pháp được Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù khai thắc triệt để trong cuộc hành quân này.

Cộng quân đang bao vây An Lộc bị cú bất ngờ khi thấy lính Nhảy Dù xuất hiện phía sau. Yếu tố bất ngờ đã làm địch quân hốt hoảng, trận đánh đẫm máu nổ ra và Nhảy Dù đã chiếm ưu thế, mở được một khoảng trống trong vòng vây kín mít từ phía Ðông Nam hướng về An Lộc.

Cùng ngày 14-04-1972, trong khi Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù được trực thăng vận vào An Lộc, thì từ những khu rừng già vùng Tây Nam Xa Mát dọc theo biên giớì Miên Việt, Liên Ðoàn 81 đang hành quân được triệt xuất để trở về Trảng Lớn thuộc Tỉnh Tây Ninh.

Sáng ngày 16-04-1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù được vận chuyển qua Lai Khê bằng trực thăng Chinook CH-46, 12 giờ trưa cùng ngày, khi kho đạn Lai Khê bị đặc công Cộng Sản phá hoại nổ tung là lúc toàn bộ 550 quân cảm tử của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù sẵn sàng tại phi trường để được trực thăng vận vào An Lộc.

Nắng hè chói chan oi bức, ánh nắng lung linh theo cánh quạt của trực thăng tiễn đưa đoàn quân ma đi vào vùng đất cấm. Ðịa điểm đổ quân là những đám ruộng khô cằn nứt nẻ phía Tây Tỉnh lộ 245, chung quanh là những cánh rừng thưa trải dài theo hướng Tây Bắc, khoảng cách một cây số để đi đến Ðồi Gió.

Phải cần một hợp đoàn 45 chiếc trực thăng đa dụng HU1D với hai đợt đổ quân mới thực hiện xong cuộc chuyển quân, và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đã vào vùng hành quân lúc 4 giờ chiều ngày 16-04-1972.

Mở tần số liên lạc với Tướng Lê Văn Hưng trong An Lộc, liên lạc với Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù để biết vị trí quân bạn và nhanh chóng khai triển đội hình chiến đấu, di chuyển về hướng Tây, len lỏi theo đường thông thuỷ giữa hai ngọn đồi Gió và đồi 169. Âm thầm và ngậm tăm mà đi.

Một sự kiện bất ngờ không may xảy đến khi đoàn quân đang di chuyển: một quả bom của Không Quân đánh vào vị trí của Cộng quân lại rơi ngay vào đội hình di chuyển của Biệt Cách Dù, gây thương vong cho một vài binh sĩ, trong đó có Thiếu Uý Lê Ðình Chiếu Thiện. Lập tức trái khói vàng được bốc cao giữa đoàn quân để phi công nhận diện phìa dưới là quân bạn.

Phải mất một thời gian ngắn cho việc tản thương. Hai cố vấn Mỹ, Ðại Úy Huggins và Thượng Sĩ Yearta nhanh chóng liên lạc với Lữ Ðoàn 17 Kỵ Binh Không Vận Hoa Kỳ yêu cầu trực thăng cấp cứu và được thoả mãn. Ðây là hai cố vấn thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ vẫn còn chiến đấu bên cạnh Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù khi quân bộ chiến Mỹ đã rút lui khỏi chiến trường Việt Nam theo kế hoạch “Việt Nam hoá chiến tranh” được thi hành vào năm 1970.

Sự kiện thứ hai xảy đến là sự xuất hiện của 47 quân nhân thuộc Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân từ đồi 169 chạy tuôn xuống, mặt mày hốc hác vì mệt mỏi và thiếu ăn, bị thất lạc và phải trốn trong rừng. Họ đi theo Biệt Cách Dù để trở lại đơn vị gốc trong An Lộc.

Vài tràng súng AK ròn rã nổ ở hướng Ðông, có lẽ địch bắn báo động. Tiếp tục di chuyển, rẽ về hướng Tây Bắc để vào rừng cao su Phú Hoà. Tiếng súng nổ liên hồi, đứt khoảng phía trước. Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù đang chạm địch. Gặp Tiểu Ðoàn Trưởng Nhảy Dù, Trung Tá Hiếu cười méo miệng, nói như phân trần: “Tụi nó đông như kiến và bám sát tụi “moi” như bày đỉa đói”.

“Tụi nó đông như kiến” đã nói lên thực trạng chênh lệch lực lượng quân sự đôi bên mà phần ưu thế về phía Việt Cộng! Nhưng đã là Nhảy Dù thì phải “cố gắng”, cố gắng cho đến lúc tàn hơi. Ðã là Biệt Cách Dù thì phải chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh cho màu cờ sắc áo của đơn vị.

Hoàng hôn phủ xuống thật nhanh, bóng tối lần lần bao trùm cảnh vật chung quanh. Súng vẫn nổ rải rác từng đợt, từng hồi trong rừng thẳm. Biệt Cách Dù tiến chiếm ấp Sóc Gòn trong im lặng và an toàn vì địch vừa rút ra khỏi đây. Lục soát, bố trí và dừng quân chung quanh ấp trong những công sự chiến đấu đã có sẵn của Việt Cộng. Bóng đêm dày đặc, im vắng, xa xa về hướng An Lộc, đạn pháo ì ầm nổ như tiếng trống cầm canh.

Sự đổ quân ồ ạt của Việt Nam Cộng Hoà về phía Ðông Nam cách An Lộc 4 cây số đồng nhịp với các phi vụ đánh bom B.52 tàn khốc về phía Tây Nam của thành phố đã làm cho Cộng quân hoang mang, hốt hoảng. Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù là lực đối kháng vòng ngoài để thu hút địch quân, đồng thời tạo một lỗ hổng để Biệt Cách Dù xâm nhập vào thành phố sáng ngày 17-04-1972, cùng một thời điểm của Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù tiếp cận ngoại vi tuyến phòng thủ của Thị Xã về phía Nam cạnh quốc lộ 13.

Cộng quân không ngờ Biệt Cách Dù đã lọt vào Thị Xã tiếp hơi cho quân tử thủ và mở cuộc tấn kích ngay đêm đó vào các khu phố mặt Bắc. Với kỹ thuật đánh đêm điêu luyện, thần tốc, khi phân tán, khi hội tụ, Biệt Cách Dù đã giáng lên đầu Cộng quân những đòn sấm sét, đánh không có sự yểm trợ của pháo binh hay bất cứ một loại vũ khí vòng cầu nào, đánh bằng súng cá nhân, bằng lựu đạn, đánh cận chiến bằng lưỡi lê. Ðánh nhau từng căn nhà, từng cao ốc đổ vỡ, chiếm lại từng con đường, từng khu phố trong đêm dài dường như bất tận.

Sáng ngày 18-04-1972, Biệt Cách Dù đã có mặt hầu hết trong các khu phố phía Bắc Thị Xã và giải thoát gần 100 gia đình cư dân còn kẹt lại trong vùng kiểm soát của Cộng Sản.

Từ các căn nhà sụp đổ bên vệ đường, từng toán Việt Cộng tuôn ra tháo chạy thục mạng về hướng Bắc, vì chúng bị đánh phủ đầu ban đêm, sáng ra nhìn chung quanh nơi nào cũng thấy “lính rằn ri”, loại lính đã hơn một lần chặn đánh chúng trên đường Trường Sơn heo hút mưa bay.

Mặc dù đã chiếm lại toàn bộ khu vực phía Bắc, nhưng vẫn còn một ổ kháng cự mà Cộng quân vẫn cố thủ bên trong, đó là đồn Cảnh Sát Dã Chiến. Biệt Cách Dù tấn công nhiều đợt nhưng vẫn chưa vào được. Hơn nữa, từ đồi Ðồng Long, Việt Cộng dùng đại bác 57 ly, sơn pháo 75 ly và súng không giật 82 ly bắn trực xạ vào Biệt Cách Dù để yêm trợ cho bọn chúng cố thủ bên trong đồn. Cố vấn Huggins của Biệt Cách Dù vào ngay tần số của Lữ Ðoàn 1 Không Quân Hoa Kỳ xin yểm trợ hoả lực. Hai chiếc phi cơ AC.130 Spector bay lượn trên vùng trời An Lộc với cao độ ngoài tầm sát hại của cao xạ và hoả tiễn địa không SA7, bắn từng quả đạn 105 ly hoặc từng loạt 3 quả đạn 40 ly vào mục tiêu yêu cầu được điều chỉnh từ dưới dất. Cuối cùng đồn Cảnh Sát lọt vào tay Biệt Cách Dù vào lúc 4 giờ chiều. Phần nửa thành phố phía Bắc được chiếm lại sau gần 24 tiếng đồng hồ chiến đấu liên tục. Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù yêu cầu Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh điều động quân bạn hai bên cạnh sườn cùng tiến lên ngang hàng với quân Biệt Cách Dù. Sự yêu cầu không được đáp ứng, vì quân số của quân trú phòng đã hao hụt và bất khiển dụng quá nhiều, do đó cạnh sườn của Biệt Cách Dù bị bỏ trống. Lợi dụng sơ hở này, Cộng quân phản công mãnh liệt bằng hai mũi tấn công, mũi thứ nhất đánh trực diện từ hướng đồi Ðồng Long có sự yểm trợ của cối 61 ly, cối 82 ly và sơn pháo 75 ly, mũi thứ hai từ phía Tây đánh thốc vào ngang sườn với quân số khá đông. Trước tình huống phải đối đầu phía trước mặt và phía ngang hông, Biệt Cách Dù phải rút quân về phía khu chợ Mới, tuy nhiên vẫn còn để lại một Ðại Ðội cố thủ trong đồn cảnh sát

Ðồn cảnh sát đương nhiên trở thành một tiền đồn án ngữ lẻ loi phía Bắc Thị Xã, một tiền đồn bất đắc dĩ mà không thể nào bỏ trống được, và nơi đây là một cái gai mà Cộng quân bằng mọi cách phải nhổ đi, do đó muốn duy trì vị trí chiến thuật quan trọng đó, phải đổ máu rất nhiều. Biệt Cách Dù chấp nhận sự lựa chọn này để giữ vững tiền đồn suốt một thời gian dài.

Sự tham chiến của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đã làm cho An Lộc hồi sinh sau cơn mê dài hấp hối, và sự có mặt của Biệt Cách Dù đã mở màn cho những trận đánh ác liệt xảy ra trong lòng Thị Xã.

Ðêm 19-04-1972 Cộng quân sử dụng Trung Ðoàn 141 và Trung Ðoàn 275 có xe tăng yểm trợ tấn công Ðồi Gió sau khi rót vào vị trí này hàng ngàn quả đạn pháo, tiêu diệt 6 khẩu pháo 105 duy nhất của pháo đội Nhảy Dù và tràn ngập Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù của Trung Tá Ðĩnh đang án ngữ tại đây, đồng thời pháo kích dữ dội vào An Lộc để chuẩn bị cho hai mũi tấn công từ hướng Tây và hướng Bắc thành phố. Trận đánh kéo dài suốt đêm, tuyến phòng thủ vẫn đứng vững trước chiến thuật biển người của Cộng Sản. Riêng khu Bắc Thị Xã, Biệt Cách Dù và Cộng quân giao tranh ác liệt, có khi chỉ cách nhau một con đường bề ngang 4 thước trong tầm ném tay của lựu đạn.

Mất đồi Gió, một cao điểm quan trọng nằm bên ngoài phạm vi phòng thủ với 6 khẩu pháo 105 ly còn lại duy nhất để yểm trợ, An Lộc càng lúc càng thấy cô đơn trong mênh mông bão lửa. Môt số quân của Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Ðĩnh chỉ huy chạy thoát về sông Bé hướng Ðông, và được trực thăng cứu cấp bốc về Lai Khê tái huấn luyện và bồ sung quân số chờ ngày phục hận.

Cuộc chiến giảm dần cường độ vì sự thiệt hại của hai bên công - thủ.

Bên ngoài phạm vi phòng thủ, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù đã là một thành đồng vững chắc án ngữ mặt Ðông Nam, bên trong thành phố, Biệt Cách Dù mở cuộc tấn công đêm liên tục, đánh phá những vị trí Cộng quân chiếm giữ, làm cho chúng ăn không ngon, ngủ không yên. Ngoài ra sự oanh tạc của B.52 gần An Lộc đã gây tổn thất rất nhiều cho địch quân, tuy nhiên mức độ pháo kích của Cộng quân vẫn đều đặn rót vào An Lộc khoảng 2,000 quả đạn mỗi ngày.

Bên phố chợ, người dân ngậm ngùi nhìn thấy những nấm mồ của tử sĩ Biệt Cách Dù mỗi ngày một nhiều hơn. Họ đánh nhau hằng đêm và hì hục chôn xác bạn bè hằng đêm trong mưa pháo tuôn rơi, khi mặt trời chưa thức giấc. Sống, chiến đấu bên nhau trong cuộc hành trình gian khổ để tiêu diệt quân thù trên khắp nẻo đường đất nước, lòng thuỷ chung và tinh chiến hữu keo sơn chan hoà thắm thiết khi có người nằm xuống, vĩnh viễn ra đi. Hình ảnh nghĩa trang Biệt Cách Dù đã nói lên điều đó.


AN LỘC, CHIẾN TRƯỜNG ÐI KHÔNG HẸN

Theo lời cung khai và thú nhận của tù hàng binh Cộng Sản mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bắt được, có ba thứ mà cán binh Cộng Sản lo sợ khi vượt Trường Sơn để xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà. Thứ nhất là B.52, thứ nhì là Biệt Kích số 81, và thứ ba là chạm súng với quân Nhảy Dù. Cả ba thứ đó đều hiện hữu và có mặt tại chiến trường An Lộc.

Liên Ðoàn Biệt Cách Nhảy Dù, dân Miền Nam thường gọi tắt là Biệt Cách Dù, Việt Cộng gọi là Biệt Kích số 81, thực ra là đơn vị Tổng Trừ Bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, với quân số khiêm nhường trên bảng cấp số là 916 người, được đào tạo và huấn luyện thuần thục về chiến thuật phản du kích trong chiến tranh ngoại lệ, nhảy toán, thám sát, đột kích, bắt cóc tù binh, đánh phá vào các cơ sở hậu cần của địch. Nhảy vào lòng đất địch để chiến dấu bằng phương tiện nhảy dù, nhưng phần lớn bằng trực thăng vận, âm thầm hoạt động trong vùng khu chiến, cách biệt xa tầm yểm trợ của pháo binh. Bước chân của người chiến binh Biệt Cách Dù đã lần lượt đi qua các chiến trường sôi động một thời vang danh quân sử.

Từ Làng Vei, A Sao, A Lưới, Tà Bạt, Khe Sanh, Lao Bảo quanh năm sương mờ bao phủ của vùng biên giới Việt Lào, vượt lên phương Bắc hoả tuyến với Mai Lộc, Cam Lộ, Ðông Hà, Quảng Trị và xuôi về vùng núi rừng cận duyên của Tam Quan, Bình Ðịnh, Bồng Sơn, An Lão. Ði miệt mài, hành quân không ngơi nghỉ để về Tây Nguyên với Boloven hùng vĩ, đổ xuống Tam Biên, đi Tân Cảnh, Diên Bình và tạm dừng chân, nâng chén quan hà bên bờ sông Dakbla nước chảy ngược dòng của chiến trường Kontum mịt mờ bụi đỏ. Tây Ninh nắng cháy nung người không làm nao lòng chiến sĩ, Bình Giả, Ðồng Xoài nặc nồng mùi tử khí. Khi chiến trường im tiếng xung phong thì bước chân của người chiến binh Biệt Cách Dù vẫn còn dong ruổi trong cuộc hành trình vô định.

Vào An Lộc, chiến trường nặng độ với trung bình mỗi ngày hơn hai ngàn đạn pháo, chiến trường cô đơn khi tổn thất của quân tử thủ mỗi lúc một gia tăng, đánh đêm đánh ngày, dằng dai khi công, khi thủ ròng rã kéo dài suốt tháng.

Cứ mỗi lần Cộng quân gia tăng cường độ pháo kích vào thành phố là để chuẩn bị cho cuộc tấn công bằng bộ binh ngay sau đó.

Ðêm 04-05-1972, Cộng quân ồ ạt tấn công vào phòng tuyến phía của Biệt Cách Dù.

Ở thế công thì dù sao cũng có ít nhiều sơ hở nhưng khi Biệt Cách Dù ở vào thế thủ thì một con kiến cũng khó lọt qua. Lựu đạn, mìn thi nhau nổ, AK, súng máy rít vang trời. Trận đánh kéo dài đến sáng tỏ trời. Xác địch nằm la liệt, ngổn ngang bên ngoài phòng tuyến. Lần đầu tiên trong trận địa chiến, Biệt Cách Dù tịch thu được 2 khẩu súng phun lửa do Trung Cộng sàn xuất. Trong túi áo của mỗi xác chết đề có mang theo một mảnh giấy nhỏ bề ngang 5 phân, bề dài 20 phân với câu viết ngắn gọn :”Quyết tâm bắt sống Sư Trưởng Sư Ðoàn 5, dựng cờ chiến thắng”. Thì ra bọn này có học tập trước khi lao mình vào tử địa.

Ngày 10-05-1972, Cộng quân bắt đầu pháo kích dữ dội từ 5 giờ sáng, pháo liên tục dòng rã suốt ngày. Người ta đếm có hơn 8,000 quả đạn pháo rơi xuống thành phố. Nhà cửa đã hoang tàn lại thêm hoang tàn. Người ta tiên liệu một cuộc tấn công lớn của Cộng quân sắp xảy ra và trận đánh lớn nổ tung lúc 5 giờ sáng ngày 11-05-1972 với toàn bộ lực lượng còn lại của 4 Sư Ðoàn đang vây hãm An Lộc.

Ðịch ồ ạt tiến vào thành phố từ nhiều phía. Tuyến phòng thủ phía Ðông Bắc của Biệt Ðộng Quân bị thủng, một số Cộng quân lọt vào Ty Chiêu Hồi. Xe tăng T54 xuất hiện nhiều nơi trong thành phố, có chiếc tiến lại gần bản doanh tử thủ của Tướng Lê Văn Hưng và bị bắn cháy. Xe tăng và quân bộ chiến của Cộng Quân bị chặn đứng tại phòng tuyến của Biệt Cách Dù. Trời sáng tỏ và trận đánh trở nên ác liệt. Phòng tuyến phía Tây của Trung Ðoàn 7 Bộ Binh bị thủng và co cụm lại thành từng ổ kháng cự chung quanh Tiểu Khu. Không Quân can thiệp kịp thời, dội bom bên ngoài, bắn phá bên trong thành phố. Xe tăng của Cộng Sản và bộ đội không phối hợp chặt chẽ với nhau khi tấn công vào thành phố, do đó nhiều chiếc xe tăng chạy lạc đường, bị lẻ loi, dễ bị tiêu diệt. Quân trú phòng nhảy ra khỏi vị trí chiến đấu để săn đuổi xe tăng như thợ săn đang săn đuổi con mồi. Ðây là lần thứ hai xe tăng địch đã vào thành phố để biến thành những khối sắt bất động. Ðơn vị nào cũng bắn cháy được xe tăng, kể cả một số ít Ðịa Phương Quân còn lại cũng hăm hở diệt tăng với khẩu M.72 lần đầu tiên được sử dụng. Trận đánh tàn dần lúc 3 giờ chiều với sự thiệt hại nặng nề của Cộng quân. Người ta đếm được 40 xác chiếc xe tăng rải rác đó đây trong thành phố và ngoài tuyến phòng thủ, không kể đến hàng loạt thi thể không toàn vẹn của những người lính đến từ phương Bắc xa xôi. Tuy nhiên An Lộc vẫn còn nằm trong khả năng pháo kích ngày đêm của Cộng Sản, An Lộc vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của lực lượng bao vây khi quốc lộ 13 chưa được giải toả.

Sư Ðoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà với nhiệm vụ giải toả quốc lộ 13, mặc dù tiến quân chậm và vững chắc cũng bị thiệt hại nhiều.

Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đã lấy lại sinh lực sau lần thất bại tại Ðồi Gió đã trở lại tham chiến, và là đơn vị đầu tiên của lực lượng giải toả tiến về An Lộc sau bao trận đánh phục thù ven quốc lộ 13.

Ngày 08 tháng 06 năm 1972 lúc 5 giờ chiều, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đến Xa Cam bắt tay vói Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù do Trung Tá Ðào Thiện Tuyển đang án ngữ tại đây. Xa Cam, cửa ải địa đầu cực Nam An Lộc, khoảng 2 cây số nằm ven quốc lộ 13, một đồn điền với rừng cao su ngang dọc thẳng tắp đã trở thành chiến địa mà Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù “nhất kiếm trấn ải” tung hoành trong suốt thời gian gần hai tháng để chiến đấu sống còn với lực lượng địch quân có quân số và hoả lực đông và mạnh gấp nhiều lần.

Cái bắt tay của Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù với Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù như một tiếng sấm vang trời trong cơn mưa tầm tã báo hiệu trời quang mây tạnh sẽ đến. Những người lính Nhảy Dù truyền hơi ấm cho nhau, mỉm cười với ánh mắt long lanh tin tưởng vào ngày tàn của Cộng quân trong chiến trường An Lộc.

Ngày 10 tháng 06 năm 1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù tung toàn bộ lực lượng quét sạch tất cả các ở kháng cự của Cộng quân trong các khu phố phía Bắc Thị Xã, bắt được một tù binh đang thúc thủ dưới hầm sâu. Ðây là một tên bộ đội thuộc Sư Ðoàn 5 Cộng Sản Bắc Việt, sau hơn 6 tháng vượt Trường Sơn để bổ sung cho chiến trường với nhiệm vụ “anh nuôi”. Anh nuôi là tiếng của Việt Cộng dùng để chỉ những tên lính chuyên lo việc bếp núc, nấu ăn cho đơn vị. Gương mặt hốc hác vì hoảng sợ, nước da xanh như tầu lá vì thiếu ánh nắng mặt trời và tay chân hơi run rẩy vì thiếu ăn, Tên bộ đội lắp bắp khai: “Ðơn vị hết người chiến đấu vì bị chết quá nhiều, cho nên Thủ Trưởng bắt buộc em cầm súng ra trận. Em chưa bắn một phát nào, đến đây đã được ba ngày cứ lo đào hầm để tránh bom”. Lời cung khai của tên bộ đội khoảng 18 tuổi với gương mặt non choẹt còn phơn phớt nét thơ ngây của tuổi học trò đã nói lên tình trạng tổn thất bi đát của lực lượng Cộng quân sau gần 2 tháng bao vây và tấn công mà không chiếm nổi An Lộc.

Ngày 12 tháng 06 năm 1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù tái chiếm đồi Ðồng Long, một cao điểm quan trọng nằm sừng sững phía Bắc, cách An Lộc khoảng 500 thước.

Lực lượng tấn công tái chiếm đồi Ðồng Long gồm Ðại Ðội 2 Xung Kích do Ðại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy, Ðại Ðội 3 Xung Kích do Ðại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy, và 4 toán Thám Sát do Trung Úy Lê Văn Lợi chỉ huy. Biệt Cách Dù chia làm 3 mũi, bọc trái, bọc phải và chính diện hưóng về mục tiêu trước mặt có cao độ 128 thước. Họ xuất quân và đến lưng chừng đồi lúc nửa đêm, đồng loạt xung phong khi hừng đông vừa ló dạng chân trời. Bị đánh bất ngờ và vô cùng táo bạo, lựu đạn tung vào hầm trú ẩn, đạn bắn xối xả vào công sự chiến đấu, những tiếng hét xung phong vang dội một góc trời. Ðịch quân chủ quan và còn mê mệt trong tình trạng ngái ngủ, trở tay không kịp, hoảng hốt bỏ chạy không có thì giờ xỏ chân vào đôi dép râu, nói chi cầm đến khẩu súng để chống trả.

Một số chạy thoát vào rừng để lại sau lưng chiến địa còn nặng mùi khói súng với nhiều xác chết vương vãi đó đây.

Ðột kích là phương pháp tấn công vô cùng táo bạo, đánh nhanh, đánh mạnh với hoả lực tập trung tối đa được Biệt Cách Dù áp dụng trong thời điểm bất ngờ nhất làm cho địch không có thì giờ xoay trở.

Trung Úy Lê Văn Lợi hãnh diện cắm lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà trên đỉnh đồi Ðồng Long.

Quốc Kỳ rực rỡ căng gió phất phới bay trên nền trời xanh biếc của mùa hè vùng bão lửa. Ðám mây mờ bao phủ vùng trời An Lộc bấy lâu nay lần lần tan biến. Trung Tá Phan Văn Huấn, con chim đầu đàn của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, vào tần số liên lạc với các cánh quân Biệt Cách Dù đang có mặt trên đỉnh đồi Ðồng Long, giọng cảm động, ông nói : ”Chúng ta đã chu toàn nhiệm vụ cao cả nhất mà quân đội đã giao phó, nhiệm vụ phải trả bằng xương máu của các anh em, của các tử sĩ Biệt Cách Dù đã nằm xuống. Tôi thành thật ca ngợi lòng dũng cảm của anh em trong chiến tích hôm nay”.

Chiếm xong đồi Ðồng Long, Biệt Cách Dù truy kích, lục xoát xung quanh, và phát hiện một căn hầm sâu ven rừng, có tiếng động khả nghi bên trong. Tất cả họng súng đen ngòm hướng vào miệng hầm chờ đợi như con hổ rình mồi. Có tiếng hét lớn từ trong đám lính:

- Chui ra ngay, đầu hàng ngay, tao tung lựu đạn vào chết cả đám bây giờ!
- Khoan, dừng tay, coi chừng bắn lầm vào dân! Tiếng nói khẩn cấp của người chỉ huy từ xa vọng lại. Tất cả đều chờ đợi. Bước lại gần miệng hầm, người chỉ huy nói to:

- Chúng tôi là lính Việt Nam Cộng Hoà. Ai trốn trong hầm thì chui ra mau.

Câu nói được lập lại lần thứ hai. Có tiếng thút thít bên trong hầm vọng ra.
- Ra đi, chui ra đi, không sao đâu!

Tiếng người lính thúc dục. Tiếng động bên trong rõ dần. Những ánh mắt long lanh của những chiến binh Biệt Cách Dù chùng xuống khi thấy hai em bé gái 9, 10 tuổi lê lết tấm thân tàn, chậm rãi bò ra khỏi căn hầm trú ẩn.

- Trời ơi! Hai đứa bé gái! Ba má các em đâu, sao lại như thế này? Còn ai trong đó không?

Người chỉ huy nắc nghẹn giọng nói. Hai em bé mặt mũi lem luốc, mắt mờ đẵm lệ, thân mình khô đét như hai bộ xương biết cử động, chỉ lắc đầu sau những câu hỏi dịu dàng của người chỉ huy Biệt Cách Dù. Hai em bé đã tránh bom đạn trong căn hầm này bao lâu rồi, một tháng, hai tháng, lấy gì ăn để sống đến nỗi thân thể phải xác xơ như thế này!

Ôi chiến tranh! Chiến tranh tàn khốc mà người Cộng Sản đã mang đến cho dân tộc mình như thế đó.


AN LỘC ÐỊA SỬ LƯU CHIẾN TÍCH

Kể từ ngày cắm lá Quốc Kỳ trên đỉnh Ðồng Long, Biệt Cách Dù bung ra khỏi thành phố và án ngữ trong các khu rừng phía Bắc An Lộc. Thành phố tuy sạch bóng quân thù, nhưng mức độ pháo kích vẫn còn rời rạc, vô chừng.
An Lộc đã được giải toả trong điêu tàn và đổ vỡ! An Lộc sụp đổ hoang tàn trong cái hình hài đấy vết đạn bom, nhưng An Lộc đã đi vào huyền thoại của những người tử thủ.

“An Lộc địa sử ghi chiến tích,
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân”

Trong hoang tàn và đổ vỡ của một thành phố đã chịu đựng sức tàn phá hãi hùng của đạn bom, hai câu thơ của cô giáo Pha được Biệt Cách Dù cứu thoát khi bị thương, được khắc trên đài tưởng niệm trước nghĩa trang bên phố chợ đìu hiu, mà trong đó 68 nấm mồ của tử sĩ Biệt Cách Dù được chôn vội vã từng đêm khi chiến trận tàn khốc xảy ra đã làm mủi lòng dân cả nước với lòng ngưỡng mộ và niềm xúc cảm vô biên.

Sau khi đồi Ðồng Long được tái chiếm, thành phố An Lộc xem như được giải toả, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 lần đầu tiên đến thăm An Lộc và Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, là người đầu tiên được vinh thăng Ðại Tá tại mặt trận. Tác giả Sao Bắc Ðẩu, trong cuốn “Một ngày trong An Lộc”, trang 296 và 297 đã ghi lại việc thăng cấp như sau:

“Một ông Ðại Tá mặt trận"
Trung Tướng Minh cẩn thận giải thích rằng không phải chỉ riêng Trung Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù là có công, là xứng đáng được tặng thưởng. Sở dĩ ông cẩn thận như vậy là ngại có người sẽ hỏi: “Tại sao chỉ một mình Trung Tá Huấn được thăng cấp tại mặt trận?”. Tướng Minh cẩn thận như vậy cũng phải, nhưng trên thực tế, không ai có ý phân bì với tân Ðại Tá Huấn cả. Những người lính Biệt Cách của ông đã chiến đấu hơn một người lính và đã giúp đỡ dân chúng hơn một cán bộ Chiến Tranh Chính Trị.

Chính một binh sĩ của Tiểu Ðoàn 2 Nhảy Dù đã xác nhận với chúng tôi rằng đó là “những người lính tuyệt”. Một người khác kể lại rằng nếu không gặp lính Biệt Cách thì hai đứa trẻ nằm trong hầm 70 ngày đã chết vì lựu đạn. Anh này khẳng định:
- Miệng hầm trông khả nghi lắm. Lại nghe văng vẳng có tiếng động. Gặp người nhát là phải tung lựu đạn trước khi xuống.

Nhưng những anh Biệt Cách của Ðại Tá Huấn đã không tung lựu đạn xuống. Họ kiên nhẫn nằm trên miệng hố rình rập vì họ nghĩ rằng dù có lính Bắc Việt phía dưới thì những người này cũng đói lả không còn sức kháng cự nữa. Cuối cùng họ đã cứu sống được hai em nhỏ, nạn nhân chiến cuộc.

Tôi hỏi vị Ðại Tá tân thăng:
- Người ta nóí với chúng tôi rằng dân chúng An Lộc lập một nghĩa trang riêng để chôn những tử sĩ của Ðại Tá. Xin Ðại Tá cho chúng tôi hiểu rõ vì lý do nào, ngưòi lính Biệt Cách lại có một tác phong đặc biệt đối với dân chúng như vậy?

- Tôi thiết tưởng điều này cũng dễ hiểu. Anh nghĩ coi, từ trước đến nay, lính Biệt Cách chúng tôi chỉ nhảy từng toán 5 người vào tác chiến sau lưng địch. Nói một cách khác, chúng tôi đã quen sống với thái độ thù địch của dân chúng trong vùng chiến đấu. Ðây là lần đầu tiên chúng tôi là bạn chứ không phải là thù, dân chúng giúp đỡ chứ không chống lại chúng tôi”.

Biệt Cách Dù nhảy vào An Lộc ngày 16-04-1972 và rời khỏi An Lộc ngày 24-06-1972. Tính ra đúng 68 ngày tham chiến.

68 ngày tử chiến với 68 Biệt Cách Dù hy sinh và trên 300 bị thương, trong mưa pháo kinh hoàng, ngày cũng như đêm không tròn giấc ngủ, đục tường, khoét vách, đào hầm để giành lại từng tấc dất trong tay quân thù. Chiến đấu trong từng căn nhà, từng khu phố, từng đoạn đường lỗ chỗ hố bom, vùng lên diệt xe tăng cũng như đồng loạt truy kích khi địch đã tàn hơi, và cuối cùng cắm lá Quốc Kỳ trên đỉnh Ðồng Long tượng trưng cho sự chiến thắng, hình ảnh người chiến binh Biệt Cách Dù mãi mãi sống trong tâm hồn người dân An Lộc, hình ảnh dũng cảm, can trường biểu tượng cho sự chịu đựng bền bỉ, sức chiến đấu hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

48 giờ sau khi rời khỏi chíến trường An Lộc, ngày 26-06-1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đã có mặt tại miền hoả tuyến để tham gia chiến dịch “ba tháng vùng lên tái chiếm Quảng Trị”. Còn giặc thù, còn chiến trường, người chiến binh Biệt Cách Dù vẫn còn xông pha tiến bước, dù một lần sảy chân nằm yên trong nghĩa trang hiu quạnh thì đó cũng là một điều vinh quang cho người chiến sĩ để báo đền ơn Tổ Quốc.


Hổ Xám PHẠM CHÂU TÀI
(cựu Thiếu Tá Biệt Cách Dù QLVNCH)
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Tháng tư đọc lại "một con gió bụi" của Trần Trọng Kim

$
0
0

....Trong nhng li tuyên truyn ca Vit Minh thy luôn luôn nào là hnh phúc nào là t do nào là bình đng nhưng thc s thì là trái ngược tt c. Tt c ch là nói di và la bp, giết hi. tàn phá, min sao làm cho người ta mc la hay s st theo mình là được. Đó là cái thđon ca Vit Minh. Dân tình thy thế ly làm ngao ngán nhưng không dám nói ra. Cho nên trong dân gian đã có câu nói nhưVm. Vm là do hai ch viết tt VM đc nhanh mà thành ra.
Có th nói là CSVN đang trên quá trình tiêu vong và đang bước vào giai đon cui cùng.

 

Tháng tưđc li "mt con gió bi" ca Trn Trng Kim

Nguyn Cao Quyn

- Năm 1945 Thế Chiến II kết thúc. Đu năm này, Nht đo chánh Pháp Đông Dương. Sau cuc đo chánh, Nht tuyên b trao trđc lp cho Vit Nam và tiếp tc cho hoàng đế Bo Đi ti v.

Ngày 17/4/1945 ni các Trn Trng Kim thành lp. Đây là chính ph dân chđu tiên ca Vit Nam. Tuy chi ti chc có 4 tháng nhưng th tướng h Trn và ni các ca ông đã thc hin được mt s vic trng đi cho đt nước.

Thành tích quan trng nht mà chính ph Trn Trng Kim đã thc hin được là thâu hi đc lp cho t quc: ngày 20/7/1945 toàn quyn Nht Tsuchihachi đng ý tr li ba thành ph Hà Ni, Hi Phòng, Đà Nng và ngày 8/8/1945 trao tr Nam B cho chính quyn trung ương.

Th tướng Trn trng Kim đã thu hi trn vn lãnh th ca t quc t tay phát xít Nht mà không tn mt git máu. Nhưng ngay sau khi được thu hi, nn đc lp này đã b Vit Minh phá hng và hu qu làđt nước đã bđiêu linh trong chiến tranh, chết chóc, thù hn và tt hu, như mi người đu đã thy.

*

Th tướng Trn Trng Kim sinh năm 1883 ti Hà Tĩnh. Năm 1905 ông sang Pháp du hc ti trường sư phm Melun. Năm 1911 ông v nước làm ngh dy hc. Năm 1942 ông gi chc thanh tra tiu hc min Bc. Ngày 2/4/1945 ông được vua Bo Đi vi ra Huế. Ngày 16/4/1945 ông chp nhn đ ngh ca vua Bo Đi, đng ra lp chính ph.

Mười mt ngày sau khi Nht trao tr toàn b lãnh th do Pháp chiếm gi cho Vit Nam thì Vit Minh đã phá hng nn đc lp và thng nht y và thay thế vào đó bng mt cuc chiến 30 năm ni da xáo tht.

Ngày 2/9/1945 chính ph Trn Trng Kim ra lnh cho công chc t chc mt cuc biu tình ng h chính ph. Li dng cuc biu tình này. Vit Minh phát đng mt cuc tng ni dy cướp chính quyn. Quân đi Nht ng li giúp đàn áp Vit Minh, nhưng th tướng h Trn, vì thương dân, không đng ý. Sau đóông đã gii tán ni các và khuyên vua Bo Đi thoái v. Chính vì vy mà Vit Minh đã thành công trong vic cướp chính quyn vàđã làm cho nhân dân Vit Nam khn kh t ngày đó cho đến ngày nay, kh nn này vn chưa chm dt.

Cho nên nếu nói vcách mng mùa Thu Vit Nam thì phi nói đến cuc cách mng dân ch ngày 8/8/1945 ca chính ph Trn trng Kim, còn cuc đo chánh ngày 19/8/1945 ca Vit Minh ch là mt cuc phá hoi.

Di hun Trn Trng Kim

Năm 1949 th tướng Trn Trng Kim đã cho xut bn mt cun hi ký mang tên “Mt Cơn Gió Bi. Đây là mt cun lch s quý giá gm 12 chương mà tt c chúng ta đu phi đc và không nhng chđc không thôi mà cn phi nghin ngm qua thi gian, đ thu trit lch s dân tc.

Đc bit chúng tôi xin gii thiu Chương s 7 màđã là người Vit Nam thì ai cũng nên hc thuc lòng. Chương này mang tên “Tôn Ch Và S Hành Đng Ca Đng CSVN”.

Chúng tôi xin được viết bng ch nghiêng đ quý v d theo dõi trong nhng đon viết sau đây. Xin quý vđc tiếp.

“Cng sn đng theo cách t chc và hành đng ca h là mt th tôn giáo mi, ging như các tôn giáo cũ ly s mê tín mà tin, ch không hoài nghi hay đi trch ra ngoài. Song các tôn giáo cũ nói có cõi tri, có thiên đường là nơi cc lc. Cng sn giáo ngày nay hoàn toàn duy vt tt không ai th phng thn thánh nào khác na mà nht thiết phi sùng ái nhng người như Karl Marx, Lenin, Stalin đ thay nhng bc thn thánh cũ b trut bò.

Đã mê cái đo y vàđã coi lý thuyết y là chân lý tuyt đi thì ngoài cái lý thuyết y ra, là tà giáo, là tà đo. Ai không tin và phn đi nhng người đng đu đng, tc nhng bc giáo ch, thì là nhng người phn đo, tt phi nghiêm tr. Vì vy mi có s tàn sát nhng người cng sn theo Trotsky (cng sn Đ T Quc Tế) là mt chi cng sn phn đi ch nghĩa cng sn Đ Tam Quc Tế.

Vy tín đ cng sn phi là nhng người cung tín ch biết cóđi sng vt cht mà thôi, ngoài ra không có gì na. Vđường thc tế, các đc sc ca cng sn là không nhn có luân thường đo lý, không biết có nhân nghĩa đo đc như người ta vn tin tưởng.

Người cng sn cho cái điu đó là h tc ca xã hi phong kiến thi xưa, đt ra đ la di dân chúng nên h tìm cách b hết. Vì có tư tưởng như thế nên cha con anh em, bn bè, không có tình nghĩa gì c, ch biết tôn trng ch nghĩa cng sn và phc tùng nhng người cm quyn ca đng, ngoi gi giết hi ln nhau, la đo nhau. H ai làm nhng vic mà có li cho đng thì là người gii, người tt. Gia đình, xã hi, phong tc, chếđ cũ, đu b hết, bđến tn ci rđ hành lp xã hi mi.

Cái xã hi mi y không đu tranh cho quc gia hay cho dân tc. Dù có nói tình đu cho quc gia hay cho dân tc na thì cũng ch là phương pháp dùng tm thi trong mt cơ hi nào đóđ cho được vic mà thôi, ch mc đích ct yếu là tranh đu cho giai cp vô sn.

Khi đâu s tranh đu cho giai cp y được thng li thì c tranh đu mãi đ bo v quyn li cho giai cp y và xóa b hết cương gii gia nước n vi nước kia đ thc hin mt thế gii đi đng đt dưới quyn ch huy ca giáo ch cng sn bên Nga. Nước nào không theo chếđ cng sn thì b trc xut ngay ra khi h thng cng sn.

Cái phương thut ca đng cng sn Nga không khéo chy. Tuy nói rng bài trđế quc và tiêu dit đc tài nhưng li áp dng đc tài tàn ác hơn thi xưa và gây ra mt thđế quc theo mt danh hiu khác đ t mình thng tr hết thiên h. Chng khác gì thi xưa bên Tàu các chư hu phi phc tùng mnh lnh thiên t.

Thì ra thế gian này chng có gì mi l: chếđ cng sn nước Nga chng khác gì chếđ nhà Tn bên Tàu thi Chiến Quc. Có khác ch là nhng phương tin khoa hc và nhng mánh khoé hin thi mà thôi, còn thì cũng tàn bo gian trá, cũng dùng nhng âm mưu qu quyt đ thng tr hết các nước.

V hành đng thìđng cng sn chuyên dùng nhng âm mưu xo trá, nên tuy có thng li thì cũng được ít người trí thc đi theo. Vì thế mà h bài tr trí thc và chưa dùng đàn bà tr con và nhng người lao đng là nhng người d khuyến d, d la di.

Người cng sn khi đã hành đng hay dùng đến hai chgii phóng. Cn phi hiu rõ nghĩa ca hai chy. Có phi trước kia có cái cũi giam người, bây gi hđem cái cũi mi đ bên cnh ri bo người ta chy sang cái cũi mi y, đó là gii phóng theo kiu cng sn.

Các chếđ cng sn ging như in các chếđ chuyên chế thi xưa. Ai nói xu và công kích thì bđy b giết. Ai không st sng thì b tình nghi phi chu mi điu phin kh. C nước b chính quyn theo dõi bi nhng toán trinh thám t cáo hết người này đến người khác. Thành ra nhân dân trong xã hi không biết ai là bn ai là thù, mt hn sinh thúđi.

Trong nhng li tuyên truyn ca Vit Minh thy luôn luôn nào là hnh phúc nào là t do nào là bình đng nhưng thc s thì là trái ngược tt c. Tt c ch là nói di và la bp, giết hi. tàn phá, min sao làm cho người ta mc la hay s st theo mình làđược. Đó là cái thđon ca Vit Minh. Dân tình thy thế ly làm ngao ngán nhưng không dám nói ra. Cho nên trong dân gian đã có câu nói nhưVm. Vm là do hai ch viết tt VM đc nhanh mà thành ra. (hết trích).

Nhng đon văn bng ch nghiêng nói trên là di hun ca th tướng h Trn truyn li cho con cháu. T nhiu thp k qua nhng người cng sn đã gây ra nhng điu di hi lâu dài cho đt nước Vit Nam. Chng cn nhc li thì ai cũng biết là sau hơn 70 năm cm quyn, Vit Cng đã gây ra nhng điu ác đc như thế nào, nhng điu ác đc mà th tướng h Trn đã báo đng trong di chúc ca người.

Tương lai ca Vit Nam s ra sao?

Tương lai ca Vit Nam có bi quan lm hay không? Câu tr là không.

Đt nước ta đang đng trước mt vn hi mi vìđng cng sn và chếđđương quyn đang phi chu mt cơn bão ln ca lch s. Cơn bão đó đang xóa sch chếđđc tài toàn tr trên đa bàn thế gii, và do đó, đt nước ta, dân tc ta s sm phc hi vàđi vào mt tương lai tươi sáng. Đó là mt thc tếđang mi ngày được khng đnh.

Phi nói rng. trên thế gii hin nay, ch nghĩa cng sn đã cáo chung. S phn này s nhanh chóng đến vi Vit Nam. Yếu t thc tin này, chúng ta cn nm bt và tin tưởng. Vn đ còn li ch là thi gian sm hay mun, và vi tình hình chính tr quc tế hin nay thì có th là rt sm.

Sau hơn 70 năm kiên trìđu tranh cho lý tưởng t do dân ch, người Vit t do đang buc Vit Cng phi sa sai, phi tng bước mi ngày mt tiếp cn gn hơn vi phía dân ch và tr li cho dân tc các nhân quyn căn bn.

Có th nói là CSVN đang trên quá trình tiêu vong và đang bước vào giai đon cui cùng. Tht vy, vì tham nhũng, cán bđng viên cng sn đang được tư sn hóa, nhà nước cng sn đang được tư bn hóa, còn chếđ cng sn thìđang phi dân ch hóa. Đó là con đường phát trin tt yếu và không còn con đường nào khác./.

Tháng 4 năm 2017


__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

Chuyện chắc gì ai cũng biết ? Ngô Đình Cẩn, ông là ai? (p1) (p2) (p3)

$
0
0


           Chuyn chc gì ai cũng biết ?



Tại sao? Vì sao?  Minh, Khiêm, Khánh, Đôn, Đính... không tên nào dám nhận mình đã ra lệnh giết Ô. Diệm.
Nếu vì nhân dân xóa bỏ bạo quyền sao lại lấp la lấp lúng. Nếu có chính nghĩa thì sao  lại bán cái lan cho nhau?
G2



TÀI LIỆU LỊCH SỬ:

Ngô Đình Cẩn, ông là ai? (p1)


Nguyễn Văn Lục

<ngodinhcan4.jpg>
Tựa đề trên cho bài viết này, tôi lấy cảm hứng từ bài biện hộ ba tiếng đồng hồ của luật sư Võ Văn Quan đặt ra cho những kẻ đứng trên cả pháp luật như Nguyễn Khánh với sắc luật 4/64, những quan tòa nhân danh công lý ngồi xử ông Cẩn, cho các nhân chứng tố cáo ông Cẩn, cho tất cả những ai thù ghét cũng như quý mến ông Cẩn phải trả lời được câu hỏi: Ngô Đình Cẩn. Ông là ai?
<ngodinhcan64.jpg>

Ông Ngô Đình Cẩn, 53 tuổi bệnh tiểu đường, ra toà ngày 16 thang4, 1964. IIng tuyên bố vô tội. Nguồn: UPI
Theo dõi phiên tòa với lời biện hộ của luật sư Quan cho ông Cẩn, hầu như có một sự im lặng chạy suốt căn phòng tòa án. Sự im lặng ấy phải chăng luật sư đã đánh động được một cái gì, cái gì đó của những người có mặt.
Nam Đình có đặt câu hỏi: tôi không biết 9 năm ở Huế ông hét ra lửa như thế nào, chớ hôm nay ra tòa, tôi ngồi cách bị can 4 thước mà tôi không nghe thấy gì hết, mặc dầu tôi ở cạnh sông Hương núi Ngự bao nhiêu năm. (Bài tường thuật của nhà báo Nam Đình cho tờ báo Thần Chung)

Xin trích lại lời luật sư Võ Văn Quan sau lời bào chữa cho ông Cẩn:
“Dứt lời, tôi ngồi xuống trong im lặng. Nơi cuối phòng xử có tiếng vỗ tay lẻ loi của một người nào đó.(..) Tôi day lại nhìn ông Cẩn Ông nói: cám ơn luật sư thật nhiều”. Anh cựu thủ lãnh luật sư đoàn Phan Kiến Khương nhìn tôi gật đầu mỉm cười. Phần ông thủ lãnh luật sư đoàn Nguyễn văn Huyền trầm tĩnh hơn, kéo tay tôi ra nói riêng: “ Ông ủy viên chính phủ này không phải tay vừa. Anh nên cẩn thận đừng nóng nảy đi quá trớn, sơ xuất để cho Tòa có cớ làm khó dễ anh. Lúc nào tôi cũng có mặt trong phòng xử để bênh vực anh.”
(Võ Văn Quan, “Luật sư, Nghề hay Nghiệp? Vài cảm nghĩ và kỷ niệm về một thời hành nghề. Vụ án Ngô Đình Cẩn”. Hay là “Từ cố vấn chỉ đạo thành tử tội” Độc quyền của tờ Ngày Nay, 1992)

Ghi chú về Ls Quan: Luật sư Võ Văn Quan tốt nghiệp luật năm 1954 về luật dân sự tại Sài Gòn, chuyển hướng sang hành nghề luật hình sự từ 1960. Ông từng là luật sư của nhiều vụ án liên quan đến chính trị thời đệ nhất và đệ nhị cộng hòa như vụ các nhân sĩ trong nhóm Caravelle, vụ tướng Dương Ngọc Lắm, vụ thiếu tướng Lâm văn Phát, bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn, vụ đại tá Đàm Quang Yêu, vụ dân Biểu Trần Ngọc Châu, vụ kỹ sư Trương Như Tảng, v.v..

Tư cách và sự can đảm của Ls Võ văn Quan trong vụ biện hộ cho nhóm Caravelle, thời đệ nhất cộng hòa, là nguồn cớ cho việc ông được bà Trần Trung Dung đến mời ông cãi dùm cho ông Cẩn. Có nhiều luật sư có tiếng tăm, quen thân thiết với gia đình đã từ chối không dám nhận cãi cho ông Cẩn.

Tại sao có sự im lặng ấy? Đó là cái nghịch cảnh của vụ xử án này. Kẻ dưới quyền, ra vào luồn cúi chịu ơn mưa móc nay trở thành kẻ ngồi xử án. Trong buổi trả lời ký giả Hồng Phúc, Ls Võ Văn Quan đã tiết lộ cho biết,
“sau phiên tòa đầu tiên, ông Cẩn cho biết những kẻ ngồi xử án ông (3 sĩ quan cấp đại tá, một trung tá), ông Cẩn có nói rõ tên là những kẻ phản phúc. Đôi khi ông Cẩn nhìn họ với cặp mắt long lanh qua gọng kính của ông, những kẻ ấy gặp cái nhìn ấy thì bẽn lẽn quay mặt ra chỗ khác.”

(Trong vụ xử ông Ngô Đình Cẳn, theo luật sư Võ Văn Quan khi trả lời phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc cho Thế giới Ngày Nay, ngày 17-3-2012 Trích nguyên văn lời luật sư Quan.)
Theo Ls Quan:
“Thành phần xử án ông Ngô Đình Cẩn gồm: Lê Văn Thụ, chánh án. Phụ thẩm: đại tá Nguyễn Văn Chuân, đại tá Đặng Văn Quang, đại tá Trương Văn Chương, trung tá Dương Hiếu Nghĩa. Phụ thẩm Nhân dân gồm quý ông|: Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Văn Yến, Nguyễn Hữu Sửu và Bùi Văn Nhu. Chưởng lý: Thiếu tá Nguyễn văn Đức. Lục sự Nguyễn văn Tâm. Trong hồ sơ ghi: Án Tòa Cách Mạng, do sắc luật 4/64, ngày 20-2-1964.”
Không dám đoan chắc nhưng trong 1 số video clip và hình ảnh xem được có C.Á. Lê Văn Thu/Thụ trông rất giống thầy Đẩu dạy lớp đêm về Littérature Frse. rất nổi tiếng ở trường Huỳnh Thị Ngà cuối thập niên 50 đầu 60, nhà thầy là 1 căn phố ngó cheo chéo sang trường. Hai người khá giống nhau về tướng tá, nươc da nhất là cái miệng hơi lệch ( giống chiếc mồm méo mó của Thủ Tướng Jean Chrétien của Canada nhưng đở hơn nhiều) G2

Thành phần xử án này do chính tay Nguyễn Khánh ký Sắc lệnh số 120-TP cử các tay chân của ông như các các đại tá kể trên.

Cũng theo Ls Võ văn Quan nhận xét về 4 vị sĩ quan trên trong sách của ông:
“Thành tích của ông Đặng Văn Quang thiên hạ biết quá nhiều, xin miễn nhắc đến. Thành tích của đại tá Nguyễn văn Chuân ra sao, xin quý độc giả độc xem quyển Việt Nam Nhân Chứng của tướng Trần văn Đôn sẽ thấy không có gì đáng đề cao. Đại tá Trương Văn Chương về sau dính líu trong một vụ buôn lậu. Về phần Trung tá Dương Hiếu Nghĩa không đầy một năm sau vụ án Ngô Đình Cẩn, tôi lại gặp ông một lần nữa trong phòng xử này, nhưng ông tụt xuống ngồi trên ghế bị cáo vì dính lứu trong vụ đảo chánh ngay 13-9-năm -1964, chuyện đời có lắm sự trớ chêu không thể nghề được như vậy.”

(Võ Văn Quan, ibid., Báo Thế giới ngày nay, số 108, tháng 2-3 93, trang 89)

Phải chăng đây là một ván bài lật ngửa? Kẻ kết ân trở thành bị cáo?

Trong phần phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc với Ls Võ Văn Quan có một câu hỏi khá là quan trọng như sau:

“Theo luật sư, Ông Ngô Đình Cẩn là người có tội hay vô tội?

Ls Võ Văn Quan: Để trả lời câu hỏi này, tôi chỉ căn cứ trên hồ sơ của bị can Ngô Đình Cẩn. Nếu căn cứ trên hồ sơ thì không có bất cứ bằng cớ nào cũng không có bất cứ giấy tờ của ông Cẩn ra lệnh cho các công an trong vụ tống tiền và thủ tiêu các nạn nhân gián điệp miền Trung. Tôi đã xin hỏi Ủy Viên chính phủ: “Trong hồ sơ có công văn nào giao quyền cho ông Cẩn chỉ huy bộ máy tư pháp, có một chỉ thị do bị can ký tên ra lệnh cho các công an viên đó hay không?” Tuyệt nhiên không có. Không có văn thư, không có bằng cớ đích xác đó, ủy viên chính phủ đành phải đưa ra nhân chứng để buộc tội ông Cẩn cho được. 

Nhưng nếu không được xác nhận bằng văn thư cụ thể khách quan, có gì bảo đảm rằng các nhân chứng vô tư, không bị chi phối vì tư lợi, không bị mua chuộc hay hăm dọa. Những người được gọi là nhân chứng này thực sự họ là ai? Mấy nhân chứng này là những người lật lọng tráo trở, quý tòa không thể nào tin vào lời nói của họ được!
Luật sư Võ Văn Quan đã trích dẫn một nguyên tắc pháp luật trong luật Hình sự được quy định rõ ràng như sau:
“Một điều luật trong Bộ Hình Sự quy định rằng Tòa phải – và chỉ – căn cứ vào hồ sơ mà thôi để phán xử, thậm chí những điều gì vị thẩm phán tự mình biết được, nhưng không có ghi nhận trong hồ sơ, thẩm phán ấy cũng không được quyền căn cứ sự hiểu biết riêng tư đó mà xử tội. Điều luật ấy rất công minh: những hiểu biết riêng tư không có ghi lại trong hồ sơ, không được Công Tố Viện và bên biện hộ nghiên cứu và tranh luận để nhận định xác tín, tức nhiên không thể dùng làm căn bản cho việc xét xử được.””
(Võ Văn Quan, ibid., Ngày Nay, số 107, tháng 1-93).
Và sau đây là lời nói chót của ông Cẩn:
“Ông diềm nhiên, chậm rãi nói rằng mình vô tội, không có quyền hành, không có ra lịnh cho các công an viên làm sự phi pháp. Ông không van xin cầu khẩn gì hết. Ông biết cái luật chơi tàn nhẫn của chính trị và ông có vẻ điềm tĩnh chấp nhận, mặc dầu đối tượng cuộc chơi chính là sanh mạng của mình.”
(Võ Văn Quan, Ibid, Ngày Nay, số 110. Tháng 5-93)
Về phía ông Ngô Đình Cẩn, sau khi bị tuyên án tử hình, ông Cẩn không nhận tội và một mực kêu mình vô tội.
Luật sưu Võ Văn Quan và ông Ngô Đình Cẩn trong khám Chí Hoà (1964). Nguồn: Petrotimes.

Nhưng Ls Võ Văn Quan cũng thừa biết ràng không thể nào có bản án tha bổng. Phiên xử tại Sài Gòn từ ông Ngô Đình Cẩn, bà Trần Trung Dung, Ls biện hộ thì đều tin chắc rằng: Bản án tử hình đã được định trước rồi. Tất cả chỉ là màn trình diễn như một vở kịch lớp lang có thứ tự đầu đuôi.
Người ta tự hỏi Công lý nằm ở chỗ nào trong Tòa án? Nằm ở phía trên ba tòa quan lớn với Lê Văn Thụ, Chánh thẩm. Lê Văn Đức, Công Tố Viên? Hay là nằm ở đằng sau cánh cửa tòa án với những nguời mà bà Trần Trung Dung sau này ở bên Mỹ có dịp kể lại từng chi tiết rõ ràng cho Ls Quan về những sách nhiễu tiền bạc bỉ ổi, những thủ đoạn gian manh đằng sau vụ án? Và quan trọng hơn cả là việc trao đổi trên xác chết Ngô Đình Cẩn của Nguyễn Khánh muốn lấy lòng nhóm Phật giáo Trí Quang? Khánh xoay đổi sự liên kết của ông cho phe phái nào hứa hẹn xét ra có lợi cho ông, ông sẽ ngả về phía ấy

Luật sư Võ văn Quan thừa hiểu dụng tâm của Nguyễn Khánh:
“Để mua chuộc cảm tình của giới Phật giáo. Chánh quyền tuyên bố sẽ đem Ngô Đình Cẩn ra xét xử ngay. Đúng. Ông Cẩn phải bị đưa ra xét xử để trả lời về những tội trạng của ông. Nhưng đột ngột đưa ông ra xét xử, với mục đích mua chuộc sự ủng hộ của giới Phật Giáo, mua thời gian cho chánh quyền- Đó không phải là hành xử công lý, nhưng là “ thủ đoạn chính trị lợi dụng công lý.”
(Ls Võ Văn Quan, ibid., Báo Ngày Nay, số 107, tháng 1-93)

Nguyễn Khánh đã chuẩn bị một hành lang pháp lý với sắc luật số 4/64 ngày 28.2.1964 để có thể đưa những người như Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn, Đặng Sỹ ra tòa và họ sẽ không tránh khởi bản án tử hình. Khánh đã đưa đại tá Nguyễn Văn Mầu, Giám đốc Nha Quân Pháp, lên làm Bộ Trưởng tư pháp để đưa ra luật 4/64.
Hiện nay tôi cũng không ai biết danh tánh nhóm luật sư nào đã soạn thảo bộ luật 4/64. Và dù nay có biết, họ cũng cố tình dấu nhẹm không để lộ danh tánh. Rồi ai là người ký bộ luật này để đem ra thi hành?

Quốc Trưởng Dương Văn Minh hay Thủ tướng Nguyễn Khánh? Nhưng Nguyễn Khánh đã khẳng định đổ hết tội lên đầu Dương văn Minh: cái chết của anh em ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Cẩn là do sự trả thù cá nhân của Dương Văn Minh.

Nguyên tắc của Bộ luật này là không tôn trọng nguyên tắc bất hồi tố của hình luật. Vì thế, tòa án có thể xử những tội ác gây ra trong thời gian từ 26-10-1955 đến 1-10-1963.
Điều 5, cấm tòa án cách mạng không được quyền giảm khinh, cũng như không được phạt án treo. Điều 16, cấm các bị cáo không được kháng cáo.
Đây là những điều luật giết người vô cùng dã man. Ngậm ngùi thay cho đất nước vào hồi mạt vận nên gặp phải những kẻ gian sảo vô tài lại bất lương, chối tội.

Đối với luật sư biện hộ thì văn hoa hơn, ông cho rằng khi “chính trị đi vào cửa trước thì pháp luật phải luồn ra cửa sau”. Ông cũng không quên viện dẫn trường hợp cách mạng Pháp như lời nói cuối cùng trước khi tòa định án như sau:
“Trong cuộc cách mạng năm 1789 của Pháp, Quốc Hội gọi là Convention Nationale, bầu trong thời kỳ La Terreur (Khủng bố) gồm đa số là những người do tên độc tài khát máu Ropespierre dùng áp lực đưa vào. Ropespierre đã tuyên bố là phải có án tử hình. Trong phiên tòa đặc biệt đó, Nhiều người của Convention Nationale đã cật vấn hằn học, mạt sát thậm tệ vua Louis XVI, cho thấy trước rằng họ sẽ bỏ phiếu tuyên án tử hình.
Khi đứng lên biện hộ cho Louis XVI, luật sư De Sège đã can trường nói thẳng với họ:
“Je viens ici chercher des Juges, mais je ne trouve que des Bourreaux.” (Tôi đến đây tìm những vị thẩm phán quan, nhưng tôi chỉ gặp những tên đao phủ thủ.)”
(Ls Võ Văn Quan, Ibid, số 119, tháng 5-93)
Dẫn chứng này của luật sư Võ Văn Quan có khác chi chỉ thẳng vào các sĩ quan đang ngồi xử án trên kia, họ không phải quan tòa mà chỉ là những tên đao phủ thủ không hơn không kém!

Lời kết án nặng nề như thế vậy mà các vị phán quan ngồi xử án ngồi im lặng không một ai lên tiếng phản đối.
Hay ngược lại, phải chăng nó nằm ở phía bị cáo ở vành móng ngựa? Ngô Đình Cẩn là ai? Nếu không có luật 4/64 thì cái đầu của Ngô Đình Cẩn vẫn còn dính trên cổ? Ông Cẩn khong chết vì tội đã làm mà chết vì khung pháp lý bất nhân như lưỡi hái tử thần phập xuống.

Vì thế, cho đến khi tôi cầm bút viết bài này, câu trả lời Ông Cẩn là ai? không phải là dễ cho bất cứ ai. Nhiều uẩn khúc vẫn còn đó.

Tướng Khánh phủ nhận mọi cáo buộc ông
Trong suốt thời kỳ Đệ Nhị Cộng Hòa, hầu như không một ai đã có dụng tâm muốn dở lại hồ sơ vụ án tử hình Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn và Đặng Sỹ. Mọi người muốn quên chăng? Cùng lắm người ta nhắc nhiều đến cái chết của anh em ông Diệm-Nhu với hằng trăm tài liệu phần lớn của người ngoại quốc viết.
Trường hợp ông Cẩn là bị bỏ quên hoàn toàn.

Chê có thể không đáng chê mà khen thì không tiện vì ông chỉ là một người ít học quê mùa, việc chính yếu của ông là thay anh em phụng dưỡng mẹ già. Thói thường người mình thường coi thường kẻ ít học. Dĩ chí đến anh em trong nhà cũng có thể có tâm trạng coi khinh “Cậu Cẩn”. Cộng thêm chức cố vấn chỉ đạo miền Trung mà chắc chắn không có văn thư chính thức nào của tổng thống phủ. Theo Trung tá Nguyễn Văn Minh do nhu cầu kết hợp các tổ chức đoàn thể miền Trung đã đưa đến quyết định thiết lập một văn phòng chỉ đạo do ông Ngô Đình Cẩn cầm đầu. Nó không có ngân sách, không thuộc hệ thống hành chánh chính phủ. Trong đó văn phòng cố vấn chỉ đạo chỉ có tính cách nội bộ, địa phương, không dính dáng đến chính quyền, được thành lập từ cuối năm 1957.

Sau này ra Hải ngoại tôi thấy đã bắt đầu xuất hiện nhiều hồ sơ lẻ tẻ liên quan xa gần đến nội vụ như: Bạch truyện tự ghi của Trí Quang, Thôn nữ Tự Truyện, của bà Ngọc An, vợ của Trung Tá Trần văn Thưởng, giám đốc Nha công an Trung Phần. Hồ sơ Thống Nhất Phật Giáo của Đỗ Trung Hiếu. Nhất là cuốn: Tổng kết nội vụ Phật giáo và |Đại Học (ghi Tối mật, dạng photoco y có dấu triện trên từng trang một) của Lê Dư, trưởng ty Cảnh sát Quốc Gia Thừa Thiên kính gửi Trung tướng chủ tịch Ủy Ban điều hành Trung nguyên Trung Phần. Rồi Bạch Thư của TT Thích Tâm Châu. Có những tài liệu đáng nghi ngại in photocopy, không đề tên tác giả như: Giấc Mơ lãnh tụ, ám chỉ hoạt động của Trí Quang và Phật giáo miền Trung.

Càng đọc càng thấy nhiều uẩn khúc, nhiều điều cần được suy nghĩ và nói ra.
Tôi cũng biết chắc, 10 người hết cả mười không mấy ai có cơ hội đọc Cuốn Hồ sơ Nhân Quyền: Phúc trình của phái đoàn điều tra Phật giáo. Bản báo cáo đầy đủ của Phái đoàn Điều tra Liên Hiệp Quốc phỏng vấn các nhân chứng nạn nhân, 1963. Và khi về họ đã đi đến kết luận: Không có đàn áp tôn giáo ở Việt Nam.
Và nếu ai cũng có cơ hội đọc được cuốn này thì hiểu rõ thực chất vụ tranh đấu Phật giáo, tránh được biết bao tranh cãi vô ích?

Về sách Mỹ liên quan đến Phật giáo, tôi rất trân trọng với cuốn: Lotus Unleashed, The Buddihst Peace movement in South Vietnam 1964-1966 của Robert J. Topmiller 2002.
Đọc cuốn này để hiểu Trí Quang là ai? Và Phật giáo trong giai đoạn 1964-1965 thực chất là một lực lượng chính trị đi song song với MTGPMN.
Tuy nhiên, cá nhân tôi bắt đầu lưu ý tới ông Ngô Đình Cẩn khi được Trung tá Nguyễn Văn Minh, Văn phòng ông Cẩn trong 9 năm viết hai cuốn sách: Dòng họ Ngô Đình, giấc mơ chưa đạt và cuốn thứ hai gần đây: Dòng họ Ngô Đinh, Giấc mơ bị phản bội. Tôi có cơ hội hiểu biết thêm về ông và những nguồn dư luận bên ngoài.
Tuy nhiên, tôi chỉ thực sự chú trọng tới hồ sơ Ngô Đình Cẩn khi được đọc các tài liệu phía bên kia: Cuốn Bội Phản hay Chân Chính của Dư Văn Chất cũng như bài “Nhà văn bất đắc dĩ” của Dư Văn Chất. (Tài liệu này được Dư Văn Chất trao cho Nguyễn Văn Trung khi ra hải ngoại).

Tài liệu tiếp theo là của Mười Hương trong cuốn: Tình Báo Chiến Lược. Và cuốn mới đây nhất cũng chỉ nhắc lại những ý kiến trước đây: cuốn Trần Quốc Huong, người chỉ huy tình báo, do Nguyễn Thị Ngọc hải chấp bút, 2015.

Nhưng tôi phải thú thực cuốn sách có khả năng lôi cuốn và thuyết phục tôi một cách mãnh liệt và dứt khoát là cuốn sách của luật sư Võ Văn Quan, lúc còn in trên báo Ngày Nay, năm 1992 trở đi: Luật sư Nghề hay Nghiệp. Nay luật sư cũng đã không còn nữa.
Tôi viết bài này phần lớn dựa trên tài liệu của tác giả, người đã hết lòng biện hộ cho Ngô Đình Cẩn. Và nay cúi mình trước vong linh cả hai người: kẻ bị cáo và kẻ biện hộ.

Tiếp theo là các bài phỏng vấn giá trị của Ls Lâm Lễ Trinh với những nhân vật như tướng Nguyễn Khánh (Bài phỏng vấn Nguyễn Khánh nay không còn truy cập được nữa) Tôn Thất Đính, đại tá Nguyễn Văn Y, Tướng Huỳnh Văn Cao, v.v..
Cũng không thể nào không nhắc đến các bài phỏng vấn của ký giả Hồng Phúc phỏng vấn Trung tá Trần Văn Thưởng, trung tá Nguyễn Văn Minh.

Sau đó đến bài viết của tác giả Tú Gàn lên án kết tội tướng Khánh. Cũng như ông Bùi Duy Liêm, đài truyền hình Hoa Thạnh Đốn, phỏng vấn tướng Nguyễn Khánh và trong bài phỏng vấn này đã tránh né một cách vụng về những luận điểm của Tú Gàn.
Trong phần này, chúng tôi ghi lại những gì tướng Khanh nói để trả lời những lời kết án ông trong âm mưu giết Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn và Đặng Sỹ.
Tướng Khánh trả lời phỏng vấn của đài truyên hình Hoa Thịnh Đốn.
Trong dịp trả lời phỏng vấn của đài Truyền hình Việt Nam tại Hoa Thạnh Đốn THVN-HTĐ ở vùng thủ đô Washington do ông Bùi Dương Liêm phụ trách. Người phỏng vấn đã đề cập đến việc ai ra lệnh giết ông Ngô Đình Cẩn để hỏi tướng Khánh

Tướng khánh cho biết: ông rất quý mến ông Ngô Đình Cẩn, vì ông Cẩn là người hy sinh để ở nhà lo cho mẹ, thay cho các anh.
Nhưng ông đã trả lời vụng về là ông không còn nhớ ông hay ông Dương Văn Minh đã ký các sắc luật ấy.

Ông đã tìm hết cách cứu mạng ông Ngô Đình Cẩn. Ông nhìn nhận là chính ông ký sắc lệnh bổ nhiệm các sĩ quan trong bồi thẩm đoàn trong đó có Đặng Văn Quang là người công giáo, rất thân cận với ông Cẩn cũng như hai sĩ quan công giáo khác và hai sĩ quan Phật giáo.(Thật ra chỉ có 4 bồi thẩm đoàn, không phải năm). Và ông hy vọng ba sĩ quan công giáo sẽ bỏ phiếu không kết án tử hình ông Cẩn.

Nhưng theo ông Khánh, cuối cùng thì Ông đại tá Quang đã không làm gì cả. Mặt khác thì Đỗ Mậu mỗi ngày cũng đến hầu tòa và dọa mấy ông ngồi trên đó
Khi hay tin ông Cẩn bị giết, cũng theo lời tướng Khánh nói, ông đau đớn lắm. Ông nói ông có liên hệ gia đình với ông Ngô Đình Diệm gần lắm, người ngoài không biết. Ông cũng từng nói với ông Dương Văn Minh, lúc đó làm Quốc Trưởng, quyền tha hay giết ông Cẩn là quyền của tướng Dương Văn Minh. Quốc Trưởng có thể đổi án tử hình thành tù chung thân, tại sao không làm như thế.

Ông Khánh còn cho rằng các tài liệu liên quan đến vụ án Ngô Đình Cẩn nay không còn nữa, ai tố cáo ông, xin nêu ra bằng cớ đi.
Ông Bùi Dương Liêm có đặt ra câu hỏi: “Luật tòa án Măt trận không được kháng án. Ai đặt ra luật đó?”Ông Khánh nói“Tôi không biết. Nhưng cứ cho tôi coi tài liệu!”

Trong đó, ông đặc biệt nhắc đến trường họp nhà báo Tú Gàn, tức Lữ Giang trong một bài báo viết tại California. Sau đó Tú Gàn có bài viết trả lời ngày 12.4.2009.
Tôi nghĩ rằng, Dương văn Minh được ông Khánh dựng lên, rồi bỏ đi như một thứ vật làm vì. Quyền hành tuyệt đối nằm trong tay một mình Nguyễn Khánh.
Tướng Nguyễn Khánh cũng như các tướng lãnh khác, cho đến khi chết, không một ai dám nói sự thật.
Đấy là sự thật trên cả sự thật. Họ tất cả đều hèn nhát.
Ghi lại quang cảnh ngày ông Ngô Đình Cẩn ra pháp trường do các nhà báo ghi lại tại chỗ.
Sau đây, chúng tôi xin trích nguyên văn quang cảnh pháp trường trong vụ xử ông Cẩn. Có lẽ chính trong cái bầu khí đượm chết chóc và thê lương ấy cho thấy cái không khí ấy rùng rợn như thế nào. Và chính cái chết ấy có thể để lại cho mỗi người chúng ta một bài học!!
Nhà báo Lý Quý Chung.
Một nhà báo trẻ tuổi Lý Quý Chung lúc bấy giờ, hẳn là không có mối hận oán gì với chế độ Đệ Nhất cộng hòa đã ghi lại tóm tắt như sau.
“Tôi vẫn nhớ thái độ ông Cẩn trước tòa án rất ngạo mạn, ông chẳng quan tâm gì đến diễn tiến phiên tòa. Chẳng chú ý tới các lời buộc tội ông. Ông mặc bộ đồ bà ba lụa mầu trắng, mắt nhắm nghiền như ngủ qua suốt các phiên xử. Nhiều lúc còn có cử chỉ tỏ vẻ khinh miệt khi các tướng tá đang ngồi xử mình.”
Và lúc bị đưa ra hành quyết, Lý Quý Chung viết:
“Ông bị trói chặt vào cột hành quyết và lúc sắp sửa bị bịt mắt, muốn được nhìn tận mắt cuộc hành quyết mình. Nhưng người thi hành án giải thich với ông rằng luật lệ không được phép cho họ làm khác. Người ta vẫn bịt mắt ông và một loạt súng kết liễu mạng sống của người thứ ba và là em út trong dòng họ Ngô từ sau cuộc đảo chính 1-11-1963.

Bài tường thuật của tôi nhấn mạnh hai điểm: Ông Cẩn không sợ cái chết và tỏ vẻ khinh khi những người xử ông ta tại tòa.”
(Nguyễn Văn Lục, Đọc Nhật ký của im lặng của Lý Quý Chung, DCVOnline)
Theo tôi, bài báo tuy tóm tắt. Nhưng ý nghĩa phiên tòa xử cũng như ý nghĩa cái chết đã nói lên đủ về con người ông Cẩn. Dư luận có thể coi thường ông, coi ông là lãnh chúa độc ác, là hung thần! Nhưng trước lúc đối diện với cái chết can đảm của ông buộc mọi người phải nghĩ lại về ông.

Tin và bình luận trên báo Chính Luận ngày 12-5-1964, “Báo chí Thủ đô và hai vụ hành quyết Cẩn, Đông”
“Khoảng 18 giờ 27 phút, im lặng đến tức tưởi, đòi hỏi sự phựt đứt ngay trong khoảng 1,2 tích tắc.
10 Quân Cảnh ( QC) ngắm vào cái đích là tử tội. 10 QC đều biến thành 10 cái tượng, không nhúc nhích. Lần đầu tiên trong đời, tôi nghe được sự im lặng lạ lùng ma quái. Sân banh sắp chuyển theo một cái chớp mắt của thời gian để chính thức biến thành một Pháp trường. Vẻ nhợt nhạt của kiếp sống lởn vởn trong không khí. Khẩu lệnh “bắn” được phát ra, những tiếng nổ giòn mang ý nghĩa của những tiếng giải thoát che lấp một phần nào sự trống phẳng.
Tử tội ngoẹo đầu sang phía tay mặt, gục xuống, bàn tay trái có máu, cả thân hình sụm đổ, nhưng bị giữ lại nửa vời thân trên tách khỏi cái cột nhô về trước. Máu túa ra nhiễu ở ống quần chân mặt, đỏ tươi. Hai chân tử tội gập khúc nơi đầu gối, xoạng ra, cong vòng.
Sự im lặng biến thành ghê rợn, nghe rõ tiếng quần áo của tử tội phất theo gió thổi. Người chỉ huy 10 quân cảnh, chạy tới bên tử tội – bây giờ là một tử thi – dùng súng ngắn bắn phát thi ân vào đầu. Bác sĩ khám nghiệm và xác nhận một cái chết, chiếc cáng trắng mới rồi đưa tử tội từ khung cửa sổ có song sắt lại được mang ra.
Người ta tháo dây trói cho tử tội, thật lúng túng, sau nhờ bàn tay chuyên môn của ông Phối mới xong. Thây tử tội được đặt trên cáng, đưa trở vào khung cửa sổ có song sắt, đóng lại.”

Và ông (Chu Tử) kết:
“Người đã chết, không còn là “người” nữa nên hết là kẻ thù của chúng ta. Chúng ta, đều muốn gạt họ qua một bên, gửi vào quên lãng, nhưng cần phải có một thời gian và một thực tế đẹp đẽ để niềm vui xóa nhòa những nghẹn ngào bi thảm hôm qua.”
Một vài nhận xét của báo Chính Luận ngày 12-4-64.

Không hiểu nhà văn Chu Tử có vạch đầu gối ra để nói chuyện hay không. Chỉ biết ông công nhận cho Cẩn một điểm là Cẩn đã biết chết tương đối đàng hoàng. Ông cho rằng
“trong lúc sắp bắn Cẩn giữ sự im lặng hoàn toàn đến nỗi các ký giả ngồi cách xa hơn 10 thước còn nghe thấy hơi thở, mồ hôi của Cẩn và tiếng gió thổi phành phạch vào ống quần trắng của Cẩn.”

Cảm tưởng chung của ông là:
“Cẩn chết là đáng vô cùng, nhưng án tử hình là một án không nên tồn tại trên thế gian. Trên thế gian này, không ai nên nhân danh công lý hoặc nhân danh cách mạng, hoặc nhân danh nền văn minh nhân loại để tỗ chức “lễ” bắn một người khác dù là một kẻ trọng tội chồng chất trăm nghìn tội ác trên đầu như Cẩn.”
Tôi không thấy cần thiết phải có thêm ý kiến gì nữa, vì tờ Chính Luận khi đăng lại bài viết của Chu Tử, họ đã có ý kiến rồi.

Bài viết của Ký giả Nam Đình, báo Thần Chung
Sau đây là bài viết của ký giả kỳ cựu Nam Đinh, báo Thần Chung. Một tờ báo bị ông Diệm đóng cửa ngay giai doạn 1954, vì nghi ngờ là tờ báo thiên Cộng. Ông viết:
“Tưởng chừng mình đau khổ vì tinh thần hơn ai hết, khi phải chịu đựng 9 năm trời: từ 1954, Diệm hạ lệnh đóng cửa Thần Chung. Tội gì?”
Ông đã tham dự các phiên tòa xử 42 trí thức bị mật vụ tra tấn và khảo của, ngày 23-6-64. Vụ 13 nhân viên cao cấp trong ngành Cảnh sát Quốc gia, Chúa nhật 18, thứ hai 19-7-65.
Và dĩ nhiên, trong đó có vụ xử Ngô Đình Cẩn mà nhà báo Nam Đình đã đặt ra với rất nhiều tiêu đề như: Cả ba anh em Diệm Cẩm, Nhu chết hụt nhiều lần. Diệm thoát chết hồi 1945. Ai cho Cẩn hay giờ hành quyết. 12 giờ trưa mà Cẩn không đói Khi hay tin không được ân xá. 10 phút riêng với cha Thí. Tên Thánh của Cẩn Tại sao bịt mắt tôi. Những chi tiết. Ngô Đình Cẩn trối trước giờ chết.
Với một giọng văn có sự miệt thị và hận oán không cần thiết đối với một tử tội. Tôi không phục tư cách hành nghề của ký giả Nam Đình. Ông thiếu hẳn một tấm lòng cũng như thiếu hẳn tư cách của một ký giả chuyên nghiệp trước một tử tội. Tôi xin trích dẫn:
“Trong vụ xử bắn Ngô Đình Cẩn, ngoài những người có trách nhiệm như ông Chưởng lý Nguyễn Văn Đức, Thừa phát lại Lâm Văn Sáu, bác sĩ Phúc, đại tá Bùi, Quân vụ Thị trấn ngoài ra còn có ông Lục Sự, Cha Thí (Linh mục của Trung tâm cải huấn Chí Hòa) Và ông Trung tá Quản đốc Trung tâm cải huấn và hai hiến binh. Tất cả đám người này đã lên lầu ba, nơi Cẩn bị giam giữ Ông Cẩn đã nằm nghe ông Lục sự đọc bản án tử hình, có lẽ đến hơn 10 phút. Sau bản án tử hình, tới sắc luật Quốc Trưởng bác đơn ân xá.
Khi nghe ông Lục sự đọc tới đây, Ông Cẩn đưa tay lên kệ, lấy sâu chuỗi mà người Thiên Chúa giáo thường có.
Ông Cẩn đọc kinh lần chuỗi
Ông Lục sự hỏi:
Ông có tuyên bố gì không?
Cẩn nói:
Tôi cầu nguyện cho Quốc Gia Việt Nam… Tôi sẵn sàng chết”
“Súng nổ đúng 6 giờ 20 phút. Chùa Bửu Liên? Sự ngẫu nhiên là Hòa thượng đọc kinh lúc Ba Cụt Lê Quang Vinh lên gươm máy Cần Thơ, lại là Hòa thượng ở chùa Bửu Liên. Một sự tình cờ khác là Ngô Đình Cẩn day mặt về hướng chùa Bửu Liên lúc thọ hình. Cũng như Diệm Nhu được đưa xác vào nhà thương St Paul gần chùa Xá Lợi!”
(Trích Ký giả Nam Đinh, Báo Thần Chung, 9-5-64)
Linh mục Thí làm lễ giải tội cho Ngô Đình Cẩn trước giờ ra pháp trường. Nguồn: http://kienthuc.net.vn
Gớm thay tâm địa con người và nghề làm chính trị thật nhiều nỗi oan khiên!

Ngoài ra còn có khoảng có 200 người đến tham dự như gia đình bị can, đại diện báo chí, đại diện cho đủ mọi thành phần xã hội, cho cả người xấu lẫn kẻ tốt, đại diện cho công lý của giới quan tòa, thẩm phán, luật sư. Đại diện cho dư luận báo chí cũng có. Như Chu Tử ở trên, như Nam Đình, như Lý Quý Chung. Đại diện cho giới Phật tử cũng có, giới tu sĩ công giáo cũng không thiếu.

200 người này có thể còn đại diện cho những người không có mặt, đang ngồi ở nhà theo dõi trên báo chí truyền thanh như trường họp Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh và cả Trí Quang.

Ai là người cảm thấy mình vô tội? Chu Tử ở trên cũng nhận xét là Ngô Đình Cẩn chết đàng hoàng? Thế nào là chết đàng hoàng? Sống không đàng hòang mà chết lại đàng hoàng? Rồi một lần nữa vừa kết án, vừa quân tử tàu khuyên: “không ai nên nhân danh công lý hay cách mạng … để rồi tổ chức “lễ” bắn một người khác như Ngô Đình Cẩn.”

Đọc bài tường thuật trực tiếp trên báo chí thời 1964, tôi liên tưởng đến câu chuyện Chém treo ngành của nhà văn Nguyễn Tuân, ghi lại khung cảnh xử chém những người tử tù của chính quyền thực đân Pháp.
Mặc dầu sự liên tưởng này không nhất thiết có cùng một nội dung và hoàn cảnh. Nhưng bầu khí tử thần lảng vảng đâu đó thì ở đâu cũng vậy, thời nào cũng thế.
Chết trở thành một thông điệp của người chết để lại cho người còn sống.
Nhưng nó đều giống nhau ở cái không khí lành lạnh, mùi tử khí luẩn quẩn đâu đây với sự thê lương và im lặng ma quái.
Và trong cái giờ phút ấy, những kẻ gây ra “tội ác” ấy nghĩ gì? Ai là người đưa Ngô Đình Cẩn đến chỗ chết? Câu hỏi ấy chỉ quan trọng đối với người còn sống, nhưng lại trở thành vô nghĩa đối với người chết.

Tôi là người còn sống nên tôi có dịp dở lại đọc tờ báo Lập Trường, cơ quan tranh đấu của Hội Đồng Nhân dân cứu quốc ngoài Huế có bài viết sặc mùi sắt máu: Đồng bào Huế và Trung Việt nghĩ sao? Đặng Sỹ ra tòa tại Sài gòn? Theo bài báo: Lúc xử ông Ngô Đình Cẩn, tất cả các báo Sài Gòn đều viết rằng nhân dân đã xử ông Cẩn trước khi tòa án xử. Đối với Đặng Sĩ cũng vậy, nhân dân đã xử rồi chứ đâu có tòa án cách mạng? (Báo Lập Trường, tháng 6, 1964)

Như vậy cái chết của Ngô Đình Cẩn là do Nhân dân xử mà những vị như ông Thẩm Phán Lê Văn Thụ chỉ là người thừa hành ý của nhân đân? Rồi luật sư biện hộ như Võ Văn Quan hẳn là biết rõ công việc mình làm và đã làm một cách hết mình, cô đơn trong những ngày xử án?

Chính cái Hội Đồng ấy gián tiếp giết Phan Quang Đông, rồi Ngô Đình Cẩn. .
Sức mạnh của Hội đồng ấy sau trở thành như một chính phủ “ma”. Chính Hội đồng ấy phủ nhận chính phủ Tam đầu chế (ông Minh- ông Khánh-ông Khiêm). Và rồi ông Minh và ông Oánh phải lục tục kéo nhau ra Huế để thỉnh ý Hội Đồng. Hội Đồng với quyền lực thương thuyết tay đôi với chính phủ. Tại nhiều tỉnh miền Trung, nhiều Hội Đồng đã được thiết lập và người ta đã chứng kiến cái tấn bi hài kịch của những người dư đảng Cần lao ra trình diện ông Tỉnh trưởng. Ông Tỉnh trưởng lại chuyển qua Hội Đồng xét xử.

Cho nên, cái chết của Ngô Đình Cẩn chung cuộc là để thỏa mãn lòng hận thù được ngụy trang đưới cái được gọi là Nhân Dân? Nhưng Nhân dân là ai mới được?
Trong lời khởi đầu bài biện hộ, luật sư Quan đã nói:
“Tôi khởi đầu với một giọng trầm trầm: “ Bên ngoài là cả một biển hận thù. Hận thù đối với chế độ đã bị lật đổ, hận thù đối với bị can Ngô Đình Cẩn, đã thành là biểu tượng của Ngô triều. Tòa chưa xử, nhưng đã có nhiều người nhứt quyết đòi cho được một bản án tử hình, đòi mạng phải đền mạng, nợ máu phải trả bàng máu.”
(Võ Văn Quan, Ibid. Ngay Nay, số 108, tháng 2-3-93)
Theo tôi, giết ông Ngô Đình cẩn là một cái chêt vô ích cho mọi phía. Cùng lắm chỉ thỏa mãn lòng hận thù của một thiểu số người
Tuy nhiên, theo tôi giữa cái chết của anh em ông Ngô Đình Diệm-Ngô Đình Nhu và cái chết của ông Ngô Đình Cẩn có những sự khác biệt nên nói ra.

Trong vụ thảm sát anh em ông Diệm-ông Nhu. Cho đến giờ này, mọi người trong cuộc đều không nhìn nhận là kẻ trực tiếp ra lệnh giết ông Diệm. Để tránh né, hay chạy tội, không một tướng lãnh nào đã nhận giết ông Diệm, ngay cả cái người được coi là chủ mưu với nhiều bằng cớ như Dương Văn Minh. Dương Văn Minh đã tìm cách đổ lên đầu Nguyễn Văn Thiệu! Nguyễn Văn Thiệu đã phản ừng một cách quyết liệt và chê trách Dương Văn Minh hèn. Phần đông, cách hay nhất là cứ đổ thừa cho ông Cabot Lodge hay người Mỹ đã chủ mưu giết anh em ông Ngô Đình Diệm.

Dương Văn Minh là một Pilate của thời đại, rửa tay để như thể không dính vào máu cho đến lúc ông chết.
Theo tôi, ông Diệm và ông Nhu bị giết chết không phải vì căm thù mà vì cái tai họa phát xuất từ chính họ, bởi vì họ còn quá mạnh. Tướng lãnh quá sợ hãi hai người họ, nhất là ông Nhu. Vì thế cách tốt nhất là trừ hậu họa để tránh một sự lật ngược thế cờ như hồi 1960 thì số phận họ sẽ ra sao?

Cái chết của hai anh em ông Diệm là để trừ hậu họa mà người Mỹ có thể bất lực không can thiệp được hoặc gián tiếp chấp nhận!

Mới đây, nhà báo kỳ cựu Nguyễn Ngọc Linh vừa mới qua đời, tờ Người Việt đã cho phát lại 6 buổi phỏng vấn ông Nguyễn Ngọc Linh. Trong đó ông Nguyễn Ngọc Linh cũng nhìn nhận tướng tá VNCH chẳng ra cái gì cả, vừa không có uy, vừa không có kiến thức nên bắt buộc vì sợ anh em ông Diệm mà họ phải trừ khử. Và sau đó, họ kéo VNCH xuống hố.

Ông cũng thẳng thắn nhìn nhận, cá nhân ông thương ông Diệm lắm. Ông Diệm nói tiếng Anh lưu loát, nhưng khi phải tiếp xúc với giới chức Mỹ cao cấp, bao giờ ông Diệm cung sai ông Võ Văn Hải kêu ông Nguyễn Ngọc Linh vào làm thông dịch viên.
Cái chết của ông Ngô Đình Cẩn khác hẳn. Nó là một vụ án chính trị, có khuôn khổ nằm trong luật 4-64, ký ngày 18 tháng 2, năm 1964 dưới thời Nguyễn Khánh, cho thiết lập tòa án Cách mạng. Luật này có hiệu lực hồi tố. Số phận của ông Cẩn nằm trong tay Nguyễn Khánh và cái được gọi là Nhân dân. Mà nhân đân ở đây cụ thể là Hội Đồng Nhân dân cách mạng ngoài Huế và một số tỉnh miền Trung như Nha Trang, Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Ngãi. rồi cái Hội Đồng ấy đổi ra cứu quốc do Trí Quang và một số giáo sư đại học Huế chủ trì.
Sở dĩ, tôi có thể nói như thế, vì sau này, trong vụ Biến Động miền Trung, TT Trí Quang đích thân đị gặp Ls Vũ Văn Quan để nhờ ông biện hộ cho gà nhà như trường họp bác sĩ Mẫn, Thị trưởng Đà Nẵng.

Cái chết của hai anh em ông Diệm-Nhu, thú thực tôi không học được nhiều điều và nó cũng chẳng ám ảnh tôi bao nhiêu. Cùng lắm là sự coi thường về sự bất tài của một số tướng lãnh vì họ làm đảo chánh xong mà không biết họ phải làm gì, ngoài chuyện ngoan ngoãn vâng lời người Mỹ.

Cái chết của ông Ngô Đình Cẩn trái lại dạy cho tôi nhiều điều về chính trị đảo điên, về tình đời, về thái độ ứng xử trong hoàn cảnh cay nghiệt. Và điều quan trọng hơn cả, nếu ông không chịu án tử hình thì thái độ của tôi đối với ông không mấy tốt đẹp cũng như thiếu sự trân trọng. Chính cái chết ấy làm cho ông trở thành cao cả và cho thấy cái nhỏ nhen và tầm thường của nhiều người.
Thái độ của ông cũng như phong cách của ông trước tòa án cúng như khi đối diện với cái chết làm cho ông lớn lên và cho những kẻ thù ông ngồi đó nhỏ đi, ti tiện hơn.

Luật sư Quan viết lại trong lần gặp gỡ cuối cùng trước khi ông Cẩn bị hành quyết ở sân phía sau khám Chí Hòa. Ông Cẩn và luật sư đã nói chuyện với nhau trong ba tiếng đồng hồ và ông Cẫn đã tâm sự rất nhiều. Và lần đầu tiên, ông tiết lộ bí mật ông giữ kín từ trước. Ông cho biết rằng bà Trần Trung Dung có thuật lại với ông là trước khi ông bị đem ra xét xử, “người ta” (ông vẫn còn dấu không tiết lộ đích danh) hứa nếu ông bằng lòng chuyển cho “người ta” số tiền mấy triệu đô la trong trương mục của ông ta tại Thụy Sĩ, ông sẽ được phi cơ lén đưa qua Singapore sống tự do. Nhưng ông ta biết người đó là kẻ lật lọng, nếu ông lầm tin chuyển tiền cho họ thì sẽ bị cảnh “tiền mất tật còn” nên ông cương quyết từ chối. Về sau, nhân dịp một linh mục tới khám Chí Hòa cùng với ông làm lễ, ông ký giấy ủy quyền cho dòng tu của linh mục ấy lãnh số tiền kể trên, tờ ủy quyền được giấu trong một quyển kinh sách của vị linh mục. Ông tâm sự: “Tôi thà dâng cho Chúa chứ không chịu làm giầu thêm cho họ!”

Sau đó, luật sư kết luận:
“Ra về, tôi không khỏi thầm phục con người can trường, biết cái chết thê thảm đang kề trong gang tấc mà vẫn giữ được phong thái thản nhiên, ung dung suốt mấy tiếng đồng hồ ngồi trò chuyện với tôi.”
(Võ Văn Quan, ibid., Báo Ngày Nay, số 110, tháng 5-93)
Thật vậy, trong những phiên tòa biện hộ. Ls Quan tiết lộ là ông Cẩn chỉ nhờ ông có một điều- một điều mà ông Quan không muốn nói. Đó là:
“Những nhân chứng này là những người tráo trở, lật lọng, quý tòa không thể tin vào lời nói của họ được. Họ đã từng khúm núm xưng con với những người của chế độ cũ. Họ đã từng nịnh bợ đủ cách để xin xỏ ân huệ. Ngày xưa, họ lòn cúi bao nhiêu thì sau cuộc đảo chánh, họ càng a dua, mạt sát, chà đạp những người cũ để khỏa lấp quá khứ gian nịnh và lập công với chế độ mới.”
(Võ Văn Quan, ibid., Báo Ngày Nay, số 110, tháng 5-93)
Có ai còn nhớ câu xin xỏ: "Cụ cho con lên Tượng" của phản tướng nào không? G2
Luật sư Võ Văn Quan cũng liên hệ trường hợp của ông Ngô Đình Cẩn về những kẻ lật lọng giúp liên tưởng đến trường hợp César thời cổ La Mã. Brutus vốn là một tướng thân cận của César được coi như một đứa con nuôi và được César nâng đỡ hết mình. Nhưng đến ngày phe nghịch làm phảm mưu sát và đâm túi bụi César, ông chống đỡ mãnh liệt. Nhưng khi nhìn thấy Brutus cũng có mật trong đám sát nhân. César than: Cho đến con mà cũng phản cha nữa sao? Ròi láy vạt áo bào che mặt, mặc cho những tên sát nhân chém giết!
Trong số những tướng lãnh của nền Đệ Nhất cộng Hòa, đã có bao nhiêu Brutus?
Nhưng mặt khác, có một nhận xét không thể thiếu được là chính thái độ đối diện với cái chết bên bờ tử sinh là một thái độ của Ngô Đình Cẩn mà ít ai sánh bằng theo như lời kể lại của luật sư Vũ Văn Quan!
Và luật sư Võ Văn Quan, người nhận công việc bẽ bàng là biện hộ cho bị can đã viết trong vụ Đặng Sĩ như sau về việc TT Trí Quang không ra làm chứng trước tòa:
“Trong thơ, TT tuyên bố sẵn sàng ra tòa khai rõ về những việc đã xảy ra tại miền Trung, vì chính ông lãnh đạo cuộc tranh đấu ấy Dĩ nhiên, tòa không mời TT Trí Quang ra tòa làm nhân chứng để ông không dùng phiên tòa làm dĩễn đàn chính trị. Còn truy tố ông, “ họ” dám thì đã làm từ lâu. Chưa kể đằng sau tòa án, còn có” những sách nhiễu tiền bạc bỉ ổi, những thủ đoạn lừa lọc gian manh.”
(Võ Văn Quan, Luật sư Nghề hay Nghiệp, số 100, tháng 5-92)
Đây là tâm sự trao đổi giữa ông Ngô Đình Cẩn và luật sự Quan sau khi Tòa tuyên án tử hình:
“Trước khi vô phòng để nghị án, Tòa cho ông Cẩn nói lời chót. Ông điềm nhiên chậm rãi nói rằng mình vô tội, không có quyền hành, không ra lệnh cho các công an viên làm sự phi pháp. Ông không van xin cầu khẩn gì hết.
Ông biết cái luật chơi tàn nhẫn của chính trị và ông có vẻ điềm tĩnh chấp nhận, mặc dầu đối tượng cuộc chơi là chính sinh mạng của mình.
Sau khi nghị án tới khya. (Tôi đoán rằng họ kéo dài thời gian để nghỉ ngơi, ăn uống) Tòa trở ra tuyên xử tử hình.
Ông Cẩn lặng thinh.
Tôi vịn vai ông an ủi.
Hai quân cảnh bước tới kéo ông đi, khi đến gần tới cửa, bất thần ông ngoái lại nhìn tôi, đôi mắt bỗng nhiên bi thiết sau cặp kính trắng. Lần đầu tiên cũng là lần duy nhứt, tôi bắt gặp cái nhìn chới với, bi thiết như vậy nơi ông Cẩn.
Cho tới bây giờ cái nhìn đó vẫn còn ám ảnh tôi mỗi khi nhớ lại vụ án.”
(Võ Văn Quan, Luật sư Nghề hay Nghiệp, ibid., số 110, tháng 5, 1992)
Kết luận
Ông Ngô Đình Cẩn (1964). Nguồn: OntheNet
Nếu cần thiết phải nói thêm điều gì về cái án tử hình của ông Ngô Đình Cẩn thi tôi chỉ có vài dòng: đây là cái chết của một con dê thế thần. Ông chết cho gia đinh ông. Cho sự đạo đức thánh thiện dễ tin người của anh ông Ngô Đình Diệm. Cho sự lú lẫn không phân biệt đạo với đời của một Ngô Đình Thục, của thói lăng loàn của bà Ngô Đình Nhu.
Và hẳn là ông cũng chết cho nhưng kẻ ám hại ông như Dương Văn Minh- Trần Thiện Khiêm- Đỗ Mậu- Nguyễn Khánh- Tôn Thất Đính vốn chỉ là bọn tướng thiếu đức, thiếu tài.
Tôi mượn lời Chúa như một lối giãi bày biểu tuọng trong ngày chịu nạn thay cho ông Diệm và chế độ của ông:
“Pópulé méus, quid fécit tibi? Aut in quo contristávit te? Respónde mihi.”
(Dân ta hỡi, Ta đã làm gì cho ngươi điều gi? Hãy trả lời cho Ta hay.)
“Quia edúxi te de térra Aegýpti: Parasti Crúcem Salvatsritúo.”
(Phải chăng vì ta đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập. Nên vì thế Thập ác ngươi đã dành cho Đấng cứu ngươi).
Tôi rung động khi viết những dòng này.
Và chúng ta đừng quên, ngay một kẻ đã làm theo lệnh của bọn tướng lãnh trên, số phận anh ta cũng không hơn gi: Thiếu tá Nguyễn Văn Nhung được coi là người đã ra tay trực tiếp giết hại hai anh em tt. Diệm.
Cuối cùng ông cũng bị chết thảm – thêm một con dê thế thần- ngay khi Nguyễn Khánh làm chỉnh lý. Đây là cảnh giết người để bịt miệng!!!
Xin mượn lời sách Thánh như sau:
Hôm nay trong nhà thờ đạo công giáo của tuần thánh, người ta nghe tiếng thày sáu đọc sách Thánh như sau:
“Khi ấy Chúa bảo hai ông MaiSen và Aaron ở Ai Cập rằng, tháng này là tháng thứ nhất trong năm, tháng thứ nhất trong mọi tháng. Hãy bảo cho toàn dân biết rằng: Ngày thứ 10 trong tháng này, mỗi họ và mỗi nhà phải chọn một con chiên. Nếu trong nhà không có đủ người để ăn, thì hãy mời thêm những người lân cận nhất, đủ để ăn. Phảỉ chọn con chiên đực, trong sạch được một năm. Các người cũng có thể thay thế bằng một con dê đủ điều kiện như thế. Hãy giữ nó cho đến ngày 14 tháng này và tất cả dân chúng Israel sẽ hiến dâng nó vào buổi chiều. Hãy lấy máu nó bôi lên hai cánh cửa và xà ngang của nhà có người ăn. Trong đêm ấy, hãy ăn thịt nướng với bánh không men và rau rừng. Đừng ăn sống hoặc luộc, nhưng nướng. Hãy ăn tất cả đầu, chân và bộ lòng. Không được để thừa đến sáng mai. Nếu còn thừa thì hãy đốt đi. Đây là cách thức phải giữ trong khi ăn: Hãy thắt lưng, chân xỏ giầy, và tay cầm gậy. Hãy ăn vội vã vì là ngày vượt qua, ngày Chúa vượt qua.”
(Theo Cựu ước, lễ ăn thịt chiên là để kỷ niệm ngày giải phóng dân tộc Israel ra khỏi ách nô lệ Ai cập. Đằng khác, việc hiến dâng còn mang ý nghĩa như một sự cứu chuộc.: Mọi tội ác của người ta sẽ đổ lên đầu con chiên đực trong sạch kia và khi con vật được thiêu hủy đi, nó mang theo luôn tất cả những vết tích nhơ bẩn đó)
(Xem tiếp p2, p3, p4)

Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p2)

Nguyễn Văn Lục

Trong bản Tự thuật của TGM Ngô Đình Thục cho thấy những người em của ông như Ngô Đình Luyện, rất giỏi, được gửi sang Pháp từ năm 12 tuổi. Học lớp sáu xong nhảy lớp bốn. Hết lớp bốn nhảy lớp 2.. Bao giờ cũng đứng đầu lớp. Đỗ tú tài xong được nhận vào trường lớn, École Centrale Paris (ECP).
Tiếp theo p1
Người trước dư luận!
Và bản thân TGM Ngô Đình Thục cũng du học Roma rồi Paris. Và là một trong bốn giám mục tiên khởi, thứ ba ở Việt Nam lúc bấy giờ. Trong bản Tự thuật đó, TGM Thục không đả động gì đến việc học của Ngô Đình Nhu cũng như của chính ông.
(“Autobiographie de Mgr Pierre Martin Ngo Đinh Thục”, Archevêque de Hue, tài liệu trích trong Le Doctrinaire).
Trong “Curriculum Vitae De Mgr. Pierre Martin Ngô-Dinh-Thuc” viết năm 1978 khi ông 80 tuổi có đoạn
<ndthuc_life.jpg>
TGM Ngô Đình Thục (1897-1984) (LIFE)
“Mes études à Rome, du point de vue humain, étaient une suite de succès. Je raflais tous les prix: docteur en philosophie, en théologie, en droit canonique – avec mention très bien ou bien – puis la licence d’enseignement à la Sorbonne. Je rentrais à Hué, en 1927. Nommé professeur d’abord chez les Frères vietnamiens fondés par Mgr. Allys, puis au Grand-séminaire, puis proviseur du collège de la Providence rồi theo lệnh của Toà tahsnh Vatican về làm Đại biện Tông đồ tại Vĩnh Long.
J’étais le troisième vietnamien appelé à l’épiscopat. Le premier fut Mgr. J.B. Nguyễn-bá Tòng, cochinchinois, nommé à Phát-diêm au Tonkin. Le second, Mgr. Cân – mon frère spirituel puisque fils spirituel de Mgr. Allys — occupait à Vinh-long un vicariat apostolique détaché du grand Vicariat de Saigon dont l’évêque était le saint Mgr. Dumortier. On était en l’année 1938.”
(Nguồn: “Curriculum Vitae De Mgr. Pierre Martin Ngô-Dinh-Thuc”, 13 tháng Hai, 1978. Trích trong “EINSICHT, Jahrang 28 Sonder Mommer, trang 14-17, April 1998)
“Việc học của tôi tại Rome từ quan điểm của con người xem ra là một loạt các thành công. Tôi đoạt được mọi giải: tiến sĩ triết học, thần học, giáo luật — với hạng danh dự hoặc rất giỏi — và chứng chỉ giảng dạy tại đại học Sorbonne. Tôi về Huế vào năm 1927. Trước tiên được bổ nhiệm là giáo sư trong hàng ngũ tu sĩ Việt Nam do Đức Ông Allys thành lập. Allys, sau đó tại Đại Chủng Viện, rồi là hiệu trưởng của trường Providence, từ đó tôi đã theo lênh Tòa Thánh để nhận chức đại diện tông tòa của Vĩnh Long.
Tôi là người Việt thứ ba được phong Giám mục. Đầu tiên là Mgr. J.B. Nguyễn Bá Tòng, người miền Nam, phong nhậm ở Phát Diệm tại Bắc Kỳ. Thứ hai, Đức Ông. Cân – anh tinh thần của tôi là con trai tinh thần của Đức Ông Allys – thuộc giáo phận tông tòa Vĩnh Long tách ra khỏi Giáo phận Sài Gòn lớn mà giám mục là thánh Giám Mục. Dumortier. Đó là năm 1938.”
Người ta có thể biết đến Ngô Đình Thục nhiều hơn trong một tài liệu của Charles Keith nhan đề: “Annam Uplifted: The First Vietnamese Catholic Bishop and the Birth of a national Church, 1919-1945”đã đề cao 4 vị giám mục tiên khởi. Những vụ phong chức này từ 1933-1945, họ là những vị giám mục đầy quyền lực và làm vinh danh cho dân công giáo bản địa theo đúng tinh thần của Vatican muốn bản địa hóa giáo hội địa phương và biến giáo hôi Việt Nam dần dần đi đến chỗ tự quản.
(Charles Keith, “The first Vietnamese Catholic. Bishop and the Birth of a National Church, 1919-1945”. Bản dịch của Phạm Minh Ngọc, đăng trên diến đàn Talawas.org)

Đó là một vinh dự chung cho Giáo Hội Việt Nam, riêng cho TGM Ngô Đình Thục. Sau khi thụ phong, ông cùng với Ngô Đình Diệm- Ngô Đình Nhu đi nhiều nơi và người ta được biết chút gì về ông Diệm là kể từ thời kỳ này. Ngay khi sang Mỹ sau này, nhân vật Ngô Đình Thục nổi trội hơn cả người em đi cùng là Ngô Đình Diệm.

Sau này, người cháu gọi ông bằng Bác, TGM Nguyễn văn Thuận, còn có được vinh dự lớn lao hơn là Hồng Y ở Vatican, chức vụ cạo trọng bậc nhất trong giáo triều và nhận được sự ưu ái đặc biệt của GH Phao Lô đệ nhị. Không thể dễ dàng gì trong một dòng họ lại có được những người con suất sắc như vậy.
Ngô Đinh Nhu, thông minh sắc sảo, có đầu óc, có kiến thức nhiều, hiểu biết lịch sử, quá tự tin, nhưng lại nặng phần lý thuyết, nặng về kế hoạch. Tính tình lạnh nhạt, bướng bỉnh và không gây được cảm tình cũng như sự tín cẩn của các đồng chí.
Cả hai anh em đều nặng tình gia đình . Và nếu đủ cương quyết, ông Ngô Đình Nhu có thể tránh được tai họa cho cả hai anh em. Cái khuyêt điểm lớn nhất làm tan nát sự nghiệp của ông là nể vợ. Bà Nhu là cái cớ cho dân chúng oán ghét gia đinh họ Ngô. Ông Đoàn Thêm đã nhận xét một cách chí lí là người Việt Nam chưa đủ trưởng thành để có thể chấp nhận một người như bà Nhu. Nhất là những lời tuyên bố ngạo mạn của bà trong vụ Phật giáo như đổ thêm dầu vào lửa.
Ông Ngô Đinh Thục thời trẻ tương đối được. Nhưng dần dần ông trở thành cái đinh cho người đời nguyền rủa và xa lánh chế độ. Đối với nội bộ giáo quyền, Giám mục Thục đã gây ra những mâu thuẫn đến lời qua tiếng lại đối với các giám mục, linh mục, tu sĩ di cư ngay từ năm 1957.
Trong một lá thư, dài ba trang đánh máy, đề ngày 29 tháng tư, 1957, viết tại Vĩnh Long, GM Thục đã lên tiếng mạnh mẽ, tố cáo đích danh nhiều linh mục vi phạm tiền bạc di cư và phê phán các trường di cư mở trường bừa bãi mà không có bằng cấp gì cả. Trong khi người di cư cho rằng họ đã hết lòng với cụ.. Ngược lại Gm Thục cho thấy người di cư nhiều khi đã phản bội cụ.

Xin trích nguyên văn:
“Có giám mục đã xin Bộ đòi bắt giam ông cố vấn. Lính một Giám mục khác đánh Quốc gia ở Rừng Sát.. Tôi sẵn sàng trả lời mọi thắc mắc của các Đấng ấy.”
(Tài liệu photocopy riêng của Nguyễn văn Trung)
Theo tôi, những phê phán của gm Thục có thể đúng nhiều phần. Nếu có điều gì là hình thức phê phán đã tạo ra nhữn chia rẽ trong nội bộ công giáo. Có nhưng sự kiện khác như lính của một GM đánh lại Quốc Gia sự thực thế nào không rõ.
Về lẽ đời, ông cũng chạy theo quyền lực, cao ngạo và thiếu hiểu biết với Phật Giáo. Chung quanh ông phần lớn là những kẻ xu nịnh làm ông mất cảnh giác. Tóm lại , ông không đú sáng suốt để tách biệt Đạo với Đời, để đạo dẫm chân lên đời.
Ông thật sự là kẻ đào mồ chôn chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa.
Edward Miller cũng viết: “Diem at first seemed to follow Thuc into the priesthood.”
(Edward Miller, Misalliance. Ngo Đinh Diem The United States and the Fate of South Viet Nam, 2013, trang 24)
Chỉ rất tiếc là những lá thư này không được TGM Nguyễn Văn Thuận công khai hóa cho mọi người biết và không biết hiện nay trao cho ai giữ?
Thắc mắc còn lại là vì lý do gì Dương Văn Minh quyết định dứt khóat, từ chối ân xá cho Ngô Đình Cẩn? Lý do đơn giản nhất là họ bị thất sủng, bị nghi ngờ và không được trọng dụng.
Theo Edward Miller, khởi đầu của âm mưu đảo chánh chỉ gồm ba sĩ quan là: Minh, Đôn và Kim. Sau cuộc bạo lọan năm 1960 bất thành, cả ba đều cảm thấy bị xỉ nhục vì bị điều tra xem có đính dáng trong vụ đảo chánh bất thành năm 1960 hay không.

“The resentment that Don, Minh and Kim felt for the Ngo brothers had been smoldering since 1960, when they had endured the humiliation of being investigated on suspicion of involvement in the paratroopers’ failed coup.”
(Edward Miller. ibid., trang 282)
Lý do cá nhân thứ hai theo ls Lâm Lễ Trinh phỏng vấn đại tá Nguyễn văn Y, đại tá Y, cho biết Dương Văn Minh khi đánh nhau với Bình Xuyên, có bắt được phuy đựng vàng. Ông đã dấu nhẹm. Nhưng cả hai đại tá Nguyễn Văn Y và Bộ Trưởng Quốc Phòng Trần Trung Dung đều có tập hồ sơ này. Đại tá Y trình ông Diệm tập hồ sơ, Ông Diệm sai đại tá Y đốt tập tài liệu trước mặt ông để xóa trắng tội cho DVM. Tuy vậy, Dương Văn Minh vẫn hận ông Diệm và tìm dịp trả thù.

Cuối cùng Ngô Đình Cẩn bị kết án tử hình như mọi người đều biết.

Việc tìm hiểu về con người và các hoạt động của ông Ngô Đình Cẩn không thể không tìm hiểu những tài liệu về phía người Mỹ. Nhưng thật không dễ để tìm một tài liệu của người Mỹ viết liên quan đến ông Cẩn. Xin nêu vài tác giả quen thuộc viết xa gần đến ông Cẩn như Stanley Karnow, 1997 với Viet Nam. A History, Ellen J.Hammer, 1987 với A death in November, Seth Jacob, 2006 với America’s Miracle Man in Viet Nam, Mc Allister, James, 2008 Only Religions Count in Viet Nam: Thich Trí Quang and the Viet Nam war. Langguth A .J., 2000 Our Viet Nam và Miller, Edward, 2013, Missalliance, Ngo Đinh Diem, The United States, and the Fate of South Viet Nam.

Mặc dù với số tài liệu ít ỏi đó, chúng tôi cũng cố gắng thu nhặt những nét chính yếu liên quan đến ông Cẩn.


Người viết xin chọn một vài ý tưởng của Ellen J. Hammer trong A death in november liên quan đến cuộc đảo chánh tháng 11. Theo E. Hammer:
“Cẩn là người em út còn ở lại Huế, ông sống ẩn dật không ai biết đến và không giữ một chức vụ chính thức nào của chính quyền. Chức vụ của ông chỉ là cố vấn về các đảng phái chính trị. Nhưng người ta lại biết đến ông rất nhiều trong việc chỉ đạo các hoạt động về chính trị và quân sự của chế độ ở các tỉnh miền Trung và ông có tiếng là tàn bạo.”
(Ellen J. Hammer, A Death in November, 1987, trang 78)

Ông Cẩn là người thực tiễn, không viển vông, với một trí thông minh biết kỳ vọng nào là chính đáng, một người Quốc gia cực đoan với một bản năng chính trị thực tiễn, với sự am hiểu biết xử dụng quyền lực trong tay.

Bằng chứng là ông đã dẹp tan các nhóm Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng khuynh đảo ở miền Trung. Họ không thể hoạt động gì ở miền Trung khi Cẩn còn ở đó. Ông có mạng lưới chính trị và tình báo riêng. Nhưng những phúc trình của người của ông Cẩn không phải lúc nào cũng ăn khớp với những thông tin nhận được ở Sài Gòn của ông Nhu. Nói cho đúng người của ông Cẩn không tài giỏi như ông nghĩ, vì thế, họ đã bị CIA xâm nhập.

Quyền bính chính trị địa phương, bề ngoài được trao vào tay Hồ Đắc Khương-một sản phẩm đặc sản Huế. Một dòng dõi cha truyền con nối từ đời ông đến đời cha trong triều đình Huế. Dòng họ Hồ Đắc Khương lại có người đã nương nhờ cửa Phật như một tín chỉ ở một địa phương có đông tín đồ Phật giáo.

Phải chăng phải có bấy nhiêu yếu tố mới ngồi vững ở Huế được? Ông Cẩn có đủ các yếu tố ấy, nhưng lại thiếu một yếu tố căn bản nhất là ông không phải Phật giáo. Nhưng luôn luôn đứng phía sau trợ giúp Phật giáo.

Nhận định về vụ biến động Phật giáo miền Trung sẽ giúp hiểu rõ thêm về quan điểm, lập trường của ông Ngô Đình Cẩn như thế nào.

Khi Viện trưởng Cao Văn Luận tiếp xúc với ông Cẩn để cho biết về việc các giáo sư và sinh viên Huế phản đối vụ mừng kỷ niệm 25 năm thụ phong Giám mục của Ngô Đình Thục Ông Cẩn tỏ ra bất lực trước một người anh Giám Mục mỗi ngày đẩy xa Ngô Đình Cẩn ra khỏi vòng quyền lực ở Huế. Cẩn bị cô lập vì ông anh thiếu hiểu biết, cao ngạo đến lố bịch. Có văn thư yêu cầu các lm giáo xứ yêu cầu họ đi ủng hộ Tổng thống.

Ông Thục càng muốn cũng cố quyền lực cho người em, ông càng làm hại em mình.
Nói về Cao Văn Luận thì không có ông, Viện đại học Huế không có cơ hội phát triển mau chóng như thế. Viện Đại Học này, nó do ông Diệm xây dựng nên. Nó như một ước mơ thầm kín, một hoài bão của riêng ông cũng như một niềm hãnh diện của cả dân Huế. Vậy mà sau này, chính nơi đây đã xuất phát như một ngòi nổ tạo thành cơn bão chính trị lật đổ người đã khai sinh ra nó.

Ellen Hammer đã nhận xét về Cẩn dựa theo lm Cao Văn Luận, mặc dầu Cẩn không có học lực cao và cũng chắc chắn không phải là loại người tôn trọng dân chủ. Nhưng ông lại tỏ ra hiểu biết và gần dân chúng hơn bất cứ người anh em nào của gia đình Ngô Đình Diệm.

Cẩn than phiền về thái độ không hiểu biết của TGM Ngô Đình Thục không phân biệt được phần đạo, phần đời. Cẩn nói với lm viện trưởng, “But my hands are tied. My brother, the archbishop doesn’t listen to me anymore. You had better go to Saigon and tell President Diem.” (Ellen J. Hammer, ibid., trang 105)
Cái trớ trêu ở đây là Ngô Đình Thục sau 23 năm làm giám mục ở Vĩnh Long, và Vatican đã đủ thông minh để không bao giờ có ý định đề cử Ngô Đình Thục về cai quản Sài gòn, lý do là Vatican thừa hiểu biết muốn tách biệt thế quyền và thần quyền. Không lẽ có một Tổng Thống công giáo đứng đầu lại có thêm một TGM đứng đầu là bào đệ của Tổng Thống thì coi sao được?

Việc chọn TGM Nguyễn Văn Bình là người ôn hòa đã cân bằng được mối tương quan thế quyền và thần quyền. Không bao giờ TGM Bình tỏ ra thân cận với chính quyền Ngô Đình Diệm một cách lộ liễu. Ông tránh né ra vào Dinh Độc Lập và ông tránh né cả những buổi tiếp tân nếu có thể. Và luôn luôn giữ một khoảng cách vừa đủ.

Việc đưa Ngô Đình Thục ra Huế, xa trung tâm quyền lực Sài Gòn và có lẽ người vui mầng nhất hẳn là Ngô Đình Nhu? Ông Diệm có thể chịu đựng người anh với quyền huynh thế phụ, nhưng ông Nhu ít đủ kiên nhẫn, ít lắm ông Nhu khỏi bị quấy rầy bởi sự ra vô dinh Độc Lập của người anh làm giám mục cứ can thiệp vào các việc của chính quyền một cách khôn ngoan khờ khạo, tiến cử người này, tiến cử người kia, ngay cả loại bỏ người nào mà ông không ưa. Ông là người tu trì, không thông việc đời, không hiểu thế thái nhân tinh của một người không hề biết việc đời. Nhưng lại chỉ sẵn sàng nghe theo những lời xàm tấu của kẻ xu nịnh.

Tôi từng đã nhiều cơ hội có nhận xét về khuôn mặt chán chường, không vui lộ ra trên nét mặt ông Nhu mỗi khi ông phải tham dự những buổi lễ do ông Ngô Đình Thục chủ tế tại Đại Học Đà Lạt những năm 1960. Ngoảnh đi ngoảnh lại, ông đã biến mất tiêu, không hề ăn một cái bánh ngọt, uống một ly rượu chúc mừng xum xoe như các hàng bộ trưởng, dân biểu nghị sĩ. Ông Thục đi tới đâu thi có một đàn ruồi bay theo, cờ xí đón tiếp từ phi trường, gấp gáp trải đá vội vãcon đường dẫn tới Viện Đại Học.

Khi ra nhậm chức ở Huế, tướng Trần Văn Đôn là người huy động quân đội đón tiếp một Giám Mục công giáo. Thật đúng là tên nịnh thần và phản thần mà bà Ngô Đinh Thị Hiệp ghét nhất trong hàng tướng lãnh.

(Thật ra không phải đây là lần đầu tiên, giám mục Thục ra Huế. Khi còn là linh mục, ông đã là giáo sư Đại chủng Viện Huế trước khi được bổ nhiệm làm giám mục Vĩnh Long. Sau này, khi hai ông Diệm-Nhu đã bị ám hại, GM Thục một lần nữa còn vận động Giáo Hoàng Phao Lồ Đệ VI xin chính quyền mới cho ông quay trở về Huế như cũ. Nhưng việc bất thành)

Nhưng cả Vatican và ông Nhu đã không ngờ được sự hiện diện của Ngô Đình Thục tại Huế lại là một tai họa cho cả công giáo đến chính quyền đến thế! Huế với một gia tài lịch sử quan quyền, một truyền thống khép kín với bất cứ sự xâm nhập quyền bính nào từ bên ngoài vào đến bệnh hoạn. Làm sao họ có thể chấp nhận được bóng dáng một tổng giám mục quyền bính, cao ngạo bao trùm lên bầu trời xứ Huế? Tôi đã ở Huế, tôi thấu hiểu tâm tình người dân xứ này, nghèo đến không có gì để nghèo hơn. Ruộng đất, kỹ nghệ hầu như không có. Họ sống bằng sự tặng dữ của những người con xứ Huế ra đi làm ăn gửi về và đồng lương công chức, quân nhân tại chỗ.

Nhưng Huế lúc nào cũng ẩn nhẫn, nhưng sôi sục như bếp chấu âm ỉ qua cái bề ngoài thầm lặng.

Sau này hầu hết các biến động chính trị đều xuất phát từ nơi đây.
Cho nên, chỉ có một người duy nhất là Ngô Đình Cẩn có thể ở Huế và nắm được tình hình mà người ta gọi là Cậu Cẩn. Một tên gọi có thể là thân mến, nhưng nhiều phần coi thường. Và ít khi Cậu Cẩn bước ra khỏi Huế, nhưng cái gì Cậu cũng biết, như nắm trong lòng bàn tay và ông đã đã cai quản Huế qua đám tay chân bộ hạ ông ở Huế với bàn tay sắt bọc nhung.

Nhờ cái bàn tay bọc nhung ấy, Cẩn cũng sẵn sàng giúp đỡ trùng tu chùa chiền, các khuôn hội, đi lại thân tình và cả bao che cho Trí Quang.

Nhưng có lẽ điều sai lầm duy nhất trong đời làm chính trị của Ngô Đình Cẩn có thể là đã đánh giá sai lầm Trí Quang.
Hammer kết luận, “ But Cẩn had underestimated Tri Quang.
Ngày 8 tháng 5 Trí Quang ra khỏi bóng tối ẩn nhẫn trong nhiều năm dưới mái chùa Từ Đàm và trở thành nhân vật chính trị và thế lực chính trị hàng đầu ở Việt Nam.
Khi Thục ra Huế, Cẩn vẫn tin rằng ông vẫn có thể là người của tình thế, là một đầu cầu giữa chính quyền và Phật giáo.

Nhận xét về các hoạt động của Ngô Đình Cẩn tại Huế
Những hoạt động của ông Ngô Đình Cẩn là hoạt động tinh báo, phản tình báo không nằm trong khuôn khổ của tổ chức hành chánh. Nó là những hoạt động bí mật. Mười Hương gọi mật vụ Ngô Đình Cẩn là một “siêu tổ chức” không có “bộ máy ngụy” nào có thể so sánh bằng.

(Nguyễn Thị Ngọc Hải, “Trần Quốc Hương — Người chỉ huy tình báo”, nxb Tổng Hợp TP HCM, trang 122)

Chính vì tính cách bí mật của nó, hoạt động bên ngoài guồng máy chính quyền đã tạo ra nhiều tai tiếng xấu, nhiều dư luận đồn thổi. Bởi lẽ việc bắt người thường là bắt cóc, không có trát tòa, không xử án và việc bắt giam vô thời hạn.

Ngay trong ngành phản gián, mật vụ Ngô Đình Cẩn cũng bị các cơ quan bạn như An Ninh Quân Đội, Lực lượng Đặc Biệt, Sở Nghiên cứu chính trị nghi ngờ. Mặc dầu mỗi ngành có lãnh vực hoạt động khác nhau. Sở tình báo của Trần Kim Tuyến chú trọng đến vấn đề nội an như dò xét các thành phần đối lập. Cơ quan an ninh của Đỗ Mậu lo an ninh quân đội. Lực lượng đặc biệt của Lê Quang Tung gồm một trung đoàn có nhiệm vụ chính yếu là bảo vệ Tổng Thống.

Trong bài phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh với Dương Văn Hiếu, Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt miền Trung, nhan đề “Trưởng đoàn Dương Văn Hiếu lên tiếng”, ông Dương Văn Hiếu tiết lộ như sau:
Đại tá Nguyễn Văn Y (1922-2012). Nguồn: http://nguyentin.tripod.com
“Đại tá Nguyễn văn Y, Tổng Giám Đốc Công An cũng như Trần Kim Tuyến (SNCCTXH), Lê Quang Tung (Lực Lượng Đặc Biệt) và Đỗ Mậu (An Ninh Quân Đội) đều không ưa tôi.”
(Lâm Lễ Trinh, “Thức Tỉnh, Quốc Gia và Cộng Sản”, trong bài Trưởng Đoàn Dương Văn Hiếu lên tiếng, trang 425)

(Dương Văn Hiếu, sinh quán ở Hà Nam, Bắc Việt trong một gia đình trung lưu, học trường Louis Pasteur, có bằng Diplome d`Études primaires supérieures Trung học Đệ Nhất cấp). Lập gia đình năm 1948, bố vợ là bác sĩ Nguyễn Văn Tam, cộng tác với gm Lê Hữu Từ, Phát Diệm. Sau Hiệp Định Genève vào Nam, ông được cụ Võ Như Nguyện, Giám đốc công an Trung Phần tuyển vào ngành công an, giữ chức Trưởng Ban Khai thác Nha CA-CS Trung nguyên, Trung Phần. Rồi trở thành Trưởng Ty Công an tỉnh Thừa Thiên và đô thị Huế. Năm 1957 được ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Đình Cẩn và ông đại biểu chính phủ Hồ Đắc Khương giới thiệu nhiệt tình với Tổng Thống Diệm. Năm 1958, ông được bổ nhiệm Trưởng Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung (TĐCTĐBMT) làm việc tại Sài Gòn.

Mặc dầu ông Dương Văn Hiếu không nói rõ sự không ưa kia. Nhưng chúng ta vẫn có thể tìm hiểu được như sau:

Có nhiều bộ phận tình báo, mặc dầu được phân chia vùng hoạt động hoặc phạm vi công tác. Nhưng vẫn có sự tròng chéo và dẫm chân lên nhau. Chẳng hạn, ông Dương Văn Hiếu, Trưởng Đoàn công tác vốn hoạt động ở miền Trung. Nhưng sau được điều động vào miền Nam hoạt động, trụ sở nằm trong trại Lê Văn Duyệt. Ông vào Nam làm việc theo chỉ thị của ông Cẩn. Nhưng khi cần bá cáo điều gì, ông chỉ chính thức bá cáo cho ông Ngô Đình Nhu, hoặc khi có chuyện hệ trọng, ông gặp thẳng Tổng Thông Diệm. Thỉnh thoảng ông mới gửi vài bản sao bá cáo cho ông Cẩn mà thôi.

Mặc dầu hoạt động của Dương Văn Hiếu bí mật và độc lập. Nhưng về mặt hành chánh, ông lại ăn lương theo ngạch Cảnh sát Quốc Gia nên mọi chi phí hoạt động như lương bổng, thực phẩm, tiền vãng phán đều do Phòng Hành Chánh của Tổng Nha Công an cung cấp theo hệ thống, qua Phòng Hành Chánh của Phụ tá Nguyễn Thành đài thọ. Vì chính thức, về mật hành chánh, ông vẫn thuộc Ty Công An Thừa Thiên. 

Vì có những công tác đặc biệt mà Tổng Nha không cung cấp phương tiện được như tiền thì qua ông Võ văn Hải với tiền lấy từ Quỹ đen của Tổng Thống để đài thọ. Số tiền này không quan trọng chỉ như một thứ tiền thưởng hoặc khích lệ. Xét như thế về mặt Hành Chánh, ông Nguyễn Văn Y làm sao không nghi ngại được? Ông Dương Văn Hiếu cũng tiết lộ cho thấy, Đoàn công tác của ông không nhận một đồng nào của ông Cẩn cả.

Vì cách thức hoạt động như vậy, vì không có một chức vụ gì công khai như giám đốc chẳng hạn- nên để có chỗ ăn ở, Dương Văn Hiếu phải tự bỏ tiền ra mua một căn nhà ở cư Xá Công Lý làm nhà riêng. Và vì đã không làm việc trực tiếp với ông Cẩn nên sau này cũng bị chính ông Cẩn nghi ngờ là quá thân cận với Sài Gòn và gây khó dễ không ít cho ông cũng như Phạm Thu Đường, chánh văn phòng cố vấn Nhu, ngay cả Nguyễn Văn Minh, bí thư của ông Cẩn cũng bị nghi ngờ. (Lâm Lễ Trinh, ibid., trang 437)

Về phía Tòa án cách Mạng, sau này đưa Dương Văn Hiếu ra tòa và coi ông là người chủ mưu và trách nhiệm nhiều vụ bắt bớ, ám sát người là do lệnh Ngô Đình Cẩn, theo tôi, là rất hàm hồ. Chẳng hạn các vụ ám sát người đối lập như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp và Vũ Tam Anh. Về điểm này, Dương Văn Hiếu trả lời ls Lâm Lễ Trinh là “chúng tôi không liên hệ. Chúng tôi không có trách nhiệm truy nã các phần tử đối lập.” Cũng theo Dương Văn Hiếu, sau này được biết công việc này do Thẩm Sát viên Khưu Văn Hai và đồng bọn trong Ban Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc Tổng Nha Công An của đại tá Nguyễn Văn Y đã giết Nguyễn Bảo Toàn và Tạ Chí Diệp.

Tuy nhiên, điều tôi ngạc nhiên đến không tin nổi là Dương Văn Hiếu tiết lộ cho biết toàn thể nhân viên của ông chỉ có 8 nhân viên và hai thơ ký đánh máy. Với 8 nhân viên này mà có thể thao túng bắt trọn mạng lưới gián điệp của cộng sản?
Và nếu có biết ít nhiều thì đều có thành kiến xấu về ông. Trong đó người ta nói nhiều đến Đoàn công tác mật vụ của Ngô Đình Cẩn.

Nhưng tôi có thể khẳng định ngay chính người dân Huế cũng thật sự không biết các công tác và công việc cụ thể của Đoàn này như thế nào? Những mặt hoạt động tích cực có hiệu quả thì dân chúng không được biết.
Chẳng hạn, Đoàn Công Tác Đặc biệt miền Trung đã phá vỡ trong vòng hai năm toàn bộ hệ thống điệp báo Khu 5 và từ đó lan ra các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Trị, Bình Thuận, Quy Nhơn.

Thành tích này là lớn lắm mà một quân đoàn chưa chắc đã bình định nổi.
Ngay Trần Văn Đôn, một thời là tướng Quân đoàn I ở miền Trung cũng hầu như không biết gì về hoạt động chống Cộng hữu hiệu của Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung. Ông đánh giá rất thấp khả năng của ông Cẩn về ngăn chặn tình báo cộng sản gài người trong guồng máy Quốc gia. Điều đó chứng tỏ ở vị trí Tư lệnh Quân đoàn I lúc đó, ông không hay biết gì về Mật vụ ông Cẩn đối phó với cộng sản.

Điều đó cho chúng ta một bài học sau đây: Những sĩ quan thời Tây để lại thường thiếu tinh thần Quốc gia, thiếu lý tưởng chống cộng sản.

Họ chỉ là loại sĩ quan văn phòng, làm cảnh và bất tài, kém cỏi sau khi lật đổ chế độ Đệ Nhất cộng hòa. Họ không có viễn kiến chính trị, không có kế hoạch, không có chương trình và tỏ ra hoàn toàn bất lực, thụ động ngay từ những ngày đầu sau 1963.
Một ông tướng mà còn ngu muội như thế nói chi đến dân thường.
(Còn tiếp)

Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p3)

Nguyễn Văn Lục

Người dân Huế được sống an bình, đi lại tự do khắp nơi, tối ngủ không sợ cộng sản đến bắt cóc mang đi.
(Tiếp theo p1, p2)
Chỉ riêng các thôn xã ở phía Nam có hàng 4000 các nhân viên các cấp ở xã ấp đã bị Việt cộng bắt cóc, thủ tiêu. Các cô thày giáo ngày về xã dạy học, tối đến phải quay về quận lỵ ngủ cho an toàn.

Thế nhưng, sự hưởng thụ một thôn quê thanh bình, thành phố Huế mộng mơ hầu như thể là chuyện đương nhiên phải là như thếm như từ trên trời rơi xuống.
Tôi xin nói thẳng, không có ông Ngô Đình Cẩn và đám Mật vụ của ông, Huế và các vùng phụ cận sẽ không có được những ngay thanh bình, yên ổn. Không ai có cơ hội nghĩ tới công lao của ông Cẩn cả.

Bốn năm sau khi loại trừ ông Cẩn (1964), 1968 Huế trở thành nạn nhân của chính mình với một cuộc thảm sát đẫm máu người dân Huế vô tội. 9 hầm hay 10 hầm giam giữ vài chục người cán bộ cộng sản ngoan cố bì thế nào được với con số cả 5000 người dân Huế vô tội bị trói tay, chôn sống, bổ cuốc vào đầu chôn ở các hố chôn tập thể lên đến vài trăm người mỗi nơi?

Ai trách nhiệm thảm cảnh này, nếu không phải là chính người Huế “giết” hay tiếp tay giết người Huế?

Tôi đã viết bài Huế Mậu Thân, miền đất nhiều bất hạnh. Những oan hồn uổng tử của Huế sau nửa thế kỷ đã thành tro bụi, chả biết xác chết có còn nguyên vẹn để nghe kinh tụng niệm cho họ để mong họ chóng được siêu thoát chăng?
Mười Hương, người đứng đầu tình báo cộng sản đã phải viết:
“Thế nhưng, hồi ấy (ám chỉ thời Pháp những năm 1940) cũng không đen tối bằng sau này những năm 1957-1959.”

Mười Hương nói về sự thâm hiểm của Ngô Đình Cẩn như sau:
“Khi tôi bị bắt, ban đầu nó bảo, chúng tôi mời ông về, không dám dùng đến chữ bắt. Nó khai thác đề tài Quốc Gia rất dữ để chống Cộng. Nó vẫn nói những người kháng chiến là những người có công với đất nước.”
(Hoàng Hải Vân- Tấn Tú, “Tướng Tình báo chiến lược. Người Thầy”, Báo Thanh Niên, số 200. Thứ ba, 26-11-2002)

Nhưng dư luận đồn thổi thì lại nhiều, thêu dệt cũng không thiếu. Từ một chuyện nhỏ có thể xé ra một chuyện lớn.

Trường hợp cụ thể như Vương Hồng Sển có dịp thăm Huế trong một phái đoàn của Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Ông ta có dịp ăn một bữa cơm tối tại nhà ông Cẩn. Nhân đó ông có dịp trông thấy một con hổ và một số chim chóc trong vườn. Khi về, ông viết phóng lên là Cẩn có cả một sở thú. Thật sự, đó chỉ là một con hổ con lạc mẹ do binhh sĩ đi hành quân bắt được đem về làm quà cho ông Cẩn. Ông nuôi nó như nuôi một con mèo, cho ăn cơm mỗi ngày.

Tư cách của Vương Hồng Sển chỉ đọc mà không vui. Ông ta còn toa rập với Nguyễn Đắc Xuân bịa chuyện ông Ngô Đình Diệm ăn cắp Nghiên mực của vua Tự Đức.

(Nguyễn Văn Lục, “Lịch sử còn đó”. Nguyễn Đắc Xuân, Vương Hồng Sển và chiếc nghiên mực của vua Tự Đức, trang 215)
Tôi lưu ý đặc biệt đến cách tuyển chọn và dùng người của ông Cẩn.

Ông ít học, nhưng bản năng chính trị giúp ông chọn người khá kỹ càng. Những người được ông chọn mà chức vụ cũng không lấy gì làm lớn gì cũng qua giới thiệu kỹ càng, tin cẩn mà tiêu chuẩn thứ nhất là có lý tưởng Quốc Gia chống Cộng, thứ hai là sự trung thành hầu như tuyệt đối và thứ ba hầu hết là theo đạo công giáo.

Những tiêu chuẩn này không nhất thiết là quy luật chung hay có giá trị khách quan cho bây giờ. Nhưng ở thời điểm khai sinh ra nền Cộng Hoà, ở phạm vi hỗ trợ chính phủ, người ta cần những người đồng chí hơn là người có bằng cấp hay học vị chuyên môn.

Và qua thử thách 9 năm làm việc tận tụy cho chế độ, những người này đều cho thấy họ thật xứng đáng. Tôi xin nêu một vài người tiêu biểu nhất như Phan Quang Đông, Nguyễn văn Minh, Dương Văn Hiếu, Nguyễn Văn Châu, Phạm Thư Đường, Lê Quang Tung, v.v..

Phan Quang Đông đã chết hiên ngang như thế nào với lá thư nhắn gửi vợ con vài giờ trước khi bị xử bắn. Sau này đến lượt Ngô Đình Cẩn cũng một thái độ như vậy. Không có gì khó hiểu cả, bởi vì họ có một lý tưởng và phải chăng vì họ sống có xác tín?

Thứ hai về nguyên tắc làm việc của ông Ngô Đình Cẩn dựa trên một thứ bản năng chính trị. Cái bản năng ấy được phát triển một cách cùng cực trước tiên là để tự vệ sống còn và sau là bằng mọi phương tiện tiêu diệt kẻ thù trong cái tương quan sống-còn giữa đôi bên.

Nó có thể không chấp nê đến lý thuyết, đến ngay cả pháp luật. Nó hành xử không theo một thủ tục hành chánh, hay thủ tục pháp lý trong việc bắt người, giam người, tra khảo. Đây là mặt yếu của các Đoàn Công tác mật vụ đứng về mặt chính quyền. Một chính quyền dù coi việc chống Cộng là hàng đầu không thể cho phép các tổ chức mật vụ bắt người, giam giữ không xét xử, ngay cả tra tấn, v.v..

Chính vì thế đi đến chỗ lạm dụng như trong vụ án xử gián điệp miền Trung mà nhiều phần có kẻ bị bắt oan, bị xử hoặc tù tội một cách oan uổng.

Nhưng về mặt hiệu quả của các cơ quan này thì thật không thể chối cãi được. Nó chẳng thua bất cứ cơ quan nào của ngoại quốc như F.B.I., S.D.E. của Pháp, K.G.B của Nga hay ngành đặc biệt N.D.B ( Ngành đặc biệt- The Spécial branch), trong đó có chiến dịch Phượng Hoàng (Phoenix program 1968-1975). Chiến dịch Phượng Hoàng là tình báo và ám sát bí mật! Đã bao nhiêu người dân vô tội bị chết oan? Tại sao người Mỹ không lên tiếng? Tại sao kết tội mình ông Cẩn và đám mật vụ?

Theo số liệu, trong 8 năm, số viên chức Việt Nam Cộng hoà bị Việt cộng ám hại lên tới con số 33.052 người. Số liệu trong Chiến dịch Phượng Hoàng đưa tới kết quả có 22.013 hồi chánh, 24.843 bị bắt. 26.369 bị giết. Tổng cộng tất cả là 73.225. (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “Chiến dịch Phượng Hoàng”)
Nào ai thực sụ biết được trong số 26.369 Việt Cộng bị giết, có bao nhiêu thường dân bị chết oan?

Chứng từ tự thuật của một người bị bắt cóc, bị giam ở trại Lê Văn Duyệt từ 1961 đến sau cuộc cách mạng 1963

Bài Tự thuật sau đây, không đề tên tác giả, được trích từ tờ Tiếng Nói Dân Tộc nhan đề, “Dưới chế độ Mật vụ Ngô Triều”. Bị bắt cóc, bị giam một thời gian, được đưa về thăm gia đình. Mà không được nói hiện mình ở đâu? Làm gì?
Inline image 4
SAIGON 1969 – Photo by larsdh – Trại Lê Văn Duyệt
“Chiều hôm đó, cũng như bao nhiêu chiều khác, mãn giờ làm biệc tôi thoát lên xe đạp ra khỏi sở. Bỗng một người cỡi xe gắn máy chạy đến bên tôi và nói, “Xin lỗi ông cho tôi hỏi thăm một chuyện.” Tưởng có chuyện gì cần mình, tôi dừng xe lại. Anh đi xe gắn máy trình thẻ Công an cho tôi xem và mời tôi về bót có chuyện cần.
Thế là tôi bắt buộc phải đạp xe đi theo người ấy, và một người nữa chạy Lambretta sau lưng tôi.

Đây, trại Lê Văn Duyệt
Trại “Lê Văn Duyệt” là căn cứ của mật vụ thuộc Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung đóng tại Biệt Khu Thủ Đô mà mãi đến sau ngày Cách mạng người ta mới biết. Vì bọn Mật vụ tổ chức vô cùng bí mật, ngoài thì cũng cửa sắt kín mít, lính gác không khác nào một trại lính. Cũng chào cờ, cũng đá banh vui chơi, cũng ca hát, ai ai đi qua cũng tưởng là một trại lính ở, chớ đâu dè đó là nơi bọn Mật vụ của Ngô triều để giam hãm những kẻ nào dám cả gan chống lại bọn chúng..
Ngủ có divan hoặc giường sắt hay ghế bố, mỗi người một cái, có mùng, có tấm đắp đàng hoàng: có giờ có giấc. Ăn uống cũng khá hơn chế độ thầu. Có câu lạc bộ, có phòng đọc sách, có sân banh giải trí, có bàn ping pong.
Về tinh thần, có Ban Văn nghệ của trại: tập tành nhạc, kịch, tuồng cải lương, lâu lâu vài tuần trình diễn cho anh em giải trí. Thường xuyên mỗi buổi chiều có một máy hát, máy quay cải lương cũ mèm, nhưng nghe cũng đỡ buồn. Tối thứ bảy nghe truyền thanh tuồng cải lương Sài gòn hay xem chớp bóng. (…)
“Ăn Cơm tiều”, một danh từ được khai sinh trong trại Lê Văn Duyệt.
Không biết bên chánh quyền dự chi về ăn uống một người bao nhiêu mà ở trại Lê Văn Duyệt thì chúng tôi được 5$50 tiền chợ, mỗi trại viên, mỗi ngày.

Có một Ban cấp dưỡng (cũng anh em trại viên) lo lắng miếng ăn miếng uống cho anh em. Đáng lý chúng tôi mỗi người ăn 5$50, nhưng chúng tôi khai “cơm tiều”, nghĩa là một mâm bốn phần ăn, chúng tôi ăn năm người. Phần dư ra 5$50 thay nhau lãnh. Ăn sáng 1$. Nếu nhịn thì mỗi tháng cũng được thêm 30$.
Ở tù mà cũng lãnh lương. Ở tù mà cũng đi nghỉ phép.
Ở tù sau đó được về thăm nhà. Có nhiều anh em ở tù lâu, cuối tuần được nghỉ phép, chiều thứ bảy về, sáng thư hai vô. Hoặc có anh về hằng đêm 5 giờ 30 sau giờ làm việc ra cổng, sáng 7 giờ 30 trở về ở…tù. (…)
Ở tù vợ đẻ, thật là họa vô đơn chí.
Những người của một thời đã qua.”

Theo tôi, nhà tù như trại Lê Văn Duyệt của ông Ngô Đình Cẩn là có một không hai trên thế giới này. Đó là “nhà tù không song sắt”. Sau này cũng có những trại cải huấn, nhưng không thể nào so sánh với trại tù Lê Văn Duyệt được.
Tuy nhiên, theo Dư Văn Chất,
“đối với tù nhân ngoan cố nhất định không chuyển hướng — như trường hợp Đặng An — thì bị giam trong sà lim. Hoặc sau này Đặng An bị chuyển ra nhốt ở Mang Cá nhỏ, một trại giam biệt lập trung chuyển. Từ trại này có thể được đưa lên Chín Hầm và bị bỏ đói. Hoặc tệ hơn nữa thả trôi sông hoặc thả biển. Người giám thị trại giam Mang cá lúc bấy giờ là Phạm Mại.”
(Đây là phần viết thêm của Dư Văn Chất, dạng photcopy. Sau ba năm ông đã viết: Nhà văn bất đắc dĩ. Trong đó còn viết: Người cộng sản sợ người cộng sản)

Lý do thành lập Đoàn công tác Đặc biệt miền Trung
Cho đến nay, sau hơn nửa thế kỷ, nhiều người vẫn đánh giá sai lầm về công tác của Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung của ông Cẩn. Họ cho rằng Đoàn công tác có nhiệm vụ đàn áp đân chúng, đàn áp tất cả những ai là trí thức như bác sĩ, luật sư, giáo sư, viết báo, thương gia như trường hợp 42 người ra làm nhân chứng vào ngày thứ tư 26-6-1964.

Bài báo của ký giả Nam Đình ghi như sau:
“Theo bản cáo trạng thì 42 người trên đã bị tra tấn, khảo của bởi mật vụ của Dương Văn Hiếu. Đám mật vụ này gồm Thái Đen, Thiện Dzai và Phan Khanh.
Nhưng mỗi lần ông Nguyễn Văn Đức, công tố viên, sau khi nhân chứng khai rồi, quay ra hỏi Dương Văn Hiếu: Bị can có nhìn nhận không? Và câu trả lời của các bị can là:
— Hoàn toàn không có.”

Theo nhà báo Nam Đình, báo Thần Chung thì “tội ác của đám Mật vụ Dương Văn Hiếu không bút mực nào tả cho hết được.”

Thế nhưng, theo như một nạn nhân bị bắt đưa vào trại Lê văn Duyệt vừa được trích dẫn ở trên thì các người bị giam ở trại Lê Văn Duyệt có một cuộc sống ở tù thật thoải mái? Chữ không bút nào tả hết của nhà báo Nam Đình phải được áp dụng trong trường hợp nào?

Theo như mục đích lúc thành lập Đoàn Công Tác Đặc biệt miền Trung, Ông Cẩn muốn có chính sách chiêu hồi các cán binh cộng sản.. Đây là một lối thoát cho cán binh cộng sản, tạo điều kiện cho họ về hợp tác với chính phủ Quốc gia.

Vì thế, ông Cẩn vào đầu năm 1957, ông đã đề nghị lên TT. Diệm xin cho ông thực hiện chính sách ông gọi là: “Chiêu mời và xử dụng những người kháng chiến cũ.”
Sau khi được ông Diệm đồng ý, ông Cẩn đã giao cho ông Dương Văn Hiếu thành lập Đoàn Công tác để thực hiện chính sách trên.

Nhờ được áp dụng một cách triệt để, thông minh và khôn khéo, chính sách chẳng những bắt trọn gói toàn bộ cán bộ Việt Minh tại miền Trung.

Chính sách ấy còn khuyến dụ được một số người bỏ Đảng về làm việc cho phía Quốc Gia. Đó là trường hợp ông Lê Chân, tên thật là Nguyễn Đình Chơn, vốn là một Thành ủy viên tỉnh Thừa Thiên. Sau khi chuyển hướng, ông Chơn đã được bổ nhiệm làm Thiếu tá Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt Gia Định. Cho đến ngay 30-4-1975, ông bị đi học tập cải tạo như mọi người, sau đó, ông đã được sang Hoa Kỳ theo diện H.O.

Các đồng chí cũ của ông đã yêu cầu ông viết lại trong Tập Hồi Ký của các cựu tù nhân Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung. Ông đã từ chối vì tuổi già muốn được yên thân.

Trong kỳ ba của bài viết này, chúng tôi sẽ có dịp trình bày Tập Hồi ký của các cán binh cộng sản cho thấy họ đã nghĩ gì về Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung.
Bài nói chuyện của ông Ngô Đình Cẩn vào dịp tết năm 1958

Có thể đây là một tài liệu hiếm và đặc biệt, bởi vì người nói chuyện là ông Ngô Đình Cẩn. Ông Cẩn là người ít xuất hiện ra bên ngoài, cũng ít tiếp xúc với ai. Ngay những dịp quan trọng như ngày Quốc Khánh hoặc các dịp lễ lạc khác thường cũng không có mặt ông Cẩn. Tôi tự hỏi, không biết có lần nào ông đã vào Sài Gòn để gặp TT Diệm hay chưa? Chắc là chưa. Ngay cả những buổi lễ tại địa phương như Huế cũng không có mặt ông.

Việc tiếp xúc với người ngoại quốc lại càng hiếm hoi vì ông tránh né không tiếp. Lý do tại sao thì không rõ? Ngôn ngữ bất đồng chăng? Mặc cảm ít học?

Trong một bài báo do Trà Mi dịch, đăng trên DCVOnline.net, ngày 26 tháng 3,2015 có ghi lại việc tiếp lãnh sự quán Mỹ — ông John Helble (1961-1964). Lãnh sự Mỹ phải kiên nhẫn chờ đợi 3 tháng để được ông Cẩn tiếp kiến. Và đây là một trường hợp khá đặc biệt và hi hữu.

DCVOnline.netcũng cho trích đăng lại một điện tín đánh đi từ Huế như sau:
“In telegram 714, November 4, 4.58 p.m the Department agreed that Can should not be harmed and that We should make every effort to get him and his mother, if necessary, out of country soonest, using our own facilities if this would expedite their departure.” ( ibid, Central Files, POL 26 S VIET)
Điện tín từ Lãnh sự Mỹ ở Huế gởi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, 4/11/1963

Dầu vậy cũng không cứu được mạng Ngô Đình Cẩn.
Trong bài trả lời phỏng vấn của ông cựu lãnh sự John Helble với Thomas F. Conlon ngày 5-4-1996 có một ghi đoạn quan trọng lời phát biểu của ông cựu Lãnh sự như sau:
“Nó cho thấy Mỹ đã liên can vào vấn đề này bằng cách bắt ông Cẩn, giao ông lại cho chính quyền mới của Việt Nam, và sau đó “đứng yên” trong khi ông bị kết án và xử tử. Điều này với người Mỹ là hành động, chính sách sai lầm của Mỹ – hoặc một sự kết hợp của cả hai, hành động và không hành động.”
(Trà Mi, ibid., March 26, 2015)
Nói cho cùng cả người Mỹ lẫn bọn tướng lãnh cần một con vật tế thần trong lúc này.

Một người tránh giao thiệp như vậy. Vậy mà vào dịp Tết 1958, đích thân ông Cẩn đã đến thăm số cán bộ bị bắt đã chuyển hướng hoặc chưa chuyển hướng tại lao xá Ty Công an Thừa Thiên.
Đề tài ông nói với họ là “Chính sách chiêu mời và sử dụng những người kháng chiến cũ.”

Đại ý ông nói với họ như sau:
“Bữa ni tôi đến thăm anh em vì được ông Hiếu, Trưởng Ty báo cáo: tất cả anh em ở đây đều là những người có thiện chí, có tinh thần Quốc Gia cao. Tôi đến với mục đích “chiêu mời” anh em về với Quốc Gia, về hợp tác với chúng tôi, chúng ta cùng nhau xây dựng một chế độ thực sự tự do, thực sự dân chủ. Cùng nhau cải tổ cái xã hội lạc hậu chồng chất quá nhiều bất công lưu cữ từ bao đời nay, cho nhân ân, đã được độc lập rồi, phải được sông xứng đáng với vị thế của mình, của một con người hoàn toàn độc lập, tự do và hạnh phúc. (…) Còn anh em, vì qúa hăng say với lý tưởng Độc lập, Tự do nên đã không nhận ra chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa phi dân tộc. ( … ) Tôi mong anh em suy nghĩ cho thật kỹ, thật thấu đáo để mà dứt bỏ cái đuôi cộng sản đã bị người ta lừa bịp ráp vô cho anh em. Rồi mình cùng nhau chiến đấu, chiến đấu cật lực, xây dựng một đất nước thực sự Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ. Một xã hội thực sự công bằng, hạnh phúc, ấm no cho chính mình, vợ con, xóm làng, dân tộc mình thụ hưởng.”
(Bản photocopy, tài liệu của Nguyễn Văn Trung trong tập “Vẽ đường cho hươu chạy”)

Thành tích của Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung
“Theo Mười Hương, ông nhận được hai điện báo: Khu Năm tổn thất nặng, địch bắt bớ mạnh, có chỗ trắng 100%, nhiều nơi trắng 80-90%. Xứ ủy bảo phải cắt liên lạc với Trung Ương để bảo đảm an toàn. (…) Có những nơi đồng chí ta bị bắt gần hết. Quân của Cẩn phá căn cứ Ba Lòng tàn khốc lắm, thậm chí sau khi đã phá nát nó còn cho người đi kiểm tra, gặp một bé trai sống sót nó cũng giết nốt. Lại còn ở Quảng Nam, đạp Vĩnh Trinh…”
(Nguyễn Thị Ngọc Hải, “Trần Quốc Hương, Người chỉ huy tình báo”, trang 116)

Trong một thư gửi ông Mười Cúc (Nguyễn văn Linh), tháng 7 năm 1962, Lê Duẩn cũng thú nhận một tình trạng khá bi quan khi Lê Duẩn viết:
“Đã có lúc ở Nam Bộ cũng như ở khu 5, tình hình khó khăn đến mức tưởng như Cách Mạng không thể duy trì phát triển được. Nhất thiết không nên vì những khó khăn tạm thời do việc dồn dân lập Ấp chiến lược gây ra mà đâm hoang mang.”
(Lê Duẩn, Thư vào Nam, nxb Sự Thật. trang 51-59)
Mười Hương bị bắt năm 1958 sau bốn năm vào Nam hoạt động.
— Ngoài ra còn có Vũ Ngọc Nhạ, một viên chức làm việc tại Bộ Công Chánh. Bị bắt và chuyển hướng và sau đó hàng tháng phải bá cáo công tác. Sau này do lm Trần Ngọc Nhuận, cha sở Phú Nhuận, giới thiệu, bạn thân của bà Thiệu được ông Thiệu trọng dụng.

— Lê Hữu Thúy, thiếu úy được Việt cộng gài vào và được ông Đỗ Mậu đặt làm Trưởng Phòng an ninh Nha An ninh quân đội.
— Đại tá cộng sản Lê Câu sau này cũng chuyển hướng và giúp bắt được Phạm Bá Lương, Công cán ủy viên của Bộ Ngoại giao Vũ Văn Mẫu. (Lương đã chuyển toàn bộ tái liệu Kế hoạch kinh tế của Stanley-Vũ Quốc Thúc).

Tôi chỉ xin nêu vài trường hợp, danh sách còn lại khoảng 200 người
Dư Văn Chất viết:
“Thành tích chống Cộng của Mật vụ Ngô Đình Cẩn-Dương Văn Hiếu thật diệu kỳ. Chúng đánh phá vào cơ quan đầu não của các Đảng bộ miền Trung như Liên Khu Năm, Tỉnh Ủy Thừa Thiên, Thành Ủy Huế rồi Đà Nẵng. Tiến xuông phía Nam, chúng tấn công cơ sở Đặc Khu Sài gòn-Chợ Lớn, Thủ Biên, Cần Thơ. Nổi bật nhất là Mật vụ miền trung đánh bắt gọn các lưới tình báo Chiến lược của ta trải suốt từ Bến Hải tới Sài Gòn trong vòng chỉ một năm.”
(Dư Văn Chất, ibid., trang 2)

Điều chính yếu ở đây là cả Việt Nam Cộng hoà lẫn cộng sản đều nói đến chinh sách cải tạo.

Nhưng chế độ Ngô Đình Diệm, thay ví dùng quá khứ để kết tội thì lại đề cao quá khứ của các người cựu kháng chiến và thường khi đã chuyển hướng và được cất nhắc vào những chức vụ tương đương như trường hợp Phạm Ngọc Thảo, các ông như cụ Huỳnh Văn Lang, Lê Ngộ Châu, ls Trần Văn Tuyên, Phạm Duy, Lê Tùng Minh, Hoàng Thi Thơ và nhà văn Xuân Vũ và hàng ngàn ngàn cựu công chức cũng như trí thức miền Nam, v.v..

Trong khi đó cũng cải tạo các ‘ngụy quân, ngụy quyền’, nhưng lại dùng quá khứ của họ như bản án để kết tội và đầy đọa. Cho nên, 10 người hết 10 người khi được ra khỏi trại Cải Tạo đều oán hận cộng sản không bao giờ nguây ngoa.
Điều đó cho thấy, cải tạo chuyển hưởng thời Đệ Nhất Cộng Hoà là có giá trị nhân bản để cùng nhau xây dựng đất nước. Cải tạo của các trại cải tạo cộng sản là một hình thức trả thù không hơn không kém.

Chẳng những thế, người cộng sản đỗi xử với những người cộng sản đã bị tù dưới chế độ Việt Nam Cộng hoà thuộc thành phần “có vấn đề”, không dùng, cho ngồi chơi xơi nước và canh chừng. Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức Trung ương là người từng tuyên bố: “90% tù chính trị thời Mỹ-Ngụy đều có vấn đề.”

Điều này cũng đúng y trường họp một số tù nhân cộng sản dưới thời Pháp cai trị. Điển hình là trường hợp Trần Văn Giàu bị nghi ngờ là hợp tác với Pháp và cả đời minh oan cũng không xong.

Đó cũng là trường hợp những Phạm Ngọc Ẩn, Mười Hương, thiếu tá Đặng An, Vũ Ngọc Nhạ, v.v..

Trong cuốn Bội phản hay chân chính, có trích dẫn trường hợp thiếu tá Đặng An như sau. Xin trích nguyên văn:
“Đùng một cái, đảng ủy viên thiếu tá Đặng An nhận được quyết định về vườn, nghỉ hưu kèm theo bản án khai trừ Đảng với bản luận tội thời gian Đặng An ở tù Mật vụ. Thật kinh khủng phiên toà nội bộ tàn tệ hơn bất cứ toà án nào: Nó tồi tệ hơn cả phiên xử một ten cướp cạn hay một gái điếm vì tại đây, vì bị can còn được cãi theo luật, còn có luật sự biện hộ.

Đăng An chết trong oan ức, miệng thều thào hỏi: “Sao đã chuyển hồ sơ khiếu nại với Đảng chưa?.. Ông sẽ cho chúng mày chết hết, không chết cũng thân tàn ma dại, không chết bây giờ thì về với Đảng, mày cũng chết, chết khổ chết sở, chết day chết dứt. Xem ai thắng ai? Lời nguyền của mật vụ còn nguyên đó! Tôi muốn nói nhỏ với oan hồn: “Chết là được giải thoát đó Đặng An.”

Vũ Ngọc Nhạ vai chính cuốn “Ông cố vấn” do Hữu Mai biên tập theo tài liệu, Vũ Ngọc Nhạ đã tự tử ba lần mà chưa chết, vì được cứu kịp, cũng bị nghi ngờ…
“Thì ra hồn ma thằng Cẩn đã nhập vào anh em mình. Hồn ma Ngô Đình Cẩn nhập ngay vào những đồng chí cùng tù với Nhạ, cùng ở trong Ban Tổng Kết Cục 2, và hồn ma thằng Cẩn quay “ông cố vấn” không biết đường nào mà trả lời. Ông cố vấn chứng minh bằng thuốc an thần để mong được “ngỏm” cho sớm yên thân.”

(Dư Văn Chất, tức Văn Tiến Mạnh tự Nguyễn Trọng Văn: Bội phản hay chân chính, bản Photocopy, trang 223. Tập photocopy này được phổ biến năm 1992, gồm 233 trang đề ngày 19-8 và 2-9-92 . Người chấp bút là Dư Văn Chất)

Qua những trường hợp vừa nêu trên, chúng ta có thể đi đến kết luận là: Chính người cộng sản sợ người cộng sản. Họ thanh trừng nhau trong nội bộ như trước đây và như hiện nay.
Và cuộc chiến đấu cuối cùng chính là cuộc chiến đấu giữa những người cộng sản với người cộng sản mà thôi! Chúng ta cùng chờ xem màn cuối.
Amen.
(Còn tiếp)

Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p4)

Nguyễn Văn Lục

Số phận của Phan Quang Đông và Ngô Đình Cẩn đã định xong với mức án tử hình. Ấy là chưa kể trường hợp Đặng Sỹ đã thoát án tử hình trong gang tấc! Một bài viết khác sẽ cho thấy lý do nào đã giúp Đặng Sỹ thoát án tử hình?
Những lãnh đạo mật vụ ra tòa. Công hay tội?
(Tiếp theo p1, p2, p3)
Ông Phan Quang Đông (1929-9/5/1964) và thơ gởi vợ trước giờ bị xử tử.
Những tay chân còn lại của ông Ngô Đình Cẩn như Dương Văn Hiếu, Thái Đen, Nguyễn Thiện Dzai. Hay những người ở bên ngành cảnh sát cũng chịu chung số phận như Nguyễn Văn Y, Khưu Văn Hai, Nguyễn Văn Hai, Trần Bửu Liêm, v.v. với những bản án nặng nề: Khổ sai chung thân xử theo luật “cách mạng”.
Chỉ cần nhìn lại thực chất cuộc chiến đã qua và nhờ đó để hiểu vai trò của họ là gì? Và họ thực sự có đáng chịu những hình phạt nặng nề đó hay không?
Cuộc chiến tranh vừa qua là một cuộc chiến tranh toàn diện chẳng những về mặt ý thức hệ, chiến tranh giữa hai khối cộng sản và tư bản, chiến tranh giữa thành thị và nông thôn, giữa quân sự và chính trị.
Theo ông Đặng Văn Sung, chủ báo Chính Luận thì chiến tranh Việt Nam chỉ có 25% là về mặt quân sự, còn 75 % kia là mặt chính trị.

Nhưng cái 25% kia dưới mắt người Mỹ cũng như giới quân sự Việt Nam lại cho là yếu tố quyết định. Đối với người Mỹ, nhất là Bộ trưởng Quốc Phòng McNamra, với sự cao ngạo và tin tưởng đến lố bịch cho rắng họ biết làm thế nào để chiến thắng trận chiến này với những bộ óc chuyên viên biết nhìn vào con số, các bảng thống kê, phương pháp tính toán xác chết và hệ thống điện tử tinh vi về nhu cầu súng đạn, vũ khí và số bom đạn.

Các tính toán của McNamara chỉ có giá trị lý thuyết. Bởi vì thế khi ông ta hỏi ý kiến Ed. Lansdale về việc này. Lansdale đã trả lời là các tính toán ấy đã thiếu một “x factor”. Đó là yếu tố con người, chính trị của cuộc chiến. Đó cũng là cái 75% còn lại.
(Rufus Philipps, “Why Vietnam Matters: An Eyewitness Account of Lessons Not Learned” (2008), trang Preface)

Trong 75% còn lại đó có việc giữa người Mỹ và Việt Nam không hiểu nhau, không đồng quan điểm về chiến thuật, chiến lược, về văn hóa, về lịch sử con người. Chính ví sự kém hiểu biết ấy mà những người Mỹ chỉ nhìn thấy những ưu thế về người, về trang bị và về tiền bạc, về số bom đạn bỏ xuống bắc Việt và ở miền Nam..

Họ đã thất bại và thua cuộc.
Thất bại đó vẫn còn thấy được trong các trận chiến ở Iraq và A Phú Hãn kéo dài cho đến tận bây giờ. Một trận chiến có tên gọi là War of Terror.
Người Mỹ sau 1964 đã không còn mấy tha thiết với việc bình định và phát triển nông thôn (Rural Affairs) như ở thời kỳ đầu 1954-1955. Thời kỳ mà với chỉ trên dưới 5000- 10000 ngàn người Mỹ có mặt đã đem lại một hình ảnh tốt đẹp về nước Mỹ.
Số tổn thất sinh mạng người Mỹ lúc bấy giờ chỉ là một con số rất nhỏ, tượng trưng: 50 người so với con số tổn thất sau này 58.000 người là một sự cách biệt quá lớn lao!

Nếu người Mỹ không đổ quân ồ ạt vào Việt Nam với tổn phi rất cao về sinh mạng và tiền bạc, liệu người Mỹ có bỏ cuộc và bỏ rơi Việt Nam hay không?
Những người như đám mật vụ miền Trung của ông Cẩn nằm trong cuộc chiến mà sự thách thức đặt ra cho người cán binh cộng sản tự nhận thức rằng họ đã lầm đường. Họ không có đất sống, không có chỗ để thở trong một nông thôn ổn định, một nông thôn đem lại sự an bình, no ấm cho nông dân.

Những người như Edward Lansdale và đám phụ tá sau này như Rufus Philipps mà phần vụ còn lại của họ là lo làm thế nào phát triển nông thôn, xây dựng cầu đường, bệnh xá, trường học.

Đó là cuộc chiến hai mặt: mặt bình định nông thôn và mặt phát triển nông thôn. Nếu hiểu cuộc chiến tranh như thế thì vai trò của mật vụ Ngô Đình Cẩn phải được đánh giá lại. Và cũng cần lượng định cuộc chiến tranh leo dốc có cần thiết hay không? Còn đối với ông Nhu thì có chính sách Ấp Chiến Lược bắt chước lại của Mã Lai .
Tem Ấp Chiến Lược. Nguồn: OntheNet
(Tôi cho là Ấp chiến lược quá chú trọng đến vấn đề an ninh và chưa quan tâm cho đủ đến đời sống an sinh xã hội của người dân nên không được dân chúng hưởng ứng. Sự xây dựng đồng loạt quá vội vã và áp đặt cốt đạt thành tích mà không nghĩ tới đồi sống ấm no, có trường học, có trạm y tế, có đời sống kinh tế ổn định. Thất bại là ở chỗ đó. Nhất là ở các tỉnh Phía Nam, dân chúng sống rải rác, thưa thớt không giống miền Trung và trên cao nguyên.)
Sự thiệt thòi và kém may mắn của những cán bộ mật vụ
Khi một người lính ra mặt trận nếu giết được kẻ thù thì được thưởng công cho chiến thắng đó nhờ đó có thể lên lon, có nhiều huân chương, bằng khen. Đó là lẽ thường bởi vì họ đã đem thân mình, sự sống của họ để bảo vệ quê hương đất nước.
Thượng sĩ Nguyễn Hữu Hoàng, trưởng đồn Chắc Cà Đao trong một dịp kiểm soát ghe thuyền may mắn bắt được Ba Cụt. Ông được thưởng công đặc cách từ Thượng sĩ lên Trung úy. Điều ấy cũng rất là bình thường. Nhiều sĩ quan cấp úy, cấp tá đã được cách lên lon ngay tại mặt trận để thưởng những chiến công của họ.
Nhưng khi một người cán bộ Mật vụ nhận lãnh trách nhiệm nặng nề hoạt động bí mật như mật vụ, phản gián, biệt kích thì bại không nói làm gì, thành công cũng không có một quy chế thăng thưởng rõ rệt, trừ những người ở trong quân ngũ. Còn có gì nguy hiểm hơn là các chiến sĩ thám báo, các Biệt kích được gửi ra Bắc?
Một Thượng sĩ bắt được Ba Cụt được đặc cách như thế thì Dương Văn Hiếu và đồng bọn khi bắt được Mười Hương, Cục trưởng cục tình báo cộng sản phải được tưởng thưởng như thế nào cho xứng đáng? Chẳng hạn thay thế Bùi Văn Lương, làm Bộ trưởng Bộ nội vụ?
Vì là tin tức tình báo bí mật nên báo chí không hề đăng tin, dân chúng hoàn toàn mù tịt!
Cho đến hơn 40 năm sau, một trăm người tự nhận là chống cộng khét tiếng, có mặt hò hét trong bất cứ cuộc biểu tình nào thì đến 99/100 người trên không hề biết Mười Hương là ai? Dương Văn Hiếu là người thế nào? Có ai biết thành tích của Dương Văn Hiếu? Và tôi biết được một phần là do năm tập tài liệu của cộng sản viết.
(Năm cuốn sách là: Đoàn Mật vụ Ngô Đình Cẩn của Văn Phan. Đường Thời đại của Đặng Đình Loan. Cuộc chiến tranh đặc biệt, Hồi ký của Đinh Thị Vân. Và hai cuốn: “Bội phản hay chân chính” của Dư Văn Chất và  “Trần Quốc Hương, Người chỉ huy tình báo” của Nguyễn Thị Ngọc Hải.)
Nguồn: Nhà xuất bản: NXB Hồng Bàng
Giả dụ hồi đó, báo chí được đăng tải tin tức khắp nơi, họp báo, rồi đưa Mười Hương và đồng bọn không chịu chuyển hướng ra cho dân chúng coi, thử hỏi kết quả sẽ ra sao?
Tôi vẫn chưa tìm ra lời giải thích, tại sao ta lại phải giữ bí mật về những thành tích như vậy? Cộng sản Bắc Việt khi bắt được phi công Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời Bắc Việt thì chúng mang người phi công bị trói tay ra sau lưng đi khắp phố phường cho dân chúng phỉ nhổ.
Thiệt thòi ấy không phải chỉ dành cho cá nhân Dương Văn Hiếu mà cho cả miền Nam.
Và sau này, Cách mạng nào dám đưa Dương Văn Hiếu ra xử tội và kết tù chung thân khổ sai vì trước đó Dương Văn Hiếu đã được vinh danh là chiến sĩ ngay cả là anh hùng diệt cộng?
Kẻ thù của chúng ta đã viết năm cuốn sách ca tụng, vinh danh Ngô Đình Cẩn và bọn Dương Văn Hiếu, còn người Quốc gia kết tội họ, nhục mạ họ, phỉ báng họ? Giữa Ngô Đình Cẩn và Thích Trí Quang, ai là người có công và người có tội đối với miền Nam? Ai đáng xử chém? Và ai chém ai?

Đã có một cuốn sách nào viết về họ không? Không. Hoàn toàn không. Ngoại trừ các cuộc phỏng vấn của ls Lâm Lễ Trinh trong Thức Tỉnh, 2007

Sau đây, người viết xin được trích dẫn một đoạn tâm trạng của một cán bộ cộng sản đã chuyển hướng cho thấy sự thành công của Đoàn Mật vụ Dương Văn Hiếu như thế nào:
“Tới khi khoanh vùng, cơ sở bị đánh tan tành xí quách, bám trụ trong dân không nổi nữa, phải bật lên núi. Bám núi, anh cán bộ vẫn chỉ đạo phong trào ở đồng bằng. Đối phương leo núi, cắt đường liên lạc, tiếp tế.. Lương thực cạn dần, liên lạc tắc nghẽn. Cuộc sống ngày một trờ thành vô nghĩa nếu cứ bám trụ trên núi cao, trong rừng sâu, quanh quẩn với cây rừng và khỉ đột. Hãy khoan nói tới những gì cao xa, cái bao tử này trước đã. (Chân vỗ đồm độp vào bụng mình mấy cái) Nó đòi hỏi phải được ưu tiên giải quyết trước hết Hết gạo, hết lương khô, hết mọi thứ. Đói quá không tính thì chết đói. Không lẽ chết đói để giữ vững khí tiết người vô sản? (…) Đó, tình hình miền Trung như vậy, bối cảnh như thế-phần nào anh đã hình dung được những nét đặc trưng của phong trào, đặc ính của địa phương, đặc thù của tình hình. Tôi cùng một số đồng chí cũ, cũng là những cán bộ có trách nhiệm với đồng bào địa phương mình, cùng ở trong một cảnh ngộ: đầu hàng. (… )

Với thảm trạng não nề, ê chề như vậy, tới độ nào đó tự nhiên chất người biến đổi đưa tới phản ứng tâm lý dây chuyền không sao cưỡng lại được nữa, là dân oán ghét cán bộ, cán bộ oán trách |Đảng. Người ta cảm thấy mình bị phản bội. Thực tế sau đó là nhân dân có kết luận rằng: “cán bộ đi tới đâu gieo tang tóc tới đó” nên đồng bào dứt khoát “thò anh cán bộ nào ra, túm đầu anh đó, giao nộp cho nhà chức trách.”
(Trích Văn Tiến Mạnh “Nhà Văn bất đắc dĩ”, ngày 20/4/1995, dài 26 trang)

Xét về mặt quân sự, chúng ta phải cần bao nhiêu tiểu đoàn để vây và phá tan một cơ sở hậu cần của một quận? Và nếu vị sĩ quan VNCH nào đánh trận này phá trắng được một cớ sở của địch thì vị sĩ quan đó có được đề nghị để được thăng cấp ngay tại mặt trận không? Vấn đề thu phục lòng dân để dân tỉnh ngộ nghe theo cần bao nhiều thời gian làm công tác dân vận?

Vậy mà Đoàn công tác Mật vụ miền Trung đã khoanh vùng, rồi xóa trắng các vùng xôi đậu do cộng sản bám trụ suốt dọc miền Trung, nắm vững từ trước và sau Hiệp Định Genève đến nay. Tôi đã từng sống và quen thuộc các tỉnh miền Trung. Vậy mà sau 63, nhất là từ 66 trở đi, đi công tác từ Nha Trang ra Phan Thiết, phải dùng máy bay quân sự.

Họ đã được thưởng công gì|? Như thế nào? Bằng văn thư, Nghị định nào của Bộ Nội Vụ? Hay họ đã không nhận được bất cứ một lời khen thưởng trực tiếp nào của ông Ngô Đình Cẩn?

Chẳng hạn Mật vụ của Dương Văn Hiếu sau này được thưởng gì để khuyến khích họ là nhờ quỹ đen của TT Ngô Đình Diệm. Nhưng các nhân viên của ông Hiếu, trong suốt 9 năm trời phục vụ tận tâm cho guồng máy Mật vụ đem lại an ninh cho toàn khu 5 và các tỉnh lân cận thì họ được thăng thưởng chức vụ gì? Được hưởng tiền bạc ra sao? Chính bản thân Dương Văn Hiếu, chức vụ có thể ngang hàng giám đốc công an, nhưng không được cấp phát nhà chính phủ.

Đáng lẽ, phải cho họ đảm nhận các chức vụ quận trưởng hoặc phó quận trưởng các vùng đó thì mới xứng đáng công trạng của họ và gìn giữ an ninh vùng được lâu bền. Sự thiệt thòi ấy dù sao vẫn có thể chấp nhận được.

Nhưng khi chính quyền sụp đổ, như thời Đệ Nhất Cộng Hòa, họ bi coi là người của chế độ và bị trừng phạt nặng nề nhất.

Trong khi đó cả một guồng máy chính phủ, các lãnh đạo hàng Bộ trưởng thường phục vụ đắc lực cho chế độ thì lại được miễn trừ mọi trách nhiệm hình sự? Chẳng hạn, ông Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ có phải chịu trách nhiệm gì về cái chết của Ba Cụt không?
Sau đây, tôi xin tóm tắt danh sách các nhân viên Mật vụ bị ra tòa và bị Toà án cách Mạng xử phạt tù chung thân khổ sai.

Vụ xử Bọn Mật vụ Dương Văn Hiếu với 42 nhân chứng (có chỗ ghi 44).

Theo bài báo của ký giả Nam Đình, đăng trên nhật báo Thần Chung .

“Vụ xử là ngày thứ tư 26-6-1964 với Công Tố viên quen thuộc là Nguyễn Văn Đức. Vụ xử dựa trên sắc luật 4/64. Các nhân chứng là 42 người gồm bác sĩ, luật sư, giáo sư, nhân sĩ, nhà báo, thương gia bị bắt cóc, bị tra tấn cực hình, không khác nào tra tấn những tên tướng cướp, giết người. Tra tấn để rồi khảo của, xét nhà rồi lấy tiền, lấy vàng. Chúng bắt người đoạt xe hơi: chúng tước đoạt từ cái bốp phơi đựng tiền, đồng hồ … cho đến cặp mắt kiếng, chúng cũng lấy nốt. Không một báu vật nào trong nhà mà chúng chịu bỏ lại cho vợ con nạn nhân.
Sắc luật thiết lập tòa án Cách Mạng có dự bị những tội trạng “các việc tịch thu bất hợp pháp” “tra tấn và phạm trọng tội” “bắt giam trái phép”… mà hình phạt tối đa “không quyền giảm khinh” là án tử hình.”

Thật rất tiếc, nhà báo Nam Đình cũng không nêu tên hoặc danh sách 42 nhân chứng, nhưng chỉ nêu tên có một người là: Ông Phan Khắc Sửu. Sau này, tôi cũng không có cơ hội đọc các hồi ký của 42 nhân sĩ, nạn nhân của Ngô Đình Cẩn?

Sau đây, xin trích dẫn tiếp theo nội dung câu hỏi của Công Tố Viện hỏi bị can Dương Văn Hiếu:
“Ô. Nguyễn Văn Đức thay mặt Công tố viện, hỏi bị can Dương Văn Hiếu suốt 10 mười phút về danh từ ‘Công tác đặc biệt’:
— Tại sao không gọi, ví dụ ‘công tác chống Cộng’ hay công tác gì đó, chớ sao lại đặt ra danh từ “công tác đặc biệt”. Đặc biệt là nghĩa gì?
Hiếu lúng túng không biết đâu trả lời. Ông Chưởng lý hỏi tới nữa, Hiếu đáp: ‘Danh từ công tác đặc biệt đã có từ lâu rồi…’
Ông chưởng lý như nói một mình: ‘Thảo nào! Những công tác đặc biệt thật là đặc biệt!’
Mỗi lần nhân chứng khai rồi, Ô. chánh thẩm day qua hỏi bị can:
— Bị can có nhìn nhận… không?
Và mỗi lần hỏi vậy, các bị can đều trả lời: ‘hoàn toàn không có’.”
(Trích Nam Đình, ibid., nhật báo Thần Chung)

Kết quả Bản án Mật vụ/b>
Sau đó thì tòa tuyên án chỉ có 4 người đứng đầu. Tất cả nhân viên khác được tha bổng.
  • Dương Văn Hiếu: chung thân khổ sai.
  • Thái Đen tức Nguyễn Như Thái: Chung thân khổ sai. (Thật ra có hai Thái. Thái trắng, tức Lê văn Thái làm việc cho Trần Kim Tuyến).
  • Nguyễn Thiện Dzai: Chung thân khổ sai.
  • Phan Khanh: 10 năm khổ sai.
Theo sự tiết lộ sau này của Dương Văn Hiếu với luật sư Lâm Lễ Trinh,“bà quả phụ ông Đinh Xuân Quảng, vợ của một ông cựu Bộ Trưởng thời Bảo Đại thưa tôi đã tra khảo bà. Nhưng không có bằng chứng cụ thể.”

Cũng theo Dương Văn Hiếu, nếu tôi có giết ai thì sau này chắc chắn Mai Hữu Xuân đã “làm thịt” tôi rồi. Chính Mai Hữu Xuân cũng nới với Dương Văn Hiếu như thế. Tuy nhiên, tòa án Cách mạng do một thẩm phán dân sự chủ tọa. (Trong đó có đại tá Dương Hiếu Nghĩa làm thành viên.)

Nhưng chẳng bao lâu sau, năm 1964, chính phủ cho ba chiếc máy bay chở tất cả đám tù chính trị mật vụ, khoảng 40 người về đất liền. (Thật ra lệnh thả là do ông Trần Văn Hương ký giấy thả)
Việc kết án tù chung thân khổ sai rồi sau đó thả cho thấy đây hoàn toàn là một vụ án chính trị, không có căn bản pháp lý cũng như thủ tục tố tụng.
Ít lâu sau, Dương Văn Hiếu nhận được giấy của Phủ Đặc Ủy Trung Ương tình báo, tướng Nguyễn Khắc Bình, bến Bạch Đằng mời đến làm việc ở Phòng Nghiên cứu về tình báo.(Một cách cầm chân Dương Văn Hiếu giữ vai trò văn phòng, ngồi chơi xơi nước.)

Đó cũng là trường hợp của Đào Quang Hiển, từng là Giám đốc Nha Nội An Bộ Nội Vụ bị giam tù bảy tháng, sau cũng được điều về làm ở Phủ Đặc Ủy Trung Uơng tình báo với chức vụ Giám đốc Nha tổ chức dưới quyền của đại tá Lê văn Nhiêu, người của Nguyễn Khánh.
(Lâm Lễ Trinh, “Thức tỉnh. Quốc Gia & Cộng sản”, trang 425)

Những án tù khác
Xin tóm tắt vì những người này không nằm trong khuôn khổ Đoàn Mật Vụ Ngô Đình Cẩn. Trich lại nhan đề bài báo của Ký giả Nam Đình, báo Thần Chung như sau:
“Chúa Nhựt 18, Thứ hai 19-7-65. 13 nhân viên cao cấp trong Ngành Cảnh Sát Quốc Gia. Phạm tội bắt giam trái phép và Thủ tiêu 13 Nhà Ái Quốc: 10-6-1964.”
13 nhà ái quốc có tên sau đây:
  1. Nguyễn Phan Châu, tự Tạ Chí Diệp
  2. Huỳnh Hữu Thiện, tự Dư
  3. Huỳnh Thiện Tứ
  4. Nguyễn văn Tập, tụ giáo Tập
  5. Nguyễn Văn Danh
  6. Lê Hoài Nam, tự Trương Văn Kinh
  7. Vũ Tam Anh
  8. Lâm Hoàng Bá
  9. Trần Chí Tài
  10. Lý Tâm Nghiệp
  11. Tôn Thất Dương
  12. Nguyễn Bảo Toàn
  13. Phan Xuân Gia
Cuối cùng cũng chỉ xử kết án 4 án chung thân khổ sai. Còn được tha bổng hết.
4 án khổ sai gồm: Nguyễn Văn Y, Nguyễn văn Hay, Khưu Văn Hai và Trần Bửu Liêm. Còn tha bổng: Huỳnh Phước Bang, Lê Văn Thảo, Nguyễn văn Ngời, Nguyễn Thanh Huân, Nguyễn văn Hiếu, Võ Văn Chẻ và Võ Văn Dưỡng.”

Trong vụ án này, nó có một chi tiết đáng phải nói. Trước hết, xin trích lại bài báo của ký giả Nam Đình trên tờ Thần Chung như sau:
“Sau 4 tiếng đồng hồ nghị án, ông chánh thẩm Trần Minh Tiết và các ông phụ thẩm nhân dân và quân nhân phải trả lời nhiều câu hỏi để rồi đồng ý khép về tội “cố sát không dự mưu” nên cả 4 người mới khỏi chết.”

Lời bàn
Một đứa trẻ con cũng biết rằng vụ ám sát chính trị phải có lệnh từ trên và để thực hiện, phải có kế hoạch hẳn hoi.. Vậy mà tòa án cách Mạng đã bẻ quẹo đây là một vụ “cố sát không dự mưu” để tránh bản án tử hình cho các bị can?
Ai có thể tin được quyết định của ông Chánh Thẩm Trần Minh Tiết là xử đúng pháp luật?

Lại còn trường hợp Thiếu tá Đào Quang Hiển chẳng hiểu vì lý do gì được tha bổng? Bởi vì ra trước tòa, Khưu Văn Hai khai rằng, ông chỉ làm theo lệnh của Thiếu tá Đào Quang Hiển?

Kết Luận
Tôi đã sống trọn vẹn tuổi trẻ và tuổi trưởng thành của tôi giữa hai nền Đệ Nhất và nền Đệ Nhị Công Hòa. Tôi hiểu được phần nào những thành tựu cũng như những thất bại của cả hai. Tôi yêu mến và hãnh diện về nền Đệ Nhất Cộng Hòa và không thể nói khác được. Tôi để những lời thù hận chế độ ra bên ngoài tai vì tôi nhận ra càng ngày xu hướng chính trị nói chung cả người Mỹ lẫn người Việt đều nhận thức được đâu là sự thật và cái chết oan nghiệt của họ.

Nhưng có một điểm khác biệt sâu xa giữa hai chế độ ấy là: Lãnh đạo nền Đệ Nhất Cộng Hòa tuy non trẻ và thiếu nhiều kinh nghiệm, nhưng lý tưởng quốc giả, lòng yêu nước và lý tưởng phục vụ cao nơi những người như ông Diệm. Bên cạnh ông Ngô Đình Diệm là những người công chức gương mẫu, sống thanh bạch, đạo đức nghề nghiệp như cụ Quách Tòng Đức, ông Võ Văn Hải, ông Đoàn Thêm và những người cán bộ Mật vụ.

Đặc biệt, tôi nghĩ rằng phải trả lại công đạo cho những cán bộ cốt cán của nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã bị xử oan sai cần được đánh giá lại. Công của họ thì nhiều mà tội thì không chứng cớ rõ ràng.

Chỉ cần so sánh hệ thống điệp báo giữa hai thời kỳ đủ rõ Sau 1963, Phủ Đặc Ủy Trung ương tình báo do tướng Nguyễn Khắc Bình, với số nhân viên đông đảo, tiền bạc đầy đủ nào đã có những công trạng gì? Hay chỉ thấy, cán bộ cộng sản xâm nhập gần như công khai trong các trường học, trong một số chùa chiền và trong các cơ quan chính phủ! Việc khui ra ổ gián điệp Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng trong Dinh Độc Lập đăng tải công khai trên báo chí là do CIA, nào phải công trạng của Phủ Đặc Ủy.

Nhìn lại những năm đầu của nền Đệ I Cộng Hòa, ít lắm thì đó là một xã hội có kỷ cương, có nề nếp, có trật tự. Nếu có điều gì phải hối tiếc nơi cá nhân tôi là đã có lúc tôi đã đánh giá cao Trần Kim Tuyến cả về nghiệp vụ cũng như về lòng trung thành của ông ta mà sau này tôi biết là mình đã lầm lẫn. Điều ấy cũng đúng cả trong trường hợp Dương Văn Minh nữa.

Nhưng sau này tôi đã không thể tìm thấy những điều tối thiểu ấy nơi các nhà lãnh đạo sau 1963 như các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, v.v..
Tôi còn nhớ như in là sau cuộc cách mạng thành công, các tướng lãnh cho phép mở phòng trà, cho nhảy đầm. Bỏ bê Ấp Chiến lược mà không có một giải pháp chính sách nào thay thế.

Sự nhốn nháo và bất bình trong đám tướng lãnh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ngay từ dầu mỗi ngày mỗi lộ ra không cần dấu diếm.
Cái chết của hai ông Diệm và Nhu thay vì giúp họ an tâm, đoàn kết lại với nhau lại là mầm mống chia rẽ họ. Sự chia rẽ ấy, người Mỹ biết hết mà không can thiệp. Mỹ lỏng tay cho Nguyễn Khánh làm chỉnh lý.

Rồi sự chia rẽ trở nên trầm trọng hơn khi Dương Văn Minh loại bỏ không có tướng Nguyễn Khánh và tướng Đỗ Cao Trí trong Hội Đồng Quân Nhân. Sau này nó sẽ là nguyên nhân của các cuộc chỉnh lý.
Đặc biệt, nhìn lại những việc làm của Dương Văn Minh đều là những việc làm tiêu cực cả. Cuộc đời làm chính trị của ông là vai trò bù nhìn trong nhiều trường hợp.

Lấy một thí dụ. Báo Chính Luận, ngày 8-5-1964 đưa tin như sau:
“Sắc lệnh bác đơn xin ân xá của Đông và Cẩn. Saigòn (VTX). Sáng 5-5-64, Trung tướng Dương Văn Minh, Quốc Trưởng VNCH đã ký một ngày hai sắc lệnh số 0006-QT/SL và số 0007-QT/SL bác đơn xin ân xá của Phan Quang Đông (đề ngày 28-3-64 và của Ngô Đình Cẩn đề ngày 23-4-64.”
Giết người Quốc Gia, nhưng lại thả tất cả các cán bộ cộng sản bị bắt trước 1963. Điều này không hiểu tại sao, dư luận báo chí không lên tiếng! Hành động này có khác chi một hành động “phản quốc”?

Hãy nghe Mười Hương nhận xét:
“Lực lượng đảo chánh của Dương Văn Minh lo thanh trừng phe phái của Diệm, không quan tâm số tù chính trị cũ, nên cho thả rất đông và rất dễ. Nguyễn Tư Thái (phụ tá Đoàn công tác đặc biệt miền Trung) sau này có nói, năm 1965, nghe Trần văn Hai — chủ sự phòng Thẩm vấn khối Cảnh sát đặc biệt — chửi bọn đảo chính chẳng làm ăn được gì cả, còn ăn đút lót để thả cán bộ cộng sản, và đã thả nhầm một cán bộ tình báo cấp quan trọng là Mười Hương. Hồ sơ của ông có nhận xét ở phiếu tóm lược:
“Đương sự ngưng hoạt động năm 1955, hơn nữa không gia nhập đảng cộng sản và đã bị giam giữ 6 năm.””
(Nguyễn Thị Ngọc Hải “Trần Quốc Hương, Người chỉ huy tình báo”, trang 155)

Tôi không hiểu ai là người đã làm hồ sơ giả như trên để có cớ thả Mười Hương?
Mười Hương đã được thả ngày 18 tháng 5-1964. Nghĩa là 6 tháng sau cuộc cách mạng lật đổ chế dộ Đệ Nhất Cộng Hòa. Khi được thả ra, Mười Hương còn cười vào mặt những kẻ đã thả ông bằng cách bịa chuyện như sau: “Tụi địch còn đùa: Nay, tụi này thả ông anh ra về kịp ăn sinh nhật cụ Hồ.”
Tôi thấy nhục thay cho Dương Văn Minh. Nhục thêm nữa khi nhin bức hình ông ta cúi gằm mặt như một tên tội đồ đến đài phát thanh để đọc lệnh đầu hàng.

© 2017 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

Trường hợp kỳ lạ của ông Ngô Đình Cẩn

Trà Mi

John_H
Hơn nữa, tôi đã nói với Bộ Ngoại Giáo rằng, chiếu theo Cẩm nang Ngoại giao [FAM], một Lãnh sự quán không thể nhận người xin tị nạn và chúng tôi cũng không có thẩm quyền theo luật pháp quốc tế. (Hình cựu Lãnh sự Mỹ John J. Helble tại Huế 1963.)
<7634808284_2532185583_o-900x899.jpg>

Ông Ngô Đình Cẩn tại tòa án quân sự (Saigon  /4/1964) Nguồn UPI
“Tòa lãnh sự Mỹ quyết định trao trả Ngô Đình Cẩn cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Sáng ngày 5 tháng 11 năm 1963, tướng Đỗ Cao Trí cùng với một sĩ quan Mỹ và sĩ quan Việt Nam Cộng hòa đưa Ngô Đình Cẩn và mẹ ông này lên máy bay đi Sài Gòn theo lệnh của Hội đồng Quân nhân Cách mạng.”

Trên đây là một đoạn trích từ bài Huế – những tháng ngày sục sôi – Kỳ 6: Số phận Ngô Đình Cẩn, của Nguyễn Đắc Xuân, viết trên Báo Tuổi Trẻ ngày 10/01/2012.

Sự thật như thế nào? Hãy nghe một nhân vật trong cuộc, có mặt ở Huế, liên quan trực tiếp đến sự kiện kể lại. Người đó là John Helble.
John Helble, Lãnh sự Mỹ tại Huế (1961-64) là người đã phản đối đề nghị cho ông Ngô Đình Cẩn tị nạn tại tòa lãnh sự ngược với quyết định của của Bộ Ngoại Giao Mỹ lúc đó.

John Helble sinh năm 1934 và lớn lên ở Wisconsin, làm việc với ngoại giao đoàn Hoa Kỳ từ năm 1956. Trước khi sang Việt Nam (1959-64) công tác John Helble đã làm việc tại Venezuela. Trở về Mỹ tu nghiệp một năm tại đại học Chicago sau đó John Helble làm việc tại bộ Ngoại giao từ 1965-1968 về các vấn đề liên quan đến Việt Nam. Cuối cùng, 1968-1985, ông công tác ngoại giao tại Mã lai, Thái Lan, Miến Điện, Bangladesh, và Honolulu trước khi nghỉ hưu về Virginia trồng nho và hoa hồng.

John Helble đã được Thomas F. Conlon phỏng vấn vào ngày 5 tháng Tư năm 1996. Dưới đây là phần trích dịch lời ông John Helble thuật lại việc tị nạn của ông Ngô Đình Cẩn.

Một cử chỉ rộng lượng của một người độc tài

Ông có bao giờ có quan hệ mật thiết với ông Cẩn không?

Tôi chỉ gặp ông Ngô Đình Cẩn một lần. Tôi đã được người tiền nhiệm, Tom Barnes cảnh báo là ông Cẩn không nhận tiếp Lãnh sự Mỹ. Vì vậy, tôi đã kiên nhẫn chờ đợi cả ba tháng sau khi tôi đến Việt Nam. Đến tháng Chín, năm 1961, tôi đã tìm được một người là cố vấn hàng đầu của ông Cẩn và người mà tôi có thể liên hệ trực tiếp. Tôi đã hỏi ý kiến của ông ta và nói với ông ấy rằng tôi muốn điện thoại cho ông Cẩn. Tôi nói rằng tôi muốn có cơ hội thảo luận với ông Cẩn về một số các vấn đề của khu vực, về tình hình địa phương, và những điều như vậy. Một thời gian sau đó người trung gian này đã trở lại liên lạc với tôi và nói rằng ông Cẩn không thể gặp tôi. Tuy nhiên, ông cho rằng nếu muốn, tôi có thể viết xuống một số câu hỏi, và ông Cẩn sẽ sẵn sàng trả lời tôi bằng văn bản. Tôi quyết định rằng đó không phải là một phương pháp hữu ích, vì vậy tôi đã không làm theo đề nghi đó.
Hinh chụp từ trên cao Lăng Vua Tự Đức, Huế. Nguồn: adst.org
Hinh chụp từ trên cao Lăng Vua Tự Đức, Huế. Nguồn: adst.org
Tôi có thể nói rằng Cẩn, người nổi tiếng được coi là có ác cảm với người ngoại quốc nói chung, đã làm một số cử chỉ, hoặc những gì tôi tôi cho là cử chỉ, “chấp nhận” tôi trong cộng đồng, ít nhất là đối với ông ấy. Vì vậy, tôi kết luận rằng tôi đã chưa làm bất cứ điều gì đã quá “sai”. Ví dụ, vào dịp Giáng sinh ông Cẩn đã cho tôi gửi một giỏ lớn thức ngon Việt Nam gồm giò sống với gia vị gói trong lá chuối. Đây là món thường được ăn kèm với “nước mắm” nổi tiếng của Việt Nam.

Một lần tiếp xúc khác trực tiếp với ông Cẩn … là một đặc ân mà ông ấy đã giành cho tôi và vợ tôi. Thực sự đó là một cử chỉ rộng lượng. Nó liên quan đến cái chết của con gái chúng tôi tại Việt Nam. Khi cháu mất, chúng tôi nghĩ đến một nơi lý tưởng để an táng con gái nằm trên sườn đồi ở phía trước của lăng vua Tự Đức, nhìn ra sông Hương, với với một góc nhìn tuyệt vời ở phía tây bắc hướng về những rặng núi Việt Nam, phía sau cánh rừng và dòng sông yên tĩnh và thơ mộng này. Tôi biết rằng vùng đất tôi định dùng làm nơi chôn cất con gái của chúng tôi là đất của ông Ngô Đình Cẩn. Trừ một cái hầm cũ từ thời Pháp thuộc vẫn nằm trong khu vực, nói chung không có cấu trúc nào khác ở đó. Đó là một khoảng đất trống, có một vài cây chà thông. Phó Lãnh sự của tôi, một nhân viên CIA, đã xin đươc phép của ông Cẩn cho chúng tôi chôn con gái của chúng tôi ở đó. Đó chắc chắn không phải là một điều mà ông Cẩn phải làm…

Thiết Quân luật sau cuộc đảo chính
Ngày 1 tháng 11 năm 1963 là ngày quân nhân đảo chánh Tổng thống Diệm.
Saigon Round Up (08 November 1963) - William Colby Collection
Thành phần Hội đồng Quân nhân Cách mạng và Chính phủ VNCH Lâm thời. Nguồn: Saigon Round Up (November 8, 1963) – William Colby Collection

Thiết quân luật áp dụng ngay tại Huế. Tuy nhiên, khi cuộc đảo chính thành công khá nhanh thì thiết quân luật không còn có ý nghĩa nữa. Dân chúng trong hầu hết các nhóm ở Huế hân hoan đón mừng cuộc đảo chính thành công. Tình hình an ninh ổn định. Không có bạo động hay những sự kiện bất lợi. Với sự “giải phóng” – như nhiều người đã nghĩ – khỏi chế độ và tình hình thoải mái ngay sau đó, nói chung, người dân quan tâm chính đến việc thả bất kỳ tù nhân chính trị nào họ đã tìm được. Có một số tù nhân loại này đã được thả, nhưng tôi không có bất cứ một dự toán nào về con số.

Một trong những điều gây ấn tượng hơn cả xảy ra vào cuối buổi chiều sau cuộc đảo chính vào ngày 3 tháng 11, 1963, là việc khám phá ra một nhà tù kinh khủng cách Huế khoảng một hoặc hai dặm về phía Tây, về hướng của các lăng tẩm của triều đình. Hóa ra là đã có một số người bị giam giữ ở một khu vực trước đó là kho đạn của Pháp. Khi tìm ra nhà tù này một số tù nhân đã được phóng thích. Người dân Huế ùn ùn kéo hau đến đây coi. Tôi cũng đã đến đó xem. Các hầm chứa đạn nằm sâu trong một sườn đồi và đã được sửa thành các phòng giam dài khoảng gần 2 m, rộng khoảng 1 m và cao cũng khỏang 1 m. Phòng giam chỉ có nền trống, không có bàn ghế – không có gì trong đó, ngoại trừ phân người và rác rưởi đã tích tụ ở đó. Mỗi phòng giam có một cánh cửa khóa. Những phòng giam này có thể đã rất là khó ở…

Ngay cả người Việt Nam cũng không thể đứng thẳng?
Ngay cả người Việt Nam cũng không thể đứng thẳng người lên trong đó. Điều này, tất nhiên, đã gây phẫn nộ hơn nữa với sự thái quá của chế độ trước đó. Phe quân nhân chính đã bắt giam hay quản thúc tại gia để hạn chế sự di chuyển của một số những viên chức chính phủ cũ. Tuy nhiên, không có những vụ bắt bớ quy mô lớn. Một số người đã bị bắt, nhưng không nhiều. Phe đảo chính lo rằng có thể có một số người của chính phủ cũ trong quân đội, là những người có thể lật ngược cuộc đảo chính. Tuy nhiên, những lo ngại đó hóa ra là không có cơ sở.

Có một tin tình báo cho hay “Lực lượng Nhân dân” của ông Ngô Đình Cẩn sẽ tìm cách trả thù và đã xác tín là người Mỹ phải chịu trách nhiệm cho cuộc đảo chính lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Cộng đồng người Mỹ ở Huế có thể ở trong tình trạng đe dọa. Tôi cảm thấy rằng điều này rất khó xảy ra, tuy vậy cố vấn cao cấp của Sư Đoàn 1 QLVNCH, Đại tá Ed Markey, đã thận trọng, và quyết định yêu cầu vị chỉ huy quân sự mới, Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn I, người đã có mặt tại Huế, đưa lính bảo vệ quanh tất cả các khu dân cư và các cơ sở của Mỹ. 

Khi tôi thấy một tiểu đội binh sĩ VNCH được đưa vào trong sân nhà tôi với mục đích này, đồng thời tôi được một trung úy cho biết là họ thi hành lệnh của bộ chỉ huy; tôi đã đi kiếm Đại tá Markey và nói một cách rõ ràng rằng ông ta không có quyền yêu cầu quân đội Việt Nam đưa lính gác quanh nhà ở của người Mỹ và cơ sở của Mỹ. Sau đó, tôi đã đến gặp Tướng Đỗ Cao Trí và yêu cầu ông rút ngay lập tức những binh lính đang ở khu của Mỹ. Tướng Trí đã đồng ý với yêu cầu của tôi. Điều này gây ra khó chịu cho Đại tá Markey. Sau khi vấn đề được bàn thảo tại Sài Gòn, trong vòng khoảng một tuần Đại tá Markey đã được thuyên chuyển đi nhận nhiệm vụ khác tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Tháng 9-1963: Thiếu tướng Đỗ Cao Trí, 9-1963 (L-R) Brig. Gen Do Cao Tri, Gen. Maxwell D. Taylor & Secy of Defense Robert S. McNamara, as they question a Viet Cong guerrilla. Nguồn: LIFE magazine
Tháng 9-1963: Thiếu tướng Đỗ Cao Trí, đại tướng Maxwell D. Taylor & Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert S. McNamara, đang thẩm vấn một cán binh Việt Cộng. Nguồn: LIFE magazine

Cho một người độc tài bị khinh miệt tị nạn
Không có gì đáng chú ý đã xảy ra trong 24 giờ sau đó. Rồi có ba người, riêng rẽ, đến yêu cầu tôi cho ông Ngô Đình Cẩn, chưa bị bắt và đang đang ẩn trốn được “tị nạn” tại Lãnh sự quán của chúng tôi. Tôi trả lời cho từng người đến yêu cầu là tôi sẽ xem xét điều này. Ngay lập tức, tôi báo tin về cho Bộ Ngoại giao ở Hoa Thịnh Đốn biết những cuộc tiếp xúc vừa xảy ra; Tôi báo cáo với Bộ Ngoại giao rằng, thứ nhất, tôi không thể biết chắc được căn cước thực của ba người vừa gặp. Dù tôi biết cả ba người đó ở những mức độ khác nhau, nhưng tôi không biết liệu một hoặc hai trong ba người đó có thể là phản gián hoặc là họ đã không nói thực mục đích của họ khi đến gặp tôi.

Hơn nữa, tôi đã nói với Bộ Ngoại Giáo rằng, chiếu theo Cẩm nang Ngoại giao [FAM], một Lãnh sự quán không thể nhận người xin tị nạn và chúng tôi cũng không có thẩm quyền theo luật pháp quốc tế. Theo FAM, định nghĩa tị nạn cho một ngoại giao đoàn rất giới hạn, chỉ trong những trường hợp người xin tị nạn đang gặp nguy hiểm đe dọa đến tính mạng. Ví dụ, một người đang bị một đám đông giận dữ đuổi bắt. Tuy nhiên, ngay cả trong những hoàn cảnh như thế, sau khi tình hình không còn nguy hiểm nữa thì người xin “tị nạn” lập tức phải được đưa ngay ra khỏi Lãnh sự quán có nghĩa là đưa ra khỏi cửa.

Tôi cũng cho hay dưới quan điểm chính trị, người ở Huế, cũng như dân chúng ở những nơi khác, chắc chắn đã thấy nhẹ nhõm sau cuộc đảo chánh loại bỏ chính phủ của ông Diệm. Họ đã không ưa gì ông Cẩn và sự cai trị độc tài của ông từ nhiều năm qua. Để ông Cẩn tị nạn sẽ không cải thiện hình ảnh của người Mỹ ở Huế và khu vực xung quanh. Hơn nữa, tôi cũng báo cáo rằng nếu ông Cẩn được cho tị nạn ở Lãnh sự quán thì mọi người sẽ biết ngay, và tin tức sẽ lan nhanh như cháy rừng ở Huế. Với tình cảm của người dân ở Huế, những người vừa thấy những điều kiện khắc nghiệt của nhà tù … và nhiều người khác có nhiều phàn nàn, oán hận ông Cẩn, người dân Huế có thể quyết định giành quyền tự họ xử ông Cẩn. Vị trí của Lãnh sự cũng khó mà bảo đảm được an ninh cho Lãnh sự quán, nhân viên hoặc, thực sự, bất cứ ai trong cộng đồng người Mỹ ở Huế vào thời điểm đó.

Có sự trao đổi giữa tôi và bộ Ngoại giao. Tôi đã nhận được một phản ứng, từ Washington, nhưng không dứt khoát. Họ hỏi thêm một số câu hỏi khác. Tôi đã trả lời những câu hỏi đó và nhắc lại quan điểm của tôi rằng chúng ta không nên chấp nhận yêu cầu này, thậm chí nếu có một hoặc nhiều hơn những lời yêu cầu [để ông Cẩn tị nạn ở Lãnh sự quán] là những yêu cầu thực.

<telegram291-900x149.jpg>
Điện tín từ Lãnh sự Mỹ ở Huế gởi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, 4/11/1963

Trong vòng 36 giờ, tôi đã được lệnh để cho ông Cẩn tị nạn. Khi ông Cẩn đến Lãnh sự quán, tôi phải hỏi xem ông ấy muốn đi tị nạn ở quốc gia nào. Tôi được yêu cầu phải thông báo cho bộ Ngoại giao và tòa Đại sứ ngay khi ông Cẩn đến Lãnh sự quán và quốc gia ông chọn đi tị nạn. Khi được lệnh của bộ Ngoại giao, tôi cũng đã liên lạc với tòa Đại sứ ở Sài Gòn. Trong số những lần liên lạc đó tôi đã dùng điện thoại trên đường dây không bảo mật. Cố gắng nói chuyện bằng mật mã có lẽ là vô dụng, nhưng tôi đã ráng làm như vậy. Đại sứ quán đã cho tôi biết rằng họ sẽ gửi một máy bay vận tải C-46, một máy bay của CIA, đến sân bay Phú Bài ở Huế Nam sau khi ông Cẩn đến Lãnh sự quán.

“Tôi đã có chim trong lồng” – ông Cẩn đến Lãnh sự quán
Sau đó tôi đã liên lạc với người mà tôi coi là đáng tin cậy nhất trong số ba người đã đế gặp trước đây. Tôi báo với người ấy biết rằng tôi sẵn sàng nhận ông Cẩn [tị nạn] tại Lãnh sự quán. Ông ta đã liên lạc lại với tôi không lâu sau đó và nói rằng ông Cẩn sẽ ngụy trang đến Lãnh sự quán với một linh mục là người sẽ lái xe, lúc 11:00 sáng, nếu tôi nhớ đúng, vào thứ ba, tôi tin rằng đó là ngày 5 Tháng 11 năm 1963. Ông Cẩn thực sự tới tại Lãnh sự quán một giờ sau đó. Ông nằm trên ghế sau của một chiếc Citroen cũ. Tài xế là một linh mục Việt Nam.

Tôi đón ông Cẩn tại lối vào phía trước hiên nhà của Lãnh sự quán và mời ông lên lầu, và cố che để ông không bị một số nhân viên địa phương của tôi dòm ngó. Những nhân viên Việt Nam làm việc trong một văn phòng bên phải lúc tôi đưa ông Cẩn lên cầu thang. Tôi không biết sự kín đáo che chắn cho ông Cẩn của có thành công hay không. Ngay lập tức, tôi đặt câu hỏi với ông Cẩn câu hỏi về nơi “an toàn” ở nước ngoài mà ông muốn đi. Ông trả lời tôi tức thì, “Tokyo”.

Cũng ngay lúc đó tôi nhận được điện thoại của một nhân viên của tôi ở tòa Lãnh sự cho hay Tướng Đỗ Cao Trí đang có mặt dưới nhà và muốn gặp tôi. Tôi để Jerry Greiner, một Phó Lãnh sự CIA ở lại với ông Cẩn và đi xuống cầu thang để gặp Tướng Trí trong phòng tiếp tân nhỏ của chúng tôi. Tướng Trí bắt đầu bằng cách nói ngay, như thói quen của ông, là tôi “đã có” ông Ngô Đình Cẩn trong tòa Lãnh sự và ông, Tướng Trí, “muốn bắt” ông Cẩn. Tôi nói với Tướng Đỗ Cao Trí là dù tôi có Ngô Đình Cẩn hay không, đó là một vấn đề quan tâm của tôi và không phải của ông (tướng Trí). 

Sau đó Tướng Trí nói rằng, trong tình hình hiện nay ở Huế, à nhiều người không ưa ông Cẩn, nếu người dân Huế biết ông Cẩn có mặt trong Lãnh sự quán, thì ông (Tướng Trí) không thể bảo đảm sự an toàn của Lãnh sự quán hoặc của cộng đồng người Mỹ tại Huế nói chung. Ngay lập tức, tôi trả lời rằng đó là rõ ràng trách nhiệm của Tướng Trí phải bảo đảm sự an toàn của Lãnh sự quán, các cơ sở Mỹ, và các nhân viên Mỹ tại Huế. Và cùng lúc, tôi đã chính thức yêu cầu Tướng Trí nhận bảo đảm như vậy và tôi sẽ ngay lập tức báo cáo chuyện này với Đại sứ quán ở Sài Gòn và câu trả lời của tướng Trí. Ông Tướng không nhận bảo đảm anh ninh như tôi đã yêu cầu. Tôi nhắc lại rằng đó là trách nhiệm của Tương Trí, và tôi mong ông ấy làm như vậy, và đây là liên lạc và trao đổi chính thức về việc đó.

Sau đó Tướng Trí rời khỏi Lãnh sự quán. Tôi quay lại để thảo luận tình hình với ông Cẩn, nhưng cũng không có gì nhiều hơn để tôi cần phải nói chuyện với ông Cẩn, một khi chúng tôi đã xác định rằng Tokyo là nơi ông muốn đi. Tôi lập tức gọi Đại sứ quán ở Sài Gòn và thông báo với họ rằng: “Tôi đã có chim trong lồng”. Họ cho tôi biết rằng trong vòng hai giờ, chiếc C-46 sẽ đến sân bay Phú Bài, và tôi phải có mặt ở đó với ông Cẩn. Tôi ngay lập tức đã gửi một điện văn cho Bộ Ngoại giao nói rằng ông Cẩn đang ở Lãnh sự quán.

Tôi gọi một cố vấn Mỹ cao cấp của Sư Đoàn 1 QLVNCH, phó của ông, và một nhân viên CIA đồng nghiệp của tôi Phó Lãnh Greiner vào họp. Chúng tôi đã đề ra một kịch bản để một đoàn xe đưa ông Cẩn đến sân bay Phú Bài, cách Lãnh sự quán khoảng 14 km. Đoàn xe gồm có một chiếc xe jeep với một binh sĩ và một sĩ quan đi trước, tiếp theo là xe chính thức của tôi có viên cố vấn cao cấp của quân đội Mỹ, CIA Phó Lãnh sự, tôi, và ông Cẩn, và một chiếc xe jeep quân đội Mỹ có một binh sĩ và một sĩ quan, đi sau xe chúng tôi.

Cuộc chạy thoát không thành
Chúng tôi rời khỏi Lãnh sự quán chỉ đủ thời gian để đến sân bay Phú Bài cùng với giờ ước tính chiếc máy bay C-46 sẽ đến. Không có chuyện gì xảy ra trong chuyến đi đến sân bay. Chúng tôi đã không gặp phải bất kỳ khó khăn nào. Chúng tôi đưa ông Cẩn trên máy bay. Tôi đã sắp xếp với Phó Lãnh sự Jerry Greiner để đi cùng với ông ấy, và tôi ra lệnh cho cho Jerry giao ông Cẩn lại cho Đại sứ quán và chỉ giao cho Đại sứ quán.
Greiner và ông Cẩn bay đến sân bay Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn. Khi cánh cửa mở ra, Greiner thấy chiếc máy bay đã đáp bên phía quân sự của sân bay Tân Sơn Nhứt và có đoàn quân khá lớn của quân đội VNCH vây xung quanh máy bay, và hai xe vận tải 2 tấn ½ bít bùng của QLVNCH ở cạnh bên.
Thiếu tá điệp viên CIA Lucien Conein, Nguồn: OntheNet
Thiếu tá điệp viên CIA Lucien Conein, Nguồn: OntheNet
Greiner được Lucien Conein, một sĩ quan CIA nổi tiếng, đón tiếp và nói với ông, “Được rồi, Jerry. Từ đây để tôi lo.” Jerry đã khẳng định rằng Conein không phải là Đại sứ quán và nói với Conein rằng Lãnh sự đã ra lệnh giao ông Cẩn lại cho Đại sứ quán.

Conein nói, “Vâng, cứ làm theo cách ông muốn, nhưng đây là phương tiện vận chuyển của các ông.” Vì vậy, Greiner và ông Cẩn leo lên một trong những chiếc xe tải 2 tấn rưỡi. Bạt vải đã đóng lại, và họ lái xe đi. Sau khoảng 15-20 phút, xe vận tải dừng lại, tấm bạt cửa xe mở ra, và Greiner thấy ông đã ở giữa khoảng gần một tiểu đoàn của quân đội VNCH trong một căn cứ của quân đội VNCH, ở một nơi nào đó ở Sài Gòn.

Conein lại xuất hiện và nói, “Đây là đoạn cuối của con đường.”Greiner không còn lựa chọn nào khác hơn là phải chấp nhận hoàn cảnh lúc đó.
Đó là tất cả sự tham gia trực tiếp của tôi và của Lãnh sự quán Mỹ tại Huế trong chương “tị nạn” của ông Cẩn. Như lịch sử cho thấy, cuối cùng ông Cẩn đã bị chính quyền quân sự Việt Nam đem ra tòa án quân sự xử, bị kết án tử hình và đã bị xử bắn.

Suýt làm dê tế thần
Bị xử bắn?
<ngodinhcan02-900x820.jpg>
Ông Ngô Đình Cẩn, 53 tuổi, tại tòa án quân sự tại Sài Gòn, 23 tháng 4, 1964. Nguồn AP.
Bằng cách xử bắn. Những sự kiện này xảy ra ở Sài Gòn, và không có liên quan đến tôi – với một ngoại lệ.

Ngay sau khi xử bắn ông Ngô Đình Cẩn, đã có rất nhiều người ở Hoa Kỳ bất bình, phần lớn từ các cộng đồng Công giáo, nhưng những cũng có những người khác, những người thấy rằng gia đình họ Ngô đã phải chịu đựng quá đủ sau cuộc đảo chính, với ông Diệm và ông Nhu đã bị giết. Nó cho thấy Mỹ đã liên can vào vấn đề này bằng cách bắt ông Cẩn, giao ông lại cho chính quyền mới của Việt Nam, và sau đó “đứng yên” trong khi ông bị kết án và xử tử. Điều này với người Mỹ là hành động, chính sách sai lầm của Mỹ – hoặc một sự kết hợp của cả hai, hành động và không hành động.

Một người bạn của tôi, Larry Pezzulo, Tùy viên ở tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, sau đó nói với tôi về một sự kiện đã xảy ra khoảng hai ngày sau khi ông Cẩn bị xử bắn. Pezzulo liên can đến vụ việc này vì ông ấy là Tùy viên Trực của Đại sứ quán vào thời điểm đó. Một bức điện “khẩn cấp” gởi đến Đại sứ quán, trong khi Larry Pezzulo đang trực, và phải gửi đến ngay cho Đại sứ Henry Cabot Lodge. Pezzulo đem bức điện khẩn đến tư dinh của Đại sứ Lodge.

Tại nhà Đại sứ đâu đó ở Saigon, Đại sứ Lodge và Phó trưởng phái đoàn ngoại giao Mỹ, Bill Trueheart, đang trong bữa ăn.

Pezzulo gọi họ ra khỏi bữa ăn tối, cho họ xem bức điện tín, và cả hai cùng đọc. Đại sứ Lodge và Bill Trueheart dường như rất quan tâm vì họ đang bi “rắc rôi” chính trị. Theo lời Pezzulo kể với tôi thì Đại sứ Lodge hỏi Bill Trueheart, “Ông nghĩ chúng ta phải làm gì về vấn đề này?”Trueheart nói, trước mặt Pezzulo, rõ ràng là chúng ta cần một vật tế thần – một con dê để đổ lỗi. Trueheart được cho rằng đã nói,“Rõ ràng, Lãnh sự của chúng ta ở Huế có thể là một khả năng dùng được.”

Pezzulo hoảng hốt trước nhận định này, vì anh ấy biết rất rõ chuyện ông Cẩn với tôi. Chúng tôi đã thảo luận về vấn đề ông Ngô Đình Cẩn ở Sài Gòn trong một chuyến tôi về Sài Gòn sau cuộc đảo chính nhưng trước các sự kiện của buổi tối đặc biệt này xảy ra. Nhưng kết cuộc không có chuyện gì xảy ra cả. Đó là một dấu hiệu nữa cho tôi thấy người ta không những cần nhiều may mắn, mà còn phải cẩn thận, để có thể thoát khỏi một số vấn đề có thể gây nguy hiểm cho sự nghiệp ngoại giao của mình.

Ông đã bao giờ tìm biết về nội dung bức điện tín đó hay không? Ông đã bao giờ nhìn thấy nó chưa?

Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó.

Ông có bất kỳ ý tưởng nào về nội dung của bức diện tín không?

Đó là một bức điện tín từ Bộ Ngoại giao cho hay về sự “náo động” ở Hoa Kỳ về trường hợp ông Ngô Đình Cẩn. Đại sứ quán đã được yêu cầu của Bộ Ngoại Giao đề nghị những phương án cho Hoa Thịnh Đốn ứng xử trước tình hình “náo động” này. Tôi có thể nói rằng, trong những năm giữa thập niên 1960, sau khi tôi đã trở về Hoa Kỳ và đã làm việc về các vấn đề Việt Nam, tôi đã có dịp thảo nhiều câu trả lời cho rất nhiều thư từ của công chúng và yêu cầu của Quốc hội. Trong nhiều trường hợp thuộc những vấn đề mà tôi phụ trách là những sự việc liên quan đến vụ ông Ngô Đình Cẩn vì có nhiều người ở Mỹ tiếp tục đặt vấn đề với những gì họ coi là một “hành động bội bạc” của Hoa Kỳ và vẫn còn phàn nàn về nó. Vì tên của tôi bị coi là có liên quan đến sự kiện đó, trong nhiều bài viết khác nhau vào thời điểm đó, tôi đã thường xuyên trả lời thư, không phải cho chính tôi, mà với chữ ký của những người chức cao hơn tôi, trả lời những vấn đề mà trong đó tôi đã bị buộc tội. Đây không phải là điều mà tôi phải lo lắng nhiều, nhưng nó là một chú thích cho sự việc này.

Có vẻ những việc đó không làm tổn thương ông nhiều lắm. Đề nghị của ông phù hợp với Cẩm nang Ngoại giao và là một đề nghi đúng, đúng về cả lịch sử và truyền thống của chúng ta. Tôi nghĩ rằng quyết định đầu tiên cấp tị nạn cho ông Thích Trí Quang trong Đại sứ quán sau cuộc tấn công chùa ngày 21 tháng 8 (1963) là một sai lầm. Quyết định cấp tị nạn cho Hồng Y Mindszenty ở Hungary trong tòa công sứ của chúng ta ở Budapest sau Cuộc nổi dậy ở Hungary năm 1956 cũng là một sai lầm. Tôi nghĩ rằng quyết định cho ông Ngô Đình Cẩn tị nạn tại Lãnh sự quán tại Huế là một sai lầm. Chúng ta không thể hành động như thế. Đó không phải là truyền thống hay tập tục của chúng ta…

© 2015 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net

Nguồn:1. Thomas F. Conlon, Interview JOHN J. HELBLE, The Association for Diplomatic Studies and Training Foreign Affairs Oral History Project, April 5, 1996, pp 87-93, Copyright 1998 ADST.
2. FRUS, 1961-1963, Volume IV, Vietnam, August-December 1963, 291. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State, November 4,1963 8 p.m.
3. FRUS, 1961-1963, Volume IV, Vietnam, August-December 1963, 292. Telegram From the Consulate at Hue to the Department of State, November 4,1963 10 p.m.
--


__._,_.___

Posted by: Nhon Huynh <huynhthanhnhon07@gmail.com>


Đảng Dân chủ trả thù VNCH Nguyên nhân và hậu quả

$
0
0

From: Viet<vietn

 

Đảng  Dân chủ trả thù VNCH Nguyên nhân và hậu quả

Tác Giả:
Trọng Đạt
-
alt
TT Nguyễn Văn Thiệu. Ảnh minh họa, nguồn Kienthuc

Giữa  tháng 4-1975 miền nam Việt Nam kiệt quệ  tiếp liệu đạn dược, Quốc hội Dân chủ Mỹ đã bác bỏ khoản viện trợ khẩn cấp 722 triệu do TT Ford đưa ra để giúp Việt Nam Cộng Hòa, quyết định đã  khiến Cộng sản Bắc Việt tiến vào Sài gòn y như vào chỗ không người. Biến cố lịch sử này mọi người đều biết cả, hành động cạn tầu ráo máng của họ đã có nguyên nhân. Có người cho vì trong cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ năm 1968, ông Thiệu đã nghe lời khuyên của ứng cử viên Nixon (Cộng Hòa) không tham gia cuộc Hòa đàm Paris tháng 11-1968 khiến Dân Chủ thất cử năm đó. (1)

Xin sơ lược vấn đề: năm 1965 Tổng thống Johnson đưa quân ồ ạt vào bảo vệ miền nam VN chống Cộng Sản xâm lược, tới cuối năm quân số Mỹ lên tới gần 200,000 người. Johnson tiếp tục tăng quân cho tới 1968 tổng số đã lên tới hơn nửa triệu. Cuộc chiến kéo dài, số lính Mỹ chết trận tính tới năm 1968 tổng cộng trên ba mươi ngàn khiên phong trào phản chiến lên cao dữ dội.  Tháng 3-1968 CS Hà Nội chịu thương thuyết tại Paris sau khi thảm bại trận Mậu Thân tết 1968, Johnson tuyên bố không ra tranh cử nhiệm kỳ hai (tháng 11-1968) vì biết trước cử tri sẽ không bầu cho ông.

Hòa đàm Paris khai mạc tháng 5-1968 giữa Mỹ và CSBV, VNCH chưa chịu tham gia vì chống sự hiện diện của Mặt trận giải phóng (VC). Hai bên Mỹ-Hà Nội đang bàn thảo về thành phần Hội nghị dự trù chính thức khai mạc đầu tháng 11-1968 sẽ có đủ bốn bên Mỹ, VNCH, CSBV và Mặt trận giải phóng. Trong khi ấy cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ đang diễn ra sôi nổi, phó TT Humphrey đại diện đảng Dân chủ, Nixon đại diện Cộng hòa.

Ông Thiệu phản đối không tham dự Hòa đàm vì Mỹ để phái đoàn Việt Cộng tham  dự. Nixon nhân cơ hội cử sứ giả (bà Anna Chennault, người Hoa) sang Sài Gòn khuyến khích ông Thiệu đừng tham gia Hội nghị, chờ Nixon thắng cử (vào đầu tháng 11-1968) ông sẽ giúp VNCH tích cực hơn là Dân Chủ.

Kết quả bầu cử ngày 5-11 là Nixon (Cộng hòa) thắng cử với 301 phiếu cử tri đoàn trên 32 tiểu bang, Humphrey được 191 phiếu trên 13 tiểu bang và DC, Wallace (ucv độc lập) được 46 phiếu, trên 5 tiểu bang, Nixon thắng cử với tỷ lệ 56%. TT Johnson kết án ông Thiệu vì không tham dự hòa đàm nên Humphrey (Dân chủ) thất cử, ông đã cho nghe lén và biết là ứng cử viên Nixon đã âm mưu cử sứ giả sang Sài Gòn thuyết phục ông Thiệu không tham dự Hòa đàm Ba Lê. GS Nguyễn Tiến Hưng cho biết năm 1985 tại Luân Đôn ông Thiệu kể lại rằng hồi ấy (1968) nếu Humphrey (DC) đắc cử thì nửa năm sau sẽ ép miền nam VN liên Hiệp với CS để họ rút quân, ông Thiệu đi với Nixon (CH) còn hy vọng hơn. Tôi tin là ông Thiệu nói đúng, chẳng thà theo Cộng Hòa còn hy vọng tồn tại một thời gian.

Từ đó đảng Dân chủ thù ghét VNCH, cho rằng vì ông Thiệu mà họ thất bại. Tác giả Trần Đông Phong cho biết tháng 4 năm 1975 (2) Quốc hội Mỹ do Dân chủ kiểm soát đã cắt bỏ hoàn toàn quân viện miền nam VN để trả thù việc ông Thiệu 7 năm trước (1968) đã ủng hộ Cộng hòa và giúp Nixon thắng cử. Ông Phong nói một số dư luận tại Washington hồi đó nhận định như thế, ông trích dịch cuốn A Better War của Lewis Sorley trang 366: “….Quốc hội Mỹ đã sắp xếp chuyện đó với một sự trả thù”

Theo tôi nghĩ ông Thiệu chỉ là Tổng thống một nước nhược tiểu rất khó có thể gây ảnh hưởng tới cán cân tranh cử nước Mỹ và đã viết riêng một bài về chuyện này (3). Lý do chính mà Dân chủ thất cử vì đã làm hai nhiệm kỳ (1960-68) đã lãnh đạo cuộc chiến tồi tệ, gây thiệt mạng cho hơn 30,000 lính Mỹ, bị dân chống đối.. Cử tri bầu cho Cộng hòa để tìm hòa bình, rút ra khỏi cuộc chiến. Chẳng lẽ đảng Dân chủ lại nói sở dĩ người dân không bầu cho chúng tôi vì họ quá chán cuộc chiến, quá chán đảng Con Lừa … mà phải đổ thừa ông Thiệu cho nó đỡ quê. Ngày nay năm 2017, Dân chủ lại đổ thừa cho ông Putin đã làm họ thất cử, cũng lại  nói cho đỡ mắc cở.

Dù ông Thiệu có gây ảnh hưởng tới cuộc tranh cử hay không nhưng ông ta đã theo phe đối thủ Cộng hòa năm 1968, đã phản lại Dân chủ vì TT Johnson (DC) đã giúp chính phủ Thiệu-Kỳ từ 1965 cho tới 1968 nên họ coi như ông Thiệu đã phản bội họ Tôi nghĩ không phải đợi tới năm 1975 họ mới báo thù, mà ngay sau khi TT Nixon (Cộng hòa) nhậm chức năm 1969. Theo lời kể của Kissinger (4) khi Nixon vào Tòa Bạch Ốc (1969), những người đã đưa quân can thiệp vào VN (Dân chủ) mới đầu đứng trung lập (giữa phản chiến và chính phủ) sau quay ra a dua với bọn chống chiến tranh, kết tội Nixon hiếu chiến….

Nói về chớp thời cơ thì Dân chủ là hạng nhất, năm 1965 họ thăm dò thấy tỷ lệ ủng hộ cuộc chiến rất cao VN vội đưa quân ồ ạt vào, nay phong trào phản chiến rất mạnh lại nhẩy hùa theo bọn phá hoại…cái gì thì dở nhưng mị dân thì họ vào hạng nhất.

Trong suốt thời kỳ chiến tranh VN Dân chủ đều nắm Quốc hội dù Hành pháp thuộc đảng nào (5), họ thao túng Lập pháp nhất là từ cuối thập niên 60. Năm 1970 khi TT Nixon cho tấn công qua biên giới Miên để phá hủy các căn cứ CSBV và VC, đáng lý ra ông có thể quét sạch được Cộng quân trên đất Chùa Tháp nếu không bị Dân chủ phản chiến và truyền thông đánh phá ngăn cản mà chỉ được phép tiến vào đất Miên vài chục cây số.

Năm sau 1971, trong cuộc hành quân sang Lào, Quốc hội Dân chủ cấm không cho quân Mỹ vượt qua biên giới cùng quân đội VNCH kể cả cố vấn nên chiến dịch đã không được thành công.

Năm 1972 Quốc hội Dân chủ chống đối chiến tranh và tỏ ra thù hận VNCH rõ nét hơn trước, cuối tháng 11-1972, ông Nguyễn Phú Đức, phụ tá đặc biệt ngoại vụ của TT Thiệu được cử đi Washington để họp với Kissinger, Tướng Haig, TT Nixon  về việc ký kết Hiệp định Paris. Trong phiên họp phía Mỹ cho biết VNCH phải chấp thuận bản Dự thảo Hiệp định nếu không sẽ đưa tới việc bị Quốc hội cắt hết viện trợ (6). Nguyễn Phú Đức mang theo những điều khoản của TT Thiệu (đòi CSBV phải rút về Bắc) và nói rõ ông ta không sợ Kissinger, Tướng Haig dọa cắt viện trợ. TT Nixon có nói với NP Đức nếu ông Thiệu không hòa hợp với chính phủ Mỹ để ký Hiệp định sẽ không xin được viện trợ. Nixon nói ông đã được các vị Trưởng khối tại Quốc hội như John Stennis, Barry Goldwater, Gerald Ford.. cảnh cáo cho biết nếu VNCH không thuận ký thì Quốc hội sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh đưa ra Hạ viện với tỷ lệ 2-1, để đổi lấy tù binh và rút quân về nước. TT Nixon nói thật chứ không dọa, Quốc hội Dân chủ lúc này sẵn sàng bức tử miền nam VN nếu ương ngạnh với họ.

Ngay từ tháng 10-1972, khi Kissinger đưa ra bản dự thảo trong đó Hà Nội đã chịu nhượng bộ những điểm chính như: không đòi lật đổ chính phủ Thiệu, không đòi liên hiệp.. nhưng họ vẫn đóng quân tại miền Nam, không rút về Bắc. Ông Thiệu cương quyết chống đối bản dự thảo, Nixon mới đầu ủng hộ VNCH sau đó bị các vị chức sắc Quốc hội đe dọa ra luật chấm dứt chiến tranh nếu ông Thiệu không chịu ký, họ cảnh báo TT Nixon như vậy. Quốc hội cho bản Hiệp định như thế là được rồi, không được đòi hỏi thêm kéo dài thời hạn ký kết.

Sang tháng 12, phái đoàn CSBV cố tình phá hòa đàm, không chịu thương thuyết nghiêm chỉnh, họ hy vọng Quốc hội mới của Mỹ họp đầu năm (đầu tháng 1-1973) sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ miền nam VN theo yêu cầu BV để đổi lấy tù binh, sau đó rút quân về nước. TT Nixon đã phải dùng sức mạnh tối đa để đưa Hà Nội trở lại bàn hội nghị bằng 200 pháo đài bay B-52 oanh tạc liên tực 11 ngày đêm, dội 20 ngàn tấn bom xuống miền Bắc VN Ông ta sợ nếu BV không trở lại bàn hội nghị Quốc hội có thể ra luật chấm dứt chiến tranh.

Sau ngày oanh tạc Giáng Sinh, sang tháng 1-1973 Quốc hội Dân chủ luôn hăm dọa ra luật chấm dứt chiến tranh nếu Hiệp định bị trở ngại. Ngày 2-1-1973 Hạ viện Dân chủ bầu nội bộ với  lệ 154 thuận và 75 chống để cắt hết viện trợ mọi hoạt động quân sự ở Đông dương vừa khi rút quân về nước và lấy lại tù binh. Hai ngày sau, Dân chủ Thượng viện bầu nội bộ cũng thông qua Dự luật tương tự với số phiếu 36 thuận và 12 chống. (7)

Người ta thường nghĩ TT Nixon và Kissinger hăm dọa, bắt ép ông Thiệu ký kết Hiệp định Paris với điều khoản bất lợi cho VNCH (Cộng quân không phải rút về Bắc) sự thực không phải như vậy. Quốc hội Dân chủ đã bắt ép Nixon phải ký sớm hiệp định nếu không  muốn bị cắt hết nguồn tài chính quân sự cho Đông Dương. Chúng ta thấy rõ tháng 1 năm 1973 họ cương quyết hơn trong áp lực VNCH phải chấp nhận ký một hiệp ước bất bình đẳng.
Tác giả, Giáo sư Mark Clodfelter nói

“Ta không biết Quốc hội có cắt viện trợ VNCH hay không nếu không có trận oanh Giáng sinh (cuối tháng 12-72) nhưng sau trận oanh tạc, Lập pháp phẫn nộ và việc cắt viện trợ miền Nam chắc chắn sẽ xẩy ra nếu TT Thiệu từ chối ký kết Hiệp định. Nhà lãnh đạo miền Nam (tức ông Thiệu) không dám liều lĩnh như vậy, không có viện trợ, không thể sống còn. Ông ta đồng ý ký nhưng sau hạn chót của TT Nixon”(8)

Nhận xét của GS Mark Clodfelter cho thấy Dân chủ sẽ thẳng tay trừng trị VNCH không thương tiếc trong trường hợp ông Thiệu không chịu ký Hiệp định (vào tháng 1-73) và ông Thiệu là người biết rõ hơn ai hết, mặc dù ông lớn tiếng chỉ trích Kissinger, Nixon bắt ép miền Nam ký Hiệp định nhưng thực ra ông không dám liều lĩnh với Quốc hội Dân chủ. VNCH thắng trong trận tấn công 1972 mà như thua vì Dân chủ muốn như vậy, họ không đếm xỉa gì tới sự tồn tại của miền Nam mà chỉ quan tâm đến hòa bình, lấy tù binh, rút quân về nước.

Như thế ông Thiệu phải chấp nhận một Hiệp định bất bình đẳng (BV vẫn đóng quân ở miền nam) không phải vì sợ TT Nixon dọa chặt đầu hay đảo chính mà là vì biết Quôc hội Dân chủ sẽ thẳng tay bức tử VNCH ngay khi đó. Hơn ai hết ông Thiệu biết rõ sự  thật phũ phàng này, chẳng thà ký kết còn hy vọng sống sót thêm ít năm vẫn hơn là để người ta bóp chết ngay lúc này.

Hiệp định Paris được ký kết ngày 27-1-1973, ngay sau đó CSBV vi phạm thỏa ước vì không bị oanh tạc, họ vội vã chuyên chở vũ khí, nhân lực vào nam trước mùa mưa (vào tháng 4), TT Nixon không dám oanh tạc vì còn chờ lấy tù binh vào tháng 3. Tại Căm Bốt, Khmer đỏ được BV giúp bao vây Nam Vang khiến Nixon phải oanh tạc mạnh để cứu chính phủ Lon Nol (9).

Kể từ sau ngày ký Hiệp định, Quốc hội Dân chủ thẳng tay triệt hạ VNCH ngày càng rõ nét, họ tích cực phản đối chính sách can thiệp của Nixon, ra tu chính án cắt ngân khoản quân sự cuối tháng 6-1973, Tổng thống miễn cưỡng ký thành luật có hiệu lực từ 15-8-1973. Nội dung như sau:

“Tu chính án này xác định từ nay không còn ngân khoản nào để yểm trợ trực tiếp, gián tiếp cho các hoạt động quân sự Mỹ tại Miên, Lào, Bắc VN, Nam VN hoặc ngoài khơi Miên, Lào, Bắc Việt, Nam Việt và từ sau ngày 15-8 sẽ không có ngân khoản nào khác của bất cứ Điều luật nào dành cho những mục đích này”.

Tu chính án trên coi như đã bức tử VNCH và cả Đông Dương  từ giữa năm 1973 vì Hành pháp Mỹ sẽ không có ngân khoản oanh tạc yểm trợ quân đội đồng minh. Như ta đã thấy, với hỏa lực, nhân lực yếu hơn CSBV, miền nam VN vẫn phải dựa vào B-52 của Mỹ. TT Nixon nói đạo luật này đã khiến ông bất lực không bảo vệ được Hiệp định tại VN và cho phép Hà Nội xâm chiếm VNCH thoải mái.

Về điểm này Giáo sư Robert F. Turner nói

Tôi xin nhắc lại cho quý vị trẻ biết sau khi bị bỏ bom tơi bời Hà Nội vội vã trở lại đàm phán tại Paris . Và mọi chuyện êm xuôi nếu chúng ta dùng máy bay B52 để trấn giữ hiệp định.Nhưng quốc hội với áp lực của “Phong trào Hòa Bình” đã thông qua dự luật vào tháng Năm 1973. Sẽ là bất hợp pháp nếu Tổng Thống sử dụng bất cứ đồng nào trong công quỹ cho cuộc chiến tại Việt Nam, Lào và Cambodia. Làm như vậy, Quốc hội đã chuyển thắng thành bại. Quốc hội phản bội lời cam kết lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các nước không Cộng sản tại Đông Dương(10)

Quốc hội Dân chủ liên tiếp ngay sau đó ra những quyết định thù nghịch miền nam, họ cắt giảm viện trợ quân sự xương tủy với VNCH  mỗi năm khoảng 50%: Từ  2,1 tỷ tài khóa  1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975 (11). Họ lý luận theo kiểu đạo đức giả nếu tiếp tục viện trợ quân sự, ông Thiệu sẽ vẫn gây chiến tranh.
Tháng 8-1974, TT Nixon từ chức vì vụ Watergate, phó TT Ford lên thay.

Miền Nam ngày càng suy yếu rõ rệt, 35% xe tăng, 50% thiết giáp, máy bay thiếu cơ phận thay thế phải nằm ụ. Hỏa lực giảm từ 60% tới 70% , tháng 3 -1975 đạn chỉ còn đủ xử dụng trong một tháng, tháng 4 chỉ còn đủ cho xài khoảng hai tuần (12). Đảng Dân chủ trả thù miền nam VN bằng lối giết người không dao đã khiến cho bao nhiêu đồng minh của họ ngã gục trước họng súng, hỏa lực vũ bão của quân thù.

Tình hình quân sự tháng 4-1975 của miền nam vô cùng bi đát, Tướng Weyand và Kissinger đề nghị TT Ford ra Quốc hội xin khoản viện trợ khẩn cấp 722 triệu cho VNCH, lúc này Dân chủ nắm đại đa số 67% Hạ viện và 60% Thượng viện, họ chống chiến tranh VN kịch liệt, đối với họ giờ là lúc phục thù.

Ngày 10-4-1975 TT Ford ra Quốc hội xin viện trợ cho VN, có hai dân biểu Dân Chủ Moffet và Miller bỏ ra khỏi phòng họp.

Ngày 18-4-1975, quân viện khẩn cấp 722 triệu bị Quốc hội bác, họ lý luận số ngân khoản này cũng chỉ kéo dài chiến tranh gây thêm tang tóc. TT Ford xin viện trợ nhân đạo để cứu người tỵ nạn khi CS đang xâm chiếm miền Nam, nhiều vị thuộc Dân chủ chống mạnh, đài VOA hồi đó cho biết Thượng nghị sĩ Joe Biden đã để lại câu nói bất hủ “cương quyết không cho một tên tỵ nạn VN nào vào Mỹ” sau này trong cuộc tranh cử TT năm 2008, cử tri VN hỏi ông về lời tuyên bố này thì ông chối ngay.

Trong khoảng thời gian này Kissinger tiên đoán:

“Chúng ta đang đối diện  với tấn thảm kịch vĩ đại, trong đó có cái gì liên quan tới uy tín, tới danh dự của Hoa Kỳ, tới cái mà các dân tộc khác trên thế giới sẽ nhìn chúng ta như thế nào  (13)
Tướng Weyand cũng đã phát biểu

“Uy tín lâu dài của Hoa Kỳ trên thế giới phụ thuộc vào nỗ lực thiện chí của ta cố gắng làm hơn là thành công hay thất bại trong lúc này, nếu ta không nỗ lực uy tín của ta như một đồng minh sẽ bị tiêu tan, có lẽ sẽ qua hết đời này sang đời khác”.(14)
Hoặc
“Uy tín của Hoa Kỳ với tư cách một đồng minh đang có nguy cơ bị mất tại Việt Nam . Để giữ uy tín ấy chúng ta phải cô gắng tối đa trợ giúp miền nam VN” (15)

Hành động thù ghét VNCH của Quốc hội Dân chủ ít nhiều cũng khiến đất nước họ phải trả giá: tại Đông nam Á ngày nay nhiều nước đồng minh của Mỹ đã có khuynh hướng ngả về Trung Cộng như Thái Lan, Phi Luật Tân, Mã Lai, Miên, Lào…người ta không còn dám tin tưởng vào sự bảo vệ của một siêu cường thất tín.

Xưa thì họ báo oán miền nam VN, kết án ông Thiệu giúp đảng Cộng Hòa thắng cử, nay lại kết án Putin giúp Donald Trump thắng cử và ra biện pháp trừng trị Nga …họ xóa sổ VNCH thì dễ nhưng chỉ đánh Nga bằng võ mồm.

Năm 1964, khi thấy thăm dò đại đa số người dân (78%, 85%) ủng hộ cuộc chiến VN (16) đảng Con Lừa vội đem đại binh đổ bộ vào ngay. Bốn năm sau (1969) khi thấy phong trào chống đối lên mạnh họ vội hùa theo bọn phản chiến đánh phá Chính phủ đối lập cật lực ngay từ năm 1969, 70…

Nhưng nay chiến lược mị dân kiếm phiếu đã hoàn toàn sụp đổ, sự thảm bại của Con Lừa trong cuộc tranh cử 2016 vừa qua cho thấy gió đã đổi chiều.

Từ nhiều thập niên trước, đảng Con Lừa được truyền thông, quyền lực thứ tư yểm trợ hết mình và có phương tiện mạnh để trấn áp đối phương, tiếc thay truyền thông cũng vừa hết thời oanh liệt. Nay internet, mạng xã hội Facebook, Tweeter…. ngày càng bành trướng khiến truyền thông mất dần địa vị độc tôn. Năm 1968 sau trận Mậu Thân, Walter Cronkite giám đốc chương trình CBS sang VN về chỉ phán một câu chỉ trích cuộc chiến thất bại thế là phong trào phản chiến bùng lên dữ đội đưa Đông Dương tới chỗ sụp đổ tan tành năm 1975
Trước đây, năm 2008 truyền thông có thể đưa một người da mầu không ai biết tới như ứng cử viên Obama lên làm Tổng thống, đánh bại cả hai nhà chính trị da trắng tiếng tăm như Hillary Clinton, John McCain.  Nay gió đã đổi chiều, mặc dù 90% TV, báo, đài… tập trung hỏa lực yểm trợ tối đa cho đảng Con Lừa năm 2016 nhưng thay vì chiến thắng vinh quang chỉ là thất bại ê chề.

.. Nhà Phật gọi là vô thường…chẳng có gì là thường còn. …

Trọng Đạt
——————————————–

(1) Chuyện này đã được GS Nguyễn Tiến Hưng kể lại trong Chương Một của cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy năm 2005 và  năm sau 2006 ông Trần Đông Phong cũng bàn kỹ về đề tài này trong cuốn Việt Nam Cộng Hòa, 10 Ngày Cuối Cùng (từ trang 41 tới trang 69)
(2) VNCH, 10 Ngày Cuối Cùng trang 41, 42
(3) Ông Thiệu và cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ tháng 11- 1968
(4) White House Years, Chương VIII, trang 227
(5) Composition of Congress, by Political Party, 1855–2017:
1961, Hạ viện DC 60%, Thượng viện DC 64%, năm 1968, Hạ Viện DC 56%, Thượng viện DC 57%, 1972 Hạ viện DC 55%, Thượng viện DC 57%
(6) Larry Berman: No Peace, No Honor.. trang 198, 200.
(7) Nixon: No More VN trang 169, 170; Larry Berman:  No Peace No Honor trang 221
(8) Mark Clodfelter: The Limits of Air Power trang 200
(9) Richard Nixon: No More Vietnams trang 175-180
(10) Trích trong bài Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dươngcủa GS Robert F. Turner(bản dịch đăng trên nhiều trang mạng)
(11) Nixon: No More Vietnams trang 185-186, Henry Kissinger: Years of Renewal trang 471
(12) Nixon: No more Vietnams trang 187, Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối VNCH trang 82, 83, 91, 92, Phillip B. Davidson: Vietnam At War , The History 1946-1975 trang 748
(13) Walter Isaacson: Kissinger a Biography trang 641,642
(14) Walter Isaacson: Kissinger a Biography trang 640,641
(15) Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam trang 266.
(16) Karnow: Vietnam a History trang 390; Answer.com, domino theory

Lịch Sử




__._,_.___

Posted by: H Duong
Viewing all 674 articles
Browse latest View live